Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Đề tài: “ Hoàn thiện nghiệp vụ tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty chứng khoán Ngân hàng công thương Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.45 KB, 86 trang )

BÁO CÁO THỰC TẬP
Đ ti:
“ Hon thiện nghiệp vụ tư vấn xác định giá trị
doanh nghiệp tại công ty chứng khoán Ngân
hng công thương Việt Nam
MỤC LỤC
B O C O TH C T PÁ Á Ự Ậ 1
t i:Đê a 1
Ho n thi n nghi p v t v n xác nh giá tr doanh nghi p t i công ty “ a ệ ệ ụ ư ấ đị ị ệ ạ
ch ng khoán Ngân h ng công th ng Vi t Namứ a ươ ệ 1
M C L CỤ Ụ 2
L I NÓI UỜ ĐẦ 3
Sinh viên th c hi nự ệ 5
Tr n Th Thu H ngầ ị ỳ ươ 5
CH NG 1:ƯƠ 7
T NG QUAN V HO T NG T V N X C NH GI TR DOANH Ổ Ề Ạ ĐỘ Ư Ấ Á ĐỊ Á Ị
NGHI P C A C C CÔNG TY CH NG KHO NỆ Ủ Á Ứ Á 7
CH NG 2:ƯƠ 30
TH C TR NG C A HO T NG X C NH GI TR DOANH NGHI P T I Ự Ạ Ủ Ạ ĐỘ Á ĐỊ Á Ị Ệ Ạ
CÔNG TY CH NG KHO N NG N H NG CÔNG TH NG VI T NAMỨ Á Â À ƯƠ Ệ . .30
CH NG III: GI I PH P PH T TRI N HO T NG T V N X C NH ƯƠ Ả Á ĐỂ Á Ể Ạ ĐỘ Ư Ấ Á ĐỊ
GI TR DOANH NGHI P T I CÔNG TY CH NG KHO N NG N H NG Á Ị Ệ Ạ Ứ Á Â À
CÔNG TH NG VI T NAMƯƠ Ệ 67
K T LU NẾ Ậ 79
LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, để các
doanh nghiệp có thể hoạt động có hiệu quả thì việc cổ phần hoá (CPH)
doanh nghiệp là cần thiết. Năm 2006 là một năm đánh dấu bước phát triển
của Thị trường chứng khoán ( TTCK) Việt Nam, TTCK đã đi vào hoạt đời
sống người dân từng ngày từng giờ qua các phương tiện thông tin đại
chúng như: báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, internet Sự phát triển


của TTCK kéo theo sự phát triển của quá trình CPH doanh nghiệp nhà
nước tại Việt Nam. Tuy nhiên, để có thể hoàn thành quá trình CPH một
cách thuận lợi thì việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH là việc vô cùng
quan trọng. Thật vậy, có định giá chính xác giá trị của doanh nghiệp thì
mới có thể thực hiện khâu tiếp theo của quá trình CPH được. Bên cạnh đó
việc TTCK phát triển ngày càng được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư.
Vì các lĩnh vực khác như bất động sản, vàng bạc ngày càng khó kiếm lợi
nhuận thì đầu tư vào TTCK đang là một xu hướng của các nhà đầu tư. Để
đầu tư có hiệu quả thì các nhà đầu tư phải tiến hành phân tích các công ty
niêm yết cổ phiếu trên TTCK trong đó xác định chính xác giá trị của doanh
nghiệp là một công việc không thể thiếu của các nhà đầu tư, để từ đó nhà
đầu tư có thể đưa ra những quyết định chính xác và có hiệu quả cho họ. Đối
với các công ty chứng khoán thì xác định giá trị doanh nghiệp là một hoạt
động mang lại lợi nhuận cho công ty. Chính vì vậy, hoạt động xác định giá
trị doanh nghiệp là một vấn đề cấp bách đối với Nhà nước, các công ty
chứng khoán, các nhà đầu tư và các chủ thể khác trong nền kinh tế thị
trường.
Tuy nhiên vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp trước khi CPH là một
vấn đề vô cùng khó khăn và phức tạp. Việc xác định các tài sản hữu hình
như máy móc, thiết bị có thể không khó khăn lắm trong điều kiện nền kinh
tế thị trường máy móc thiết bị cũ hoạt động mạnh, mặc dù nếu máy móc
thiết bị đó thuộc loại đặc chủng thì việc xác định cũng có những nguyên tắc
nhất định. Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi ta xác định giá trị các tài sản
vô hình, các bằng phát minh sáng chế, các nhãn hiệu thương mại luôn được
xác định giá khác nhau tuỳ theo từng người mua. Chính vì điều khó khăn
như vậy nên việc xác định giá trị doanh nghiệp vẫn còn vấp phải những sai
sót cũng như việc thiếu chính xác trong việc xác định giá trị doanh nghiệp.
Bởi vậy em đã chọn đề tài: “ Hoàn thiện nghiệp vụ tư vấn xác định giá
trị doanh nghiệp tại công ty chứng khoán Ngân hàng công thương Việt
Nam”. Trong khuôn khổ nghiên cứu đề tài này cũng là một cơ hội giúp em

