Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.94 KB, 83 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Có thể khẳng định rằng, sau hơn một thập niên thực hiện công cuộc đổi
mới, cùng với khu vực kinh tế quốc doanh khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã
có những bước phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định được vị trí và
vai trò của mình trong nền kinh tế, hàng năm khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
đóng góp khoảng 60% - 65% vào GDP, 40% - 45% cho ngân sách nhà nước và
thu hút hơn 80% lao động cho xã hội.
Nhờ có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, DNNQD mới thực
sự có điều kiện để phát huy lợi thế của mình trong cơ chế mới. Với đặc điểm
hoạt động linh hoạt, năng động và có tính tự chủ cao DNNQD đã nhanh chóng
hoà nhập với kinh tế thị trường, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, góp phần
kiềm chế lạm phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp và là đối tác cạnh tranh sôi động với
DNNN, góp phần tích cực vào sự phồn vinh của đất nước.
Vai trò và vị trí quan trọng của DNNQD đòi hỏi phải có cơ chế và chính
sách thích hợp tạo điều kiện cho DNNQD phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng, thế
mạnh của mình. Trên thực tế, trong những năm gần đây nhận thức được tiềm
năng to lớn của DNNQD các NHTM đã đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với
các doanh nghiệp này tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và mở rộng hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ
nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh
Hưng Yên em nhận thấy rằng hoạt động cho vay đối với DNNQD chưa tương
xứng với nhu cầu vốn thực tế của các doanh nghiệp này. Vì vậy sau một thời
gian nghiên cứu nắm bắt tình hình thực tế em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp mở
rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hưng Yên” với mong muốn
góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc tìm ra các giải pháp để mở
rộng cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên. Nội
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


dung đề tài là một vấn đề rộng và phức tạp vì vậy chuyên đề này sẽ không tránh
khỏi những khiếm khuyết. Em mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, của
ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng
Yên, đồng thời em cũng mong nhận được những đóng góp của các bạn sinh viên
để bài viết của em được hoàn thiện và có thực tiễn hơn.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1
DOANH NGHIệP NGOàI QUốC DOANH VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG
TRONG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI
QUỐC DOANH
I. DNNQD trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1. Khái niệm, phân loại, đặc điểm và vai trò của DNNQD trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam
1.1. Khái niệm về DNNQD
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
DNNQD là một bộ phận của nền kinh tế, lấy sở hữu tư nhân làm nền tảng,
được tồn tại lâu dài, được bình đẳng trước pháp luật và có tính sinh lợi hợp pháp
chủ động trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ của pháp
luật.
Xuất pháp từ hình thức sở hữu của DNNQD, Nhà nước không cấp vốn
hoạt động cũng như không tái cấp vốn mà vốn hoạt động của DNNQD là vốn do
tư nhân bỏ ra hay một nhóm các thành viên là các tổ chức, cá nhân góp lại. Số
tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào qui mô ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh
doanh theo quy định của pháp luật (đựơc quy định trong luật doanh nghiệp). Mặt
khác, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, DNNQD phải chịu trách
nhiệm hữu hạn, vô hạn hay hỗn hợp cả vô hạn và hữu hạn. Điều đó tuỳ thuộc
vào đặc trưng của từng loại hình sản xuất kinh doanh của DNNQD mà các cá

nhân, tổ chức tham gia trong đó.
1.2. Phân loại DNNQD
*Nếu căn cứ vào mức độ trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh
doanh thì DNNQD bao gồm các doanh nghiệp chiụ trách nhiệm hữu hạn (công
ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã…), các doanh nghiệp chịu trách nhiệm
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hỗn hợp (công ty hợp vốn đơn giản là công ty trong đó có một thành viên nhận
vốn chịu trách nhiệm vô hạn còn các thành viên góp vốn khác chịu trách nhiệm
hữu hạn trên phần vốn đóng góp mà thôi).
*Nếu chia theo tính chất sở hữu vốn, DNNQD bao gồm các loại hình
doanh nghiệp sở hữu một chủ (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH 1 thành
viên), sở hữu nhiều chủ (công ty cổ phần, công ty TNHH có từ 2 thành viên trở
lên, hợp tác xã...).
Tuy nhiên dù phân loại theo hình thức nào thì DNNQD cũng bao gồm các
loại hình sau: Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác
xã.
- Doanh nghiệp tư nhân: Điều 99 luật doanh nghiệp quy định “Doanh
nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Công ty TNHH: là doanh nghiệp gồm không quá 50 thành viên góp
vốn thành lập, thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh
nghiệp.
- Công ty cổ phần: là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được hình thành
từ nhiều phần vốn góp bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ
đông, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Hợp tác xã: là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu
cầu, có lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của

pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và từng xã viên nhằm giúp nhau
thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện
đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.3. Đặc điểm của DNNQD ở Việt Nam
Bắt đầu hình thành và phát triển từ năm 1986 cho đến nay, trải qua một
giai đoạn hơn mười năm các DNNQD nước ta có những đặc điểm sau:
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Quy mô vốn nhỏ bé:
Nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế chậm phát triển, không có
sự năng động do đó khẳ năng tích luỹ vốn nội bộ rất thấp. Người dân vẫn chưa
có thói quen để đồng tiền nhàn rỗi của mình có thể sinh lời bằng cách đầu tư vào
sản xuất kinh doanh, mà chỉ gửi tiền tiết kiệm vào Ngân hàng hoặc giữ tiền ở
nhà. Các DNNQD dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên nguồn vốn
mang tính chất nhỏ hẹp, mặt khác thâm niên tồn tại chưa lâu nên chưa có điều
kện để tích luỹ vốn. Nguồn vốn hoạt động chủ yếu là đi vay từ bạn bè, vay tư
nhân, vay Ngân hàng và các TCTD khác. Song do uy tín của các DNNQD chưa
cao nên việc vay vốn gặp rất nhiều khó khăn, mặc dù đã có nhiều văn bản của
chính phủ, NHNN quy định về việc mở rộng cho vay đối với khu vực này. Hầu
hết các DNNQD có quy mô vừa và nhỏ (theo Nghị định số 90/2001/NĐ - CP
của Chính Phủ định nghĩa thì doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không qúa 10 tỷ đồng hoặc số
lao động trung bình hàng năm không quá 300 người). Thực tế số DNNQD có số
vốn sử dụng dưới 10 tỷ đồng chiếm 70%, bình quân số vốn thực tế sử dụng 1
DNNQD là 4,7 tỷ đồng, lao động bình quân của DNNQD là 36 người. Mức
trang bị tài sản trên 1 lao động chỉ có 44,7 triệu đồng. Lượng vốn tự có của các
doanh nghiệp chỉ đáp ứng từ 30% đến 40% yêu cầu.
Vấn đề thiếu vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh kéo theo các đặc điểm
về trình độ công nghệ lạc hậu, môi trường kinh doanh không thuận lợi.
* Trình độ kỹ thuật công nghệ sản xuất lạc hậu:

Do quy mô vốn hạn chế cùng với việc thiếu thông tin về công nghệ, sự
hạn chế trong việc áp dụng công nghệ tiên tiến dẫn đến trình độ công nghệ của
các DNNQD nhìn chung là không đồng bộ. Hầu hết là các thiết bị đều cũ kỹ, lạc
hậu, phần lớn là máy cũ tân trang lại, tuổi của các máy móc thiết vào khoảng 20
tuổi. Theo số liệu điều tra của viện quản lý kinh doanh trung ương năm 2003 thì
chỉ có 25% doanh nghiệp sử dụng công ngệ tương đối hiện đại, 38,5% doanh
nghiệp sử dụng công nghệ cổ truyền, 36,5% doanh nghiệp kết hợp cả công nghệ
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cổ truyền và hiện đại. Do trình độ công nghệ quyết định đến năng suất lao động
và chất lượng sản phẩm nên sản phẩm của DNNQD làm ra có sức cạnh tranh
kém trên thị trường.
* Môi trường sản xuất kinh doanh không thuận lợi, thị trường tiêu thụ
sản phẩm nhỏ bé, bấp bênh:
Kể từ năm 1986 cho tới nay hàng loạt các chính sách, chủ trương liên
quan đến phát triển DNNQD đã được ban hành tạo ra cơ sở pháp lí cho các
DNNQD hoạt động như luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990; luật
doanh nghiệp năm 2000. Nhưng để tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho kinh doanh
thì vẫn còn thiếu như luật chống độc quyền, luật doanh nghiệp vừa và nhỏ...
Mặc dù quyền bình đẳng pháp lí giữa DNNN và DNNQD đã được thừa
nhận nhưng trong các chính sách kinh tế, điều này vẫn chưa nhất quán, đặc biệt
trong chính sách thuế, tín dụng, vốn, mặt bằng...
Một khó khăn lớn của các DNNQD là thị trường tiêu thụ nhỏ hẹp không
ổn định, mặc dù thị trường trong nước có nhu cầu khá lớn, nhưng do vốn đầu tư
ban đầu ít, công nghệ sản xuất lạc hậu nên sản phẩm của DNNQD làm ra có sức
cạnh tranh kém ngoại trừ một số mặt hàng truyền thống có uy tín. Cùng với đó
là sự cạnh tranh khốc liệt của hàng ngoại nhập tràn lan, hàng nhập lậu với giá rẻ.
Mặt khác, các doanh nghiệp ít có sự giao lưu trên thị trường quốc tế, thiếu hiểu
biết về công nghệ mới, về kiến thức kinh doanh và pháp luật quốc tế dẫn tới
nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phá sản.

* Trình độ quản lý kinh doanh kém đặc biệt là trình độ yếu kém trong
việc lập kế hoạch tài chính, năng lực của người lao động thấp.
Việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh có
hiệu quả phụ thuộc và nhiều nhân tố: trình độ, kinh nghiệm quản lý kinh doanh,
khả năng dự đoán về sự biến động của ngành, của nền kinh tế... Người chủ của
các DNNQD đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu quản trị bằng
kinh nghiệm, theo cách suy nghĩ hiểu biết riêng của mình. Nhiều người trong số
họ chưa qua đào tạo trường lớp nên ít am hiểu về pháp luật, yếu kém về năng
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lực và kiến thức vì vậy rất khó khăn trong việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng
các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, trong khi thói quen sử dụng các dịch
vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp chưa hình thành.
Các sổ sách kế toán của DNNQD thường quá đơn giản, không cập nhật,
không đầy đủ và không chính xác. Do vậy, việc đánh giá các doanh nghiệp (để
Ngân hàng quyết định cho vay) thực sự khó khăn đối với Ngân hàng, nhất là
hiện nay sổ sách của các doanh nghiệp hầu hết đều chưa được kiểm toán.
Thêm vào đó đội ngũ lao động trong các DNNQD nói chung đều có kỹ
năng thấp, rất ít được qua đào tạo, hầu hết là lao động phổ thông. Điều này cũng
là đặc điểm chung của đội ngũ lao động ở nước ta ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các đặc điểm trên đây chính là những yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho Ngân
hàng khi cho vay, vì thế để có thể tiếp cận được vốn tín dụng DNNQD cần khắc
phục những nhược điểm và phát huy những lợi thế của mình. Cũng như Ngân
hàng khi cho vay cần thẩm định khách hàng một cách kỹ lưỡng, tư vấn cho khách
hàng nhằm tránh các thiệt hại có thể xảy ra.
1.4. Vai trò của các DNNQD trong tiến trình đổi mới
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ra đời và phát triển trong nền kinh tế
thị trường, các DNNQD chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ nên rất linh hoạt, nhạy
bén thích ứng nhanh chóng với sự biến động của thị trường. Nó huy động tối đa