nghiên cứu sâu hơn những kiến thức đã học đồng thời góp phần đưa ra
những giải pháp khắc phục những khó khăn để giúp cho việc định giá
doanh nghiệp được chính xác hơn.
1.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
• Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu nghiệp vụ tư vấn xác định
giá trị doanh nghiệp
• Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu nghiệp vụ xác định giá trị
doanh nghiệp tại công ty chứng khoán Ngân hàng công thương Việt Nam
2.Mục đích nghiên cứu:
• Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và sự cần thiết phải hoàn
thiện nghiệp vụ tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp.
• Phân tích và đánh giá thực trạng của quá trình xác định giá
trị doanh nghiệp, tìm ra những thuận lợi và khó khăn trong quá trình định
giá doanh nghiệp.
• Xác định phương hướng của nghiệp vụ tư vấn xác định giá
trị doanh nghiệp của công ty chứng khoán Ngân hàng công thương Việt
Nam.
• Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện nghiệp vụ xác định giá
trị doanh nghiệp của công ty chứng khoán Ngân hàng công thương Việt
Nam.
3.Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp
phân tích tổng hợp; phương pháp thống kê kinh tế; phương pháp điều tra
chọn mẫu; phương pháp so sánh và một số phương pháp khác: Đọc tài liệu
lưu trữ, phỏng vấn chuyên gia, nhà quản lý
4.Kết cấu của đề tài:
Chuyên đề tốt nghiệp ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về nghiệp vụ xác định giá trị doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp

tại công ty chứng khoán Ngân hàng công thương Việt Nam
Chương 3: Giải pháp để phát triển nghiệp vụ tư vấn xác định giá trị
doanh nghiệp tại công ty chứng khoán Ngân hàng công thương Việt
Nam
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của thầy giáo Th.s
Lê Trung Thành và các cô chú anh chị trong phòng tư vấn tài chính doanh
nghiệp cũng như trong toàn công ty chứng khoán Ngân hàng công thương
Việt Nam đã tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của
mình. Trong quá trình nghiên cứu em không thể tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các anh chị để
em tiếp tục học hỏi thêm.
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Thuỳ Hương

CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
DOANH NGHIỆP CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm chung về công ty chứng khoán
Để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán có hiệu quả, một
yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị
trường chứng khoán. Mục tiêu của việc hình thành thị trường chứng khoán
là thu hút vốn đầu tư dài hạn cho việc phát triển kinh tế và tạo ra tính thanh
khoản cho các loại chứng khoán. Do vậy để thúc đẩy thị trường chứng
khoán hoạt động có trật tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra đời và
hoạt động của các công ty chứng khoán. Lịch sử hình thành và phát triển
của thị trường chứng khoán cho thấy thời tiền sử của thị trường chứng
khoán, các nhà môi giới hoạt động cá nhân độc lập với nhau. Sau này, cùng
với sự phát triển của thị trường chứng khoán, chức năng và quy mô hoạt
động giao dịch của các nhà môi giới tăng lên đòi hỏi sự ra đời của công ty