nguồn vốn trong dân cư để phát triển kinh tế đất nước. Với tính tự chủ và khả
năng thích nghi cao, DNNQD đóng một vai trò không thể thiếu được trong nền
kinh tế, thể hiện qua các mặt sau:
* DNNQD góp phần thu hút tối đa mọi nguồn vốn trong dân, giải quyết
nạn thất nghiệp tạo ra sự phát triển cân đối trong nền kinh tế.
- Trình độ lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp, trong khi tiềm năng
phát triển còn lớn song khả năng khai thác còn hạn chế. Sự độc chiếm của hình
thức sở hữu Nhà nước và tập thể không cho phép khai thác những tiềm năng lớn
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đó của đất nước, do đó vẫn còn một lượng vốn lớn còn nằm trong dân cư. Chỉ có
con đường phát triển DNNQD mới có thể khai thác chúng.
- DNNQD tham gia vào hầu hết các ngành kinh tế từ công nghiệp, thương
mại đến dịch vụ, với đặc tính nhạy bén, tổ chức gọn nhẹ nên đã thu hút được rất
nhiều lao động có trình độ khác nhau. Đặc biệt trong quá trình cải cách các
DNNN đã nảy sinh một số vấn đề như thất nghiệp, sự bỏ ngỏ một số ngành kinh
tế và khu vực do nhà nước không đủ sức đảm trách hoặc không có tầm quan
trọng sống còn. Chính các DNNQD với đặc tính của mình sẽ tạo ra công ăn việc
làm giải quyết các vấn đề thất nghiệp, điều tiết lực lượng phân giải trên các khu
vực còn nhiều khoảng trống góp phần dãn cách, điều hoà nhu cầu lao động. Sự
hoạt động đa dạng trên nghiều ngành nghề của các DNNQD đã tạo ra sự phát
triển cân đối cho nền kinh tế.
* DNNQD phát triển tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Với đặc điểm là được tổ chức gọn nhẹ, ít nhân công, dây chuyền công
nghệ đơn giản, có mối quan hệ sẵn có về cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ
sản phẩm nên DNNQD có đặc điểm nổi bật là năng động, linh hoạt thay đổi
nhanh mặt hàng và phương hướng kinh doanh, Do vậy các DNNQD đáp ứng
khá nhanh nhậy các nhu cầu phong phú, đa dạng của thị trường, từ đó tạo ra
ngày càng nhiều lợi nhuận đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà
nước. Trên thực tế DNNQD đóng góp mỗi năm khoảng 40% - 45% vào ngân

sách Nhà nước.
* DNNQD tạo ra nhiều hàng hoá cho tiêu dùng và cho xuất khẩu.
Theo chiến lược phát triển hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu của Đảng và
Nhà nước ta, DNNQD với sự đa dạng về quy mô, ngành nghề và hình thức kinh
doanh đã khơi dậy tiềm năng to lớn trong dân để phát triển sản xuất, thu hút vốn,
kỹ thuật công nghệ của nước ngoài tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm phục vụ
cho tiêu dùng và cho xuất khẩu. Đặc biệt là sự khôi phục của các làng nghề
truyền thống ở nông thôn đã làm ra các sản phẩm có giá trị xuất khẩu đóng góp
phần quan trọng vào việc nâng cao đời sống cho dân cư ở nông thôn.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
* DNNQD có tác dụng quan trọng đối với quá trình CNH - HĐH và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
Quá trình phát triển DNNQD cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết bị,
nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị
trường, đến một mức độ nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá
trình CNH - HĐH đất nước không chỉ diễn ra theo chiều rộng mà cả ở chiều sâu.
Mặt khác, sự phục hồi các làng nghề ở một số vùng quê đã thúc đẩy sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
* DNNQD phát triển góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy phát
triển kinh tế.
Với sự đa dạng về lĩnh vực hoạt động, DNNQD đã tạo nên môi trường
cạnh tranh trong nền kinh tế với các DNNN. Theo quy luật thì cạnh tranh sẽ là
điểm khởi đầu của sự phát triển. DNNQD có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
DNNN, bù đắp những lỗ hổng do khu vực này tạo ra. Đặc biệt nó có vai trò
quan trọng trong việc chống lại xu thế độc quyền đang tác động làm trì trệ, cản
trở nền kinh tế phát triển. Việc phát triển DNNQD tạo ra một sức ép lớn đối với
DNNN trên cơ sở đó tạo ra hàng hoá, dịch vụ ngày càng phong phú đa dạng,
chất lượng cao hơn. Khi đó khách hàng sẽ có điều kiện lựa chọn sản phẩm hàng
hoá mà mình ưa thích. Bằng con đường đó đã buộc DNNN phải quan tâm nhiều

hơn đến vấn đề nâng cao hiệu quả, cải tiến chất lượng sản phẩm, và đây sẽ trở
thành định hướng cơ bản cho sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp này,
từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
* DNNQD góp phần tạo ra thị trường vốn rộng lớn cho Ngân hàng.
Sự xuất hiện và phát triển của các DNNQD đã tạo ra một nhóm khách
hàng thường xuyên cho Ngân hàng. Với tốc độ phát triển nhanh chóng cả về quy
mô và chất lượng các DNNQD đã tạo ra một nhu cầu lớn cho Ngân hàng cả về
vốn, thanh toán và các dịch vụ qua Ngân hàng. Điều này tạo điều kiện cho Ngân
hàng ngày càng phát triển. Như chúng ta biết, hoạt động Ngân hàng phụ thuộc
rất lớn vào nền kinh tế quốc dân mà trong đó DNNQD chiếm một tỷ lệ đáng kể
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
do vậy, trong tương lai DNNQD sẽ là thị trường đầy triển vọng của ngành Ngân
hàng.
Nhận thức được vai trò to lớn của DNNQD, Nhà nước ta đã khuyến khích
và tạo môi trường ngày càng thuận lợi cho khu vực này. Sau khi quốc hội thông
qua luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân tháng 12/1990 DNNQD đã có sự
phát triển nhanh chóng và đã đạt được những kết quả nhất định, phát huy tính
tích cực trong việc huy động vốn, giải quyết việc làm, tạo sự năng động trong
kinh doanh và thoả mãn nhu cầu thị trường. Một kết quả nổi bật là các DNNQD
tăng lên nhanh chóng, tăng mức nộp ngân sách và thu nhập khá cao. Đạt được
những điều đó lá nhờ những điều kiện khá thuận lợi như cơ chế chính sách của
Nhà nước luôn khuyến khích, hỗ trợ cho sự ra đời và hoạt động của DNNQD.
Nhà nước cũng luôn cố gắng tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng, tự chủ trong
kinh doanh để các doanh nghiệp này có điều kiện vươn lên. Hơn nữa, lực lượng
lao động Việt Nam dồi dào, luôn sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của thành phần kinh
tế này.
2. Thuận lợi và khó khăn của DNNQD trong quá trình đổi mới
2.1. Thuận lợi
* Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được sự khuyến khích phát triển của