chứng khoán là tập hợp có tổ chức của các nhà môi giới riêng lẻ.
Chúng ta có thể khái niệm công ty chứng khoán như sau: Công ty chứng
khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện nghiệp vụ trên thị
trường chứng khoán.
Ở Việt Nam, theo quyết định 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13 tháng 10
năm 1998 của UBCKNN, công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được Uỷ ban chứng
khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh
doanh chứng khoán.
Do đặc điểm một công ty chứng khoán có thể kinh doanh trên một lĩnh
vực, loại hình kinh doanh chứng khoán nhất định do đó hiện nay, có quan
điểm phân chia công ty chứng khoán thành các loại như sau: công ty môi
giới chứng khoán, công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán, công ty trái
phiếu, công ty chứng khoán không tập trung.
Hiện nay, có ba loại hình tổ chức cơ bản của công ty chứng khoán, đó
là: công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán: Công ty chứng khoán
hoạt động theo 2 nhóm nguyên tắc cơ bản đó là nhóm nguyên tắc mang
tính đạo đức và nhóm nguyên tắc mang tính tài chính.
Nhóm nguyên tắc mang tính đạo đức:
- Công ty chứng khoán phải đảm bảo giao dịch trung thực và
công bằng vì lợi ích của khách hành
- Kinh doanh có kỹ năng, tận tuỵ, có tinh thần trách nhiệm
- Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh
của công ty
- Có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, không được tiết lộ các
thông tin về tài khoản của khách hàng khi chưa được khách hàng đồng ý
bằng văn bản trừ khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước.
- Công ty chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn phải cung
cấp thông tin đầy đủ cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà

khách hàng có thể gặp phải, đồng thời họ không được khẳng định về lợi
nhuận các khoản đầu tư mà họ tư vấn.
- Công ty chứng khoán không được phép nhận bất cứ một khoản
thù lao nào khác ngoài các khoản thù lao thông thường cho dịch vụ tư vấn
của mình
- Ở nhiều nước, các công ty chứng khoán phải đóng góp tiền vào
quỹ bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán để bảo vệ lợi ích khách hàng trong
trường hợp công ty chứng khoán mất khả năng thanh toán.
- Nghiêm cấm thực hiện các giao dịch nội gián, các công ty
chứng khoán không được phép sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán
chứng khoán cho chính mình gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.
- Các công ty chứng khoán không được tiến hành các hoạt động
có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản
chất của chứng khoán hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách
hàng.
Nhóm nguyên tắc tài chính:
- Đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và các nguyên tắc hạch
toán, báo cáo theo quy định của UBCK Nhà nước. Đảm bảo nguồn tài
chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng.
- Công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm
nguồn tài chính để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp số tiền đó dùng phục
vụ cho giao dịch của khách hàng.
- Công ty chứng khoán phải tách bạch tiền và chứng khoán của
khách hàng với tài sản của mình. Công ty chứng khoán không được dùng
chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp để vay vốn trừ trường hợp
được khách hàng đồng ý bằng văn bản.
1.1.2. Khả năng vai trò của công ty chứng khoán
Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng
khoán, không phải tự họ đi bán số chứng khoán mà họ định phát hành. Họ
không thể làm tốt được việc đó bởi vì họ không có bộ máy chuyên môn.

Cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho họ. Đó là các
công ty chứng khoán, với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp
và bộ máy tổ chức thích hợp, thực hiện vai trò môi giới mua bán, phát hành
chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số hoạt động khác cho cả
người đầu tư và người phát hành.
Các công ty chứng khoán là các tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát
triển nói chung của nền kinh tế và của thị trường chứng khoán nói riêng.
Nhờ các công ty chứng khoán mà các cổ phiếu và trái phiếu lưu thông buôn
bán tấp nập trên thị trường chứng khoán, qua đó một lượng vốn khổng lồ
được đua vào đầu tư trực tiếp từ việc tập hợp những nguồn vốn nhỏ lẻ
trong công chúng.
Công ty chứng khoán có những vai trò khác nhau đối với những chủ
thể khác nhau trên thị trường chứng khoán.
• Đối với các chủ thể phát hành
Mục tiêu khi tham gia vào thị trường của các chủ thể phát hành là
huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông
qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, công ty chứng khoán
có vai trò tạo cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành.
• Đối với các nhà đầu tư
Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh
mục đầu tư, công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian
giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng hoá
thông thường mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và
người bán. Tuy nhiên, đối với thị trường chứng khoán, sự biến động
thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm
cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu
thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các công ty chứng
khoán, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà
đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách có hiệu quả.
• Đối với thị trường chứng khoán: Đối với thị trường chứng

khoán công ty chứng khoán thể hiện 2 vai trò chính:
Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường: Giá cả chứng khoán là
do thị trường quyết định. Tuy nhiên để đưa ra mức giá cuối cùng, người
mua và người bán phải thông qua các công ty chứng khoán vì họ không
được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Các công ty chứng khoán là
những thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị
trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các công ty chứng khoán
cùng các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy giá cả của
mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các công
ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn hơn khi
tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những khoản đầu tư của khách
hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều công ty chứng khoán đã giành
một tỷ lệ nhất định của các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị
trường.
Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản chính: Thị
trường chứng khoán có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của
các tài sản chính. Nhưng các công ty chứng khoán mới là người thực hiện
tốt vai trò đó vì công ty chứng khoán tạo ra cơ chế giao dịch trên thị
trường. Trên thị trường cấp 1, do thực hiện các hoạt động như bảo lãnh
phát hành, chứng khoán hoá, các công ty chứng khoán không những huy
động được khoản vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành
mà còn làm tăng tính thanh khoản cho các tài sản chính được đầu tư vì các
chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán giao dịch trên thị trường
cấp 2. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người đầu tư. Trên
thị trường cấp 2 do thực hiện các giao dịch mua và bán các công ty chứng
khoán giúp nhà đầu tư đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những
hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của các tài sản chính.
• Đối với cơ quan quản lý thị trường.
Công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin về thị trường
chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường để thực hiện tốt mục tiêu

đó. Các công ty chứng khoán thực hiện được tốt vai trò này bởi vì họ là
người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là trung gian mua
bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường. Một trong
những yêu cầu của thị trường chứng khoán là các thông tin cần phải được
công khai hoá dưói sự giám sát của các cơ quan quản lý thị trường. Việc
cung cấp thông tin vừa là quy định của luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề
nghiệp của các công ty chứng khoán vì công ty chứng khoán cần phải minh
bạch và công khai trong hoạt động. Nhờ các thông tin này, các cơ quan
quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng
đoạn bóp méo thị trường.
Tóm lại, công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị
trường chứng khoán, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu
tư, các nhà phát hành đối với các cơ quan quản lý thị trường và đối với thị
trường chứng khoán nói chung.
1.1.3. Các hoạt động của công ty chứng khoán
• Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hay đại diện mua bán
cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó công ty chứng khoán sẽ đại
diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại
SGDCK hoặc thị trường OCT mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm
đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, công ty
chứng khoán sẽ chuyển tới khách hàng của mình các sản phẩm, dịch vụ tư
vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua
chứng khoán. Và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ
trở thành người bạn, chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời
động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định
tỉnh táo. Xuất phát từ yêu cầu trên, nghề môi giới đòi hỏi phải có những tư
cách phẩm chất, tư cách đạo đức, kĩ năng mẫn cán trong công việc và với
thấi độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà
môi giới không được xúi dục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm

hoa hồng, mà nên đưa ra những lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp
nhất thiệt hại cho khách hàng.
• Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các hoạt động
giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Mục đích của hoạt động
tự doanh của các công ty chứng khoán nhằm thu lợi cho chính mình. Tuy
nhiên, để đảm bảo ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật các
nước đều yêu cầu các công ty chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự
doanh phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định đó là yêu cầu về vốn và con
người. Vốn và con người là hai điều kiện cơ bản để thực hiện các hoạt động
nghiệp vụ trong kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện hoạt động tự
doanh, các công ty chứng khoán phải có một số vốn nhất định theo quy
định của pháp luật. Việc quy định mức vốn trên nhằm mục đích đảm bẩo
rằng các công ty chứng khoán thực sự có vốn và dùng vốn của họ để kinh
doanh. Tương tự như vậy, con người cũng là yếu tố quyết định đến sự
thành công của hoạt động tự doanh. Kinh doanh chứng khoán là một hoạt
động đặc thù có sự chi phối rất lớn của con người và thông tin. Nhân viên
thực hiện nghiệp vụ tự doanh của công ty phải có một trình độ chuyên môn
nhất định, có khả năng tự quyết cao và đặc biệt là tính nhạy cảm trong công
việc.
• Hoạt động tư vấn đầu tư
Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là
việc công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời
khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch
vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách
hàng. Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng các kiến thức, đó
chính là vốn chất xám mà họ bỏ ra để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận
cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi phải thận trọng trong việc đưa ra các
lời khuyên cho khách hàng, vì với lời khuyên đó khách hàng có thể thu về
lợi nhuận hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình

khoản thu phí về dịch vụ tư vấn (bất kể tư vấn có thành công hay không).
• Hoạt động bảo lãnh phát hành
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công
chúng, đòi hỏi các tổ chức phát hành phải cần đến những công ty chứng
khoán tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng
khoán ra công chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các
công ty chứng khoán và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong
tổng doanh thu của công ty chứng khoán.
Như vậy nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là việc công ty chứng khoán
có chức năng bảo lãnh (gọi tắt là tổ chức bảo lãnh –TCBL) giúp các tổ
chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ
chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong
giai đoạn đầu sau khi phát hành.
• Hoạt động quản lý danh mục đầu tư
Đây là hoạt động quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào
chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng
trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh
mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ mang tính chất tổng hợp có kèm theo
đầu tư, khách hàng uỷ thác tiền cho công ty chứng khoán thay mặt mình
quyết định đầu tư theo một chiến lược mang những nguyên tắc đã được
khách hàng chấp nhận hoặc yêu cầu
Quy trình nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư có thể được khái quát
thông qua các bước sau:
Sơ đồ 1.1: Quy trình nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
Nhận
yêu
cầu
quản



hợp
đồng
quản

Thực
hiện
hợp
đồng
quản

Thanh
lý hợp
đồng
Công
ty
chứng
khoán
Khách
h ngà
- Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý: Công ty chứng khoán và khách
hàng tiếp xúc tìm hiểu về khả năng của nhau. Công ty chứng khoán phải
tìm hiểu rõ về khách hàng: là tổ chức hay cá nhân, số tiền và nguồn gốc
tiền định đầu tư, mục đích đầu tư, thời gian đầu tư Đồng thời, công ty phải
chứng minh cho khách hàng thấy được khả năng của mình, đặc biệt là khả
năng chuyên môn và khả năng kiểm soát nội bộ, đây là hai tiêu chuẩn quan
trọng nhất của công ty. Khả năng chuyên môn chính là khả năng đầu tư vốn
đem lại lợi nhuận cho khách hàng còn khả năng kiểm soát nội bộ là khả
năng công ty có thể đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng, chống lại sự
thất thoát do sự vô ý hay cố ý của nhân viên công ty.
- Ký hợp đồng quản lý: Công ty chứng khoán ký hợp đồng quản lý

giữa công ty và khách hàng theo các yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian uỷ
thác, mục tiêu đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên, phí quản lý danh
mục đầu tư mà công ty được hưởng.
- Thực hiện hợp đồng quản lý: Công ty chứng khoán thực hiện đầu
tư vốn uỷ thác của khách hàng theo các nội dung đã được cam kết và phải
đảm bảo tuân thủ các quy định về quản lý vốn, tài sản tách biệt giữa khách
hàng và chính công ty.
- Kết thúc hợp đồng quản lý: Khi đến hạn hợp đồng hay trong một số
trường hợp công ty giải thể, phá sản, ngừng hoạt động công ty phải cùng
với khách hàng bàn bạc và quyết định xem có tiếp tục gia hạn hay thanh lý
hợp đồng không. Trong trường hợp công ty chứng khoán phá sản, tài sản
uỷ thác của khách hàng phải được tách riêng và không được dùng để trả
các nghĩa vụ nợ của công ty chứng khoán.
• Các hoạt động phụ trợ khác:
- Hoạt động tín dụng
- Nghiệp vụ tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty
- Nghiệp vụ quản lý thu nhập chứng khoán (quản lý cổ tức)