Nhà nước. Nhà nước ta đã có chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế,
đặc biệt là tăng tỷ trọng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh để tận dụng các
nguồn lực của nền kinh tế như: lao động và vốn. Môi trường pháp lý sẽ ngày
càng được khai thông để tạo điều kiện tối đa cho khu vực này phát triển; bên
cạnh đó Nhà nước có những chính sách ưu đãi cho khu vực này như miễn giảm
thuế trong những năm đầu đối với những lĩnh vực được khuyến khích phát triển,
giảm giá thuê đất... Như vậy, các DNNQD sẽ có rất nhiều điều kiện thuận lợi để
phát triển. Nhà nước đã ban hành luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty và luật
doanh nghiệp trong đó công nhận quyền bình đẳng của chúng với các hình thức
kinh tế khác trước pháp luật. Đặc biệt, đối với ngành Ngân hàng, cơ chế cho vay
đối với DNNQD đã thông thoáng hơn: thủ tục cho vay đơn giản hơn, nếu
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khả thi thì có thể sử dụng
chính số vật tư hàng hoá hình thành từ vốn vay làm tài sản bảo đảm; các hình
thức cho vay phong phú hơn phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng
doanh nghiệp.
* Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: hệ thống giao thông, hệ thống thông tin
liên lạc, khoa học kỹ thuật công nghệ... phát triển đã thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNQD nói riêng. Với sự
hình thành và đi vào hoạt động của thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện thuận
lợi cho các công ty cổ phần thu hút vốn; là cơ sở để thúc đẩy các doanh nghiệp Việt
Nam làm ăn lành mạnh, có hiệu quả.
* Môi trường tài nguyên còn rất nhiều tiềm năng phù hợp với đặc điểm
của các DNNQD. Lực lượng lao động dồi dào và tiền công thấp là một thuận lợi
cho sự phát triển của các DNNQD. Thị trường trong nước trong những năm gần
đây đã phát triển mạnh mẽ cả về chất lượng và số lượng, tuy nhiên các chủng
loại hàng hoá vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng, nên đây là
những tiềm năng để các DNNQD xâm nhập. Ngoài ra thị trường quốc tế còn
chưa có các mặt hàng đặc thù của Việt Nam, điều này cũng tạo ra thị trường đầu

ra lý tưởng cho các DNNQD.
* DNNQD bao gồm phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh
nghiệp này có những thuận lợi riêng như: dễ triển khai hoạt động, linh hoạt, dễ
thích ứng, quay vòng nhanh, chi phí gián tiếp thấp, tận dụng được các nguồn
vốn nhỏ.
Mặc dù có những thuận lợi như vậy, nhưng DNNQD cũng gặp phải
không ít những khó khăn.
2.2. Khó khăn
* Sự non nớt về kinh nghiệm quản lý, thông tin yếu kém. Vì mới khẳng
định sự tồn tại trong nền kinh tế thị trường nên kinh nghiệm thương trường của
các DNNQD còn rất ít, đặc biệt là trên thương trường quốc tế. Điều này làm cho
doanh nghiệp còn lúng túng trong việc chiếm lĩnh thị trường, thất bại trong cạnh
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tranh, thậm chí bị lừa đảo. Trình độ quản lý và thông tin là những yếu tố kỹ
thuật, đòi hỏi phải luôn cập nhật, tuy vậy ở các DNNQD những yếu tố này vẫn
chưa đạt yêu cầu để có thể giúp các doanh nghiệp đứng vững và phát triển trên
thị trường.
* Thiếu vốn là một trong những căn bệnh kinh niên của các nước đang
phát triển, vốn là một trong những yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng, quyết
định đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, quyết
định tới phạm vi ngành nghề kinh doanh, quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Có thể ví vốn là một nguồn thức ăn để nuôi sống doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp thiếu vốn như một cơ thể thiếu dinh dưỡng, tê liệt,
không thể hoạt động gì được. Tình trạng thiếu vốn là do nước ta đang trong giai
đoạn CNH - HĐH. Các nguồn vốn lớn tập trung vào các công trình trọng điểm
của quốc gia, cơ sở hạ tầng cần phải tập trung xây dựng vẫn còn nhiều, tích luỹ
từ nội bộ còn ít, số vốn có được thì nằm ứ đọng trong dân cư vì thị trường tài
chính chưa phát triển.
* Một trong những quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị trường là quy luật

cạnh tranh. Quy luật này sẽ loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém, không hiệu
quả, thiếu năng động, non nớt trên thị trường. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị
trường DNNQD không chỉ cạnh tranh lẫn nhau, mà còn phải cạnh tranh với các
DNNN có sự hỗ trợ của Nhà nước, cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài mạnh hơn về nhiều mặt.
* DNNQD chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tuy nhiều về số
lượng nhưng lại bị hạn chế về quy mô và ngành nghề kinh doanh. Cơ cấu kinh tế
mất cân đối của khối kinh tế ngoài quốc doanh là sản phẩm trực tiếp của cấu
trúc thị trường có tính độc quyền. Hầu hết các doanh nghiệp này hoạt động trong
các lĩnh vực thương mại dịch vụ, chế biến lương thực thực phẩm, chưa đến 4%
hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 70%
trong tổng số các doanh nghiệp. Chỉ có khoảng 1/3 số doanh nghiệp nhỏ vay
được vốn của Ngân hàng. Trước mắt do các doanh nghiệp nhỏ chưa đầu tư vào
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sản xuất, nên không tạo ra được năng lực cải tiến công nghệ nội sinh và kéo theo
nhu cầu đầu tư lớn. Chỉ có cải tiến áp dụng công nghệ mới mới đem lại cơ hội
đầu tư nhờ hạ giá thành, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm hay tạo ra sản phẩm
mới.
Nắm giữ khoảng gần 30% tổng tài sản của xã hội, nhận được khoảng 35%
trong tổng số mức tín dụng của các NHTM, DNNQD đã chứng tỏ hiệu quả việc
sử dụng vốn bằng việc đóng góp 40% - 45% vào Ngân sách Nhà nước. Với sự
phát triển năng động trong các năm qua, nếu giảm bớt các cản trở về thể chế,
DNNQD sẽ nổi nên là khách hàng quan trọng với nhu cầu vốn lớn trong thời
gian tới.
3. Các nguồn vốn của DNNQD
3.1. Vốn tự có
Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai trương của
doanh nghiệp là phải có đủ vốn ban đầu theo quy định của pháp luật.
- Đối với các doanh nghiệp tư nhân, nguồn vốn này là của người chủ

đứng lên thành lập doanh nghiệp
- Đối với các công ty cổ phần, nguồn vốn này là vốn đóng góp của các
cổ đông dưới dạng phát hành cổ phiếu.
- Đối với các công ty TNHH, nguồn vốn này là vốn đóng góp của các
thành viên đứng lên thành lập công ty.
- Đối với hợp tác xã, nguồn vốn này do sự đóng góp của các xã viên.
Vốn điều lệ là số vốn đầu tư ban đầu khi thành lập doanh nghiệp và được
ghi rõ trong điều lệ của doanh nghiệp. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng số vốn pháp
định theo quy định của pháp luật. Vốn pháp định quy định cho mỗi loại hình
doanh nghiệp nhiều hay ít phụ thuộc vào quy mô hoạt động hay lĩnh vực kinh
doanh . Vốn điều lệ sẽ được tăng và bổ sung dưới các hình thức: huy động thêm
vốn của các cổ đông, lợi nhuận bổ sung... Vốn này được dùng vào việc mua
sắm tài sản cố định cho doanh nghiệp, một phần dùng làm vốn lưu động phục vụ
quá trình sản xuất kinh doanh.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài vốn điều lệ, các doanh nghiệp còn có thể có các quỹ dự trữ như:
quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ
phúc lợi...
Nguồn vốn tự có phản ánh sức mạnh tài chính của các doanh nghiệp,
phản ánh khả năng chống đỡ với các rủi ro trên thị trường, là cơ sở rất quan
trọng để thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển.
3.2. Nguồn vốn đi vay
Doanh nghiệp có thể vay từ bạn hàng qua hình thức tín dụng thương mại
hay vay Ngân hàng qua hình thức tín dụng Ngân hàng.
* Tín dụng thương mại.
Các doanh nghiệp khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay nguồn
vốn tín dụng người cung cấp. Nguồn vốn này được khai thác tự nhiên trong
quan hệ mua bán chịu hay mua bán trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có
ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối với

toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ tiện lợi và
linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác nó còn tạo ra khả năng mở rộng các quan
hệ hợp tác kinh doanh, thúc đẩy sự lưu thông của hàng hoá. Các điều kiện ràng
buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký kết hợp đồng mua bán. Tuy vậy,
đây chỉ là một nguồn vốn ngắn hạn và sẽ gặp rủi ro khi quy mô tài trợ vượt quá
giới hạn an toàn.
* Tín dụng Ngân hàng.
Các Ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho các doanh nghiệp
với thời hạn có thể từ vày ngày cho đến vài năm, với lượng vốn theo nhu cầu sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn (dưới 1
năm), vay trung hạn (từ 1 đến 5 năm), vay dài hạn (trên 5 năm) với những mức
lãi suất Ngân hàng và những điều kiện ràng buộc khác nhau. Hiện nay ở Việt
Nam thị trường tài chính chưa hoàn chỉnh, việc thu hút vốn từ thị trường này là
chưa phổ biến thì tín dụng Ngân hàng là một hình thức huy động vốn phổ biến
của các doanh nghiệp. Nó có tác dụng to lớn đối với cả người đi vay và người
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cho vay. Nó có những đặc điểm tiến bộ và có vai trò thúc đẩy sự phát triển của
các doanh nghiệp nói chung và các DNNQD nói riêng:
- Việc sử dụng tín dụng Ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp chia sẻ bớt rủi
ro cho Ngân hàng.
- Sử dụng tín dụng Ngân hàng không làm chia sẻ quyền lực của người chủ
doanh nghiệp.
- Tiền lãi vay được tính trong chi phí hợp lý do vậy sẽ giảm được thuế
cho doanh nghiệp.
II. tín dụng ngân hàng đối với các DNNQD
1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Sự phân công lao động xã hội tạo điều kiện cho xã hội đẩy mạnh sức sản
xuất của mình, làm cho khối lượng hàng hoá tăng lên, nhu cầu trao đổi và sản
xuất hàng hoá ngày càng được mở rộng, theo đó nhu cầu về tiền cũng tăng lên.

Hơn nữa, khi nền kinh tế phát triển nhu cầu tiết kiệm và đầu tư tăng, trong xã
hội sẽ xuất hiện các chủ thể làm ăn có hiệu quả, có nhu cầu vay vốn để mở rộng
sản xuất kinh doanh đồng thời có những chủ thể tạm thời thừa vốn. Tín dụng ra
đời đã giải quyết được quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Các chủ thể
kinh tế có thể trực tiếp gặp nhau, hoặc thông qua thị trường tài chính, nhưng chủ
yếu là gián tiếp qua các trung gian tài chính, đặc biệt là NHTM.
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và hoạt động chủ yếu và thường
xuyên đó là huy động tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả (vốn và lãi), sau đó sử
dụng số tiền huy động được để cho vay, thanh toán, chiết khấu... nhằm mục đích
sinh lợi.
Như vậy ta thấy rằng Ngân hàng là trung gian thanh toán, trung gian tín
dụng của nền kinh tế. Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi
nhuận cho Ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (Ngân
hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên
cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi
cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên ta suy ra các đặc trưng của tín dụng Ngân hàng:
- Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin, ở đây
người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời
gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ. Từ đặc trưng này ta thấy sự tín
nhiệm là điều kiện cần thiết để phát sinh quan hệ tín dụng. Để có được lòng tin
về khách hàng, Ngân hàng luôn thẩm định đánh giá khách hàng trước khi cho
vay. Nếu khâu này được thực hiện một cách khách quan, chính xác thì việc cho
vay của ngân hàng có thể mở rộng được mà ít gặp phải rủi ro.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Đặc trưng
này của tín dụng xuất phát từ tính chuyển nhượng tạm thời. Như vậy, để đảm

bảo thu hồi nợ đúng hạn Ngân hàng phải định kỳ hạn nợ một cách phù hợp với
đối tượng vay.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị trên nguyên tắc hoàn
trả cả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng có của tín dụng. Vì vốn để cho vay của
Ngân hàng chủ yếu là vốn huy động từ những người tạm thời thừa vốn, nên
trong một thời gian nhất định Ngân hàng phải trả lại cho người ký thác. Mặt
khác, Ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt động như khấu hao
tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên, chi phí văn phòng phẩm... Nên
người vay ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả cho Ngân hàng một khoản lãi. Đây
là nguồn thu nhập chính của Ngân hàng, là cơ sở để Ngân hàng tồn tại và phát
triển.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNQD
Tín dụng Ngân hàng có vai trò rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế nói
chung và nhất là đối với các DNNQD. Vai trò đó thể hiện là:
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện ra đời các tổ chức kinh tế
công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh. Các tổ chức kinh tế này buổi
đầu gặp nhiều khó khăn về vốn kinh doanh, về hạch toán kế toán trong kinh
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
doanh, cũng như trong mối quan hệ bạn hàng với nhau, trong đó sự thiếu thốn về
vốn hoạt động và sự yếu kém về hạch toán kế toán nổi lên hàng đầu. Về phương
diện này, tín dụng ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ đắc lực trong việc tạo lập cơ
sở vật chất cũng như vốn lưu động trong hoạt động sản xuất và lưu thông của
họ. Thông qua quan hệ tín dụng, Ngân hàng sẽ giúp cho các tổ chức kinh tế này
nâng dần trình độ hạch toán kế toán thống kê của họ. Bởi vì hầu hết các tổ chức
kinh tế không tự mình hạch toán, thống kê được quá trình kinh doanh, sẽ không
thực hiện được một cách đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước cũng như thiếu
những điều kiện cần thiết để vay vốn Ngân hàng.
Thứ hai, tín dụng Ngân hàng có vai trò trong việc tạo điều kiện phát triển
ngành nghề mới trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Việc phát triển từ nhu

cầu sản xuất và tiêu dùng từng lĩnh vực kinh tế, từng chủ doanh nghiệp rất khó
có thể thông hiểu một cách rộng khắp nhu cầu của thị trường. Thông qua hoạt
động cấp tín dụng, hệ thống Ngân hàng có khả năng thấy được nhu cầu của sản
xuất và tiêu dùng hiện tại cũng như tương lai, cùng với nguồn vốn của mình, tín
dụng Ngân hàng sẽ thúc đẩy sự ra đời những ngành nghề mới, đáp ứng cho yêu
cầu phát triển ngày càng đi lên của nền kinh tế.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng giúp
nhà sản xuất kinh doanh thực hiện đêù đặn quá trình tái sản xuất, ứng dụng khoa
học kỹ thuật mới, phục vụ thị hiếu của người tiêu dùng cũng như đòi hỏi khắt
khe của người sản xuất.
Thứ tư, tín dụng Ngân hàng có vai trò tích cực trong việc hạn chế, xoá bỏ
tệ nạn cho vay nặng lãi góp phần tích cực vào việc xây dựng, bổ sung hoàn thiện
cơ chế quản lý tài chính, thúc đẩy DNNQD phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của tín dụng Ngân hàng đối với DNNQD,
Đảng và Nhà nước ta đã có hàng loạt chính sách khuyến khích lĩnh vực tín dụng
này, hệ thống Ngân hàng đã có những thay đổi căn bản tạo sự bình đẳng trong
việc cho vay giữa các thành phần kinh tế.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3. Các hình thức cho vay
Theo điều 3 của quy chế cho vay của các TCTD quy định: “cho vay là
một hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khác hàng vay một khoản
tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên
tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với các DNNQD có nhiều hình
thức:
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay:
- Cho vay công và thương nghiệp, dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp.
- Cho vay tiêu dùng.

* Căn cứ vào thời hạn vay vốn:
- Cho vay ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn dưới 12 tháng được
sử dụng vốn để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp. Đối với
các NHTM, loại hình cho vay này thường chiếm tỷ trọng cao.
- Cho vay trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5
năm, chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi
mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới
có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 5 năm, chủ yếu là
để đáp ứng nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở, đầu tư các thiết bị, phương
tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
* Căn cứ vào tính chất bảo đảm:
- Cho vay có bảo đảm: Loại hình cho vay này được Ngân hàng cung ứng
vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Việc bảo đảm này sẽ là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm một nguồn thu nợ
thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
- Cho vay không có bảo đảm: Đó là các khoản cho vay tín nhiệm, các
khoản cho vay mà không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ba, việc cho vay này chủ yếu dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần có
điều kiện bổ sung. ở nước ta hình thức cho vay này chủ yếu áp dụng đối với
DNNN, việc áp dụng hình thức này đối với DNNQD chưa được rộng rãi.
* Căn cứ vào phương pháp cấp tiền vay:
- Phương thức cho vay từng lần: Là phương thức cho vay mà mỗi lần vay
vốn, khách hàng và Ngân hàng đều phải làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết
hợp động tín dụng. Phương thức này được áp dụng đối với những khách hàng có
nhu cầu vay vốn không thường xuyên; cho vay vốn lưu động, cho vay bù đắp
thiếu hụt tài chính tạm thời.
- Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng: Khách hàng và Ngân hàng

thoả thuận một hạn mức tín dụng được duy trì trong một thời gian nhất định.
Trong thời gian duy trì hạn mức tín dụng, khách hàng được rút vốn phù hợp với
tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế nhưng phải đảm bảo không được vượt
quá hạn mức tín dụng đã ký kết. Mỗi lần rút vốn khách hàng phải lập giấy nhận
nợ. Phương thức này được áp dụng với những khách hàng có nhu cầu vay vốn
thường xuyên hay khách hàng có đặc điểm sản xuất kinh doanh, luân chuyển
vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng lần.
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay đối với DNNQD
Mở rộng cho vay đối với DNNQD không có nghĩa là tăng khối lượng cho
vay, mà mở rộng cho vay phải luôn gắn liền với nâng cao chất lượng cho vay.
Có nhiều nhân tố tác động đến việc mở rộng cho vay đối với DNNQD của các
Ngân hàng, trong đó có thể chia thành 2 nhóm sau:
4.1. Các nhân tố khách quan
Nhóm này thường gồm: tình trạng của nền kinh tế, tình trạng xã hội và hệ
thống pháp luật. Đó là những nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động cho vay
đối với các thành phần kinh tế nói chung và đối với DNNQD nói riêng.
* Nhân tố kinh tế.
Chúng ta biết rằng nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động
kinh tế có quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau nên bất kỳ một sự biến động
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của hoạt động kinh tế nào đó cũng gây ảnh hưởng cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, tiêu thụ sản phẩm của các ngành, lĩnh vực còn lại. Hơn nữa, hoạt động
của các NHTM được coi như “chiếc cầu nối” giữa các lĩnh vực khác nhau của
nền kinh tế. Vì vậy sự ổn định hay bất ổn định, sự tăng trưởng nhanh hay chậm
của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đến “chiếc cầu nối” đặc biệt là hoạt động
cho vay của Ngân hàng.
- Các biến số kinh tế vĩ mô như lạm phát, khủng hoảng sẽ ảnh hưởng lớn
đến quy mô tín dụng và chất lượng tín dụng. Một nền kinh tế ổn định, tỷ lệ lạm
phát vừa phải sẽ hấp dẫn đầu tư. Lúc đó nhu cầu vay vốn sẽ tăng lên để mở rộng

sản xuất kinh doanh nhằm kiếm thêm lợi nhuận do vậy hoạt động cho vay của
Ngân hàng có điều kiện để mở rộng. Ngược lại, nếu nền kinh tế không ổn định,
tỷ lệ lạm phát tăng cao thì doanh nghiệp sẽ rất khó khăn trong việc kế hoạch sản
xuất kinh doanh của mình vì vậy thường có xu hướng “co cụm” hoạt động và do
vậy làm giảm khả năng mở rộng cho vay của Ngân hàng.
- Chu kỳ kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động cho vay: nếu nền
kinh tế đang ở chu kỳ tăng trưởng, nhu cầu tiêu dùng tăng cao kéo theo nhu cầu
đầu tư mở rộng sản xuất cũng tăng cao do vậy làm tăng khả năng mở rộng cho
vay của Ngân hàng. Ngược lại, nếu nền kinh tế đang ở chu kỳ suy thoái, sản
xuất vượt quá nhu cầu của nền kinh tế dẫn tới sự đình trệ trong sản xuất kinh
doanh, hàng tồn kho lớn buộc các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất do vậy
làm giảm khả năng mở rộng cho vay của Ngân hàng. Mặt khác, khi nền kinh tế
suy thoái các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm do vậy
không có nguồn để trả nợ Ngân hàng và làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
* Nhân tố xã hội.
Các nhân tố xã hội ở đây bao gồm: niềm tin tưởng lẫn nhau, tình hình an
ninh trật tự và an toàn xã hội, trình độ dân trí...
- Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng dựa trên cơ sở niềm
tin. Đối với khách hàng nào hoạt động kinh doanh hiệu quả, có uy tín với Ngân
hàng thì được ưu đãi trong quan hệ cho vay. Nếu Ngân hàng nào hoạt động an
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
toàn, hiệu quả, nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng thì sẽ
được khách hàng lựa chọn. Ngược lại, nếu khách hàng không tin tưởng vào hoạt
động của Ngân hàng thì sẽ không quan hệ với Ngân hàng và nếu Ngân hàng
không tin vào uy tín cũng như năng lực tài chính của khách hàng sẽ không cho
khách hàng vay.
- Ngoài ra, an ninh trật tự xã hội cũng có có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động cho vay của Ngân hàng. Thật vậy nếu một nơi nào mà an ninh trật tự
không đảm bảo, an toàn xã hội kém sẽ gây ra tâm lý không yên tâm cho các chủ

đầu tư và các chủ đầu tư cũng không đầu tư vào những nơi như thế. Do vậy, nhu
cầu vay vốn cũng hạn chế, làm thu hẹp tín dụng của ngân hàng. Ngược lại, nơi
nào có trật tự an ninh tốt, ít trộm cướp và tệ nạn xã hội thì sẽ an toàn cho hoạt
dộng đầu tư.
- Nếu như trình độ dân trí thấp, người dân sẽ không hiểu biết về các hoạt
động của Ngân hàng, không biết các thủ tục khi vay vốn và họ sẽ vay vốn chủ
yếu từ thị trương tài chính - tiền tệ trực tiếp và nó cũng là một nhân tố làm thu
hẹp trị trường tín dụng của Ngân hàng.
* Nhân tố pháp lý.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ
về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ
pháp luật. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng vậy, phải tuân theo quy định
của NHNN, luật các TCTD, luật dân sự và các qui định khác. Nếu những quy
định của pháp luật không rõ ràng, không đồng bộ, không ổn định, không kịp thời
và có nhiều “kẽ hở” thì sẽ rất khó khăn cho Ngân hàng trong các hoạt động nói
chung và hoạt động cho vay nói riêng. Ngược lại, những văn bản pháp luật,
những qui định rõ ràng sẽ là hành lang pháp lý vững chắc, góp phần vào việc tạo
ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các Ngân hàng; tạo cơ sở pháp lý để
Ngân hàng giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra đảm bảo an
toàn cho tài sản và quyền lợi của Ngân hàng.
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Việc mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế nói chung và
DNNQD nói riêng không chỉ chịu tác động của các nhân tố khách quan mà còn
chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan từ phía Ngân hàng và khách hàng như:
chính sách tín dụng, thông tin tín dụng, chất lượng nhân sự, cơ sở vật chất thiết
bị của Ngân hàng, tình hình huy động vốn, công tác tổ chức của Ngân hàng,
thực trạng của chính các DNNQD...
4.2. Các nhân tố chủ quan
* Nguồn vốn huy động của Ngân hàng.

Ngân hàng là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, thực hiện
phương châm “huy động để cho vay”. Do vậy, nếu Ngân hàng không huy động
được hay không huy động đủ vốn thì không thể có hoạt động cho vay. Nguồn
vốn huy động được càng lớn, càng đa dạng thì càng tạo điều kiện cho hoạt động
cho vay phát triển. Nguồn vốn huy động phải chiếm tỷ trọng khoảng 70% - 80%
tổng nguồn vốn của Ngân hàng.
Do đó, việc mở rộng vốn huy động của Ngân hàng là tiền đề để mở rộng
cho vay đối với các DNNQD.
* Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc
khuyếch trương hoặc hạn chế tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu của ngân
hàng trong từng thời kỳ.
Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố: đối tượng khách hàng có thể vay
vốn; nguyên tắc và điều kiện vay vốn; phương thức cho vay; căn cứ xác định
mức tiền vay; căn cứ xác định thời hạn và thể loại cho vay,... Tất cả những yếu
tố đó tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến việc mở rộng cho vay của Ngân hàng.
Nếu như tất cả các yếu tố của chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý, linh hoạt và
đáp ứng được nhu cầu đa dạng và phức tạp của khách hàng thì Ngân hàng đó sẽ
thành công trong việc mở rộng cho vay, đảm bảo chất lượng các khoản vay. Nếu
các yếu tố của chính sách cho vay cứng nhắc, không hợp lý, không đáp ứng
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
được các mong muốn, đòi hỏi của khách hàng thì sẽ rất khó khăn để các Ngân
hàng có thể mở rộng cho vay.
Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng trong
việc thu hút khách hàng thì việc đề ra một chính sách tín dụng đúng đắn là rất
quan trọng. Đặc điểm các khách hàng của Ngân hàng là rất dễ thay đổi, rất dễ bị
lôi kéo. Chỉ cần các Ngân hàng khác tạo ra sự thuận lợi hơn cho khách hàng
trong việc vay, trả nợ; lãi suất vay thấp hơn; các hình thức cho vay phong phú
hơn... thì khách hàng sẽ đến với Ngân hàng đó ngay lập tức. Do đó các Ngân

hàng phải căn cứ vào mục tiêu của mình trong từng thời kỳ khác nhau để xây
dựng được một chính sách tín dụng đúng đắn.
* Thông tin tín dụng.
Thông tin tín dụng bao gồm:
- Thông tin phi tài chính: tư cách pháp nhân, uy tín, năng lực quản lý,
năng lực sản xuất kinh doanh, quan hệ xã hội...
- Thông tin gián tiếp: tình hình kinh tế xã hội, thông tin về xu hướng phát
triển và khả năng cạnh tranh của ngành nghề.
- Thông tin tài chính của khách hàng, khả năng tài chính, kết quả kinh
doanh trong quá khứ, công nợ, nhu cầu vốn hợp lý, hiệu quả sản xuất kinh
doanh của phương án, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp.
Trong nền kinh tế thị trường, ai nắm bắt được thông tin chính xác, kịp
thời hơn thì người đó sẽ thắng trong cạnh tranh. Trong hoạt động tín dụng, Ngân
hàng đầu tư chủ yếu dựa vào niềm tin. Lòng tin có chính xác hay không phụ
thuộc vào chất lượng thông tin có được. Nếu thông tin tín dụng chính xác và kịp
thời sẽ giúp Ngân hàng lựa chọn đúng khách hàng để mở rộng cho vay, đồng
thời phát hiện những sai phạm trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay từ đó
giảm thiểu các rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng. Ngược lại, nếu thông tin
tín dụng không chính xác hoặc không kịp thời sẽ dẫn đến việc Ngân hàng lựa
chọn sai khách hàng (khách hàng lừa đảo hoặc không có khả năng hoàn trả nợ);
hoặc bỏ sót những dự án có tính khả thi từ đó hạn chế khả năng mở rộng cho
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vay; hoặc phát hiện không kịp thời những sai phạm trong quá trình khách hàng
sử dụng vốn vay dẫn đến việc khách hàng không có khả năng hoàn trả nợ hay trả
nợ không đúng hạn từ đó làm giảm chất lượng tín dụng.
* Công tác tổ chức của ngân hàng.
Nếu công tác tổ chức của Ngân hàng được cụ thể hoá và sắp xếp một cách
khoa học, không bị chồng chéo, có mối quan hệ chặt chẽ giữa các phòng ban
trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tín dụng thì sẽ là cơ sở để phát triển hoạt động

cho vay một cách lành mạnh, hiệu quả an toàn. Ngược lại, nếu công tác tổ chức
không khoa học sẽ ảnh hưởng tới thời gian ra quyết định cho vay và có thể dẫn
tới mất cơ hội mở rộng cho vay; sự phân công không rõ ràng, không hợp lý,
chồng chéo lên nhau khiến cho cán bộ tín dụng ỷ lại, thiếu trách nhiệm với công
việc từ đó làm hạn chế việc mở rộng cho vay
* Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị.
- Chất lượng nhân sự đó chính là trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp,
marketing, trình độ ngoại ngữ, vi tính, sự nhiệt tình trong công việc của người
cán bộ. Dưới con mắt khách hàng, cán bộ Nngân hàng chính là hình ảnh của
Ngân hàng. Nếu khách giao tiếp với cán bộ Ngân hàng họ cảm thấy yên tâm, hài
lòng thì họ sẽ tìm đến với Ngân hàng đó.
- Cơ sở vật chất của Ngân hàng tạo ra sự bề thế của Ngân hàng, tạo ra sự
yên tâm cho khách hàng. Một Ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, được
trang bị các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, chất lượng cao sẽ tạo điều kiện đơn
giản hoá các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch đem lại sự tiện lợi tối đa cho
ngân hàng. Đó là tiền đề để Ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng cho
vay. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập
thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch xây dựng chính sách tín
dụng có hiệu quả hơn.
* Hoạt động kiểm soát nội bộ.
Kiểm soát nội bộ là kiểm tra việc thực hiện và chấp hành các chính sách
tín dụng và các thủ tục liên quan đến các khoản cho vay. Đây là biện pháp hữu
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiệu giúp ban lãnh đạo Ngân hàng có được thông tin chính xác về tình trạng
kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc
tiến phù hợp với các chính sách, thực hiện thành công mục tiêu đề ra.
* Nguyên nhân từ phía khách hàng.
- Đông cơ đầu tư: Động cơ đầu tư của khách hàng bắt nguồn từ lợi nhuận.
Lợi nhuận do đầu tư mang lại càng cao thì nhu cầu đầu tư càng lớn. Tuy nhiên,

động cơ đầu tư của khách hàng có được thực hiện hay không còn phụ thuộc vào
vốn đầu tư. Trong khi đó các phương án, dự án đòi hỏi khối lượng vốn lớn mà
chỉ một mình khách hàng sẽ khó thực hiện được. Điều này tạo điều kiện cho các
NHTM tham gia đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Như vậy, động cơ đầu tư của
khách hàng quyết định việc mở rộng cho vay của Ngân hàng. Nhu cầu đầu tư
càng lớn thì Ngân hàng càng có điều kiện mở rộng tín dụng và ngược lại.
- Năng lực của khách hàng: Năng lực của khách hàng được hiểu là khả
năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện tín dụng.
Theo quy định của thống đốc NHNN Việt Nam và hướng dẫn của
NHNo&PTNT Việt Nam, khách hàng vay vốn phải có đủ 5 điều kiện sau
+ Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật
+ Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
+ Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết
+ Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có
kết quả
+ Thực hiện các quy định và đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính
phủ, NHNN Việt Nam.
Nếu khách hàng vay vốn đáp ứng đủ các điều kiện trên thì Ngân hàng mới
có thể thực hiện việc cho vay mở rộng tín dụng mà vẫn đảm bảo chất lượng.
Nếu khách hàng không đáp ứng tốt các điều kiện trên thì việc mở rộng cho vay
có thể dẫn đến làm giảm chất lượng tín dụng
25

×