1.2. HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.2.1. Các khái niệm
• Hoạt động tư vấn là hoạt động đưa ra những lời khuyên,
phân tích các tình huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch
vụ cho khách hàng.
• Giá trị:
Trong phân tích công ty thì nhà đầu tư đặc biệt chú ý đến việc đánh giá
giá trị tài sản của doanh nghiệp. Thuật ngữ giá trị thường được hiểu theo
nhiều khía cạnh khác nhau:
- Giá trị sổ sách: là giá trị của một tài sản được ghi trong bảng cân đối
kế toán của doanh nghiệp. Nó biểu hiện các chi phí trước đó của tài sản hơn

là giá trị hiện hành của tài sản đó và bằng giá trị thuần của doanh nghiệp
chia cho tổng số cổ phần phát hành ra.
- Giá trị thị trường: Là giá trị của cổ phiếu được mua bán trên thị
trường.
- Giá trị thực hay giá trị kinh tế: là giá trị hiện tại của những luồng tiền
kì vọng trong tương lai của tài sản. Giá trị này được nhà đầu tư đánh giá là
giá trị có thể chấp nhận được với một luồng tiền nhất định, một khoảng thời
gian và một mức rủi ro chấp nhận được của luồng tiền sẽ nhận được trong
tương lai.
• Xác định giá trị doanh nghiệp:
Định giá doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu trong nền kinh tế thị
trường nhất là trong nền kinh tế các doanh nghiệp cổ phần, tư nhân chiếm
đa số. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về giá trị doanh nghiệp và
xác định giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên có thể định nghĩa chúng một cách
chung nhất như sau:
+ Giá trị doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền và được đo bằng độ lớn
các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong
quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Xác định giá trị doanh nghiệp hay còn gọi là định giá doanh nghiệp,
về thực chất là việc lượng hoá các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể
tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, làm cơ sở cho các hoạt động
giao dịch thông thường của thị trường.
Như vậy, quan niệm trên đây về giá trị doanh nghiệp và xác định giá trị
doanh nghiệp là những khái niệm hết sức cơ bản. Nó được coi là cơ sở lý
luận đối với các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường.
1.2.2.Những yờu cầu khi định giỏ.
Vấn đề xỏc định giỏ của doanh phải đảm bảo được những yờu cầu cần
thiết sau:
• Phải đảm bảo tớnh đỳng, tớnh đủ giỏ trị của doanh nghiệp

tại thời điểm xỏc định.
• Đảm bảo hài hoà giữa lợi ớch của Nhà nước, doanh nghiệp,
cỏc nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp (những người mua cổ
phần.
• Tụn trọng nguyờn tắc thị trường, phải gắn với tỡnh hỡnh
thực tế của thị trường chứng khoỏn và thị trường vốn.
Trong cỏc yờu cầu núi trờn thỡ yờu cầu đảm bảo tớnh đỳng, tớnh đủ giỏ
trị của doanh nghiệp là yờu cầu khú thực hiện nhất. Muốn vậy cần xỏc
định:
- Giỏ trị thực tế của doanh nghiệp được cổ phần CPH
- Giỏ trị thực tế vốn nhà nước tại doanh nghiệp được CPH
- Giỏ trị quyền sử dụng đất (với doanh nghiệp lựa chọn hỡnh thức giao
đất).
- Lợi thế thương mại (lợi thế kinh doanh).
1.2.3.Cỏc phương phỏp xỏc định giỏ trị doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường hiện nay
1.2.3.1. Phương phỏp giỏ trị tài sản thuần
Phương phỏp định giỏ doanh nghiệp theo giỏ trị tài sản thuần cho rằng,
doanh nghiệp cũng giống như một hàng hoỏ thụng thường, giỏ trị của một
doanh nghiệp được tớnh bằng tổng giỏ trị thị trường của số tài sản mà
doanh nghiệp đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh (SXKD).
• Phương phỏp xỏc định:
Tổng giỏ trị của tài sản trong doanh nghiệp được hỡnh thành từ nhiều
nguồn khỏc nhau, cú thể là của chủ doanh nghiệp, của trỏi chủ, người cho
doanh nghiệp vay vốn, tiền lương chưa đến kỳ hạn trả, thuế chưa đến kỳ
hạn nộp, cỏc khoản ứng trước của khỏch hàng Chớnh vỡ vậy để xỏc định
chớnh xỏc giỏ trị của doanh nghiệp, ta phải xỏc định giỏ trị tài sản thuần,
nghĩa là, chủ sở hữu khi tiến hành bỏn doanh nghiệp chỉ cú thể tiến hành
bỏn những tài sản doanh nghiệp đang quản lý sử dụng mà thụi.
• Cụng thức xỏc đỡnh giỏ trị doanh nghiệp theo phương phỏp:

Theo phương phỏp này cụng thức được xõy dựng như sau:
V
0
= V
t
- V
n

Trong đó:
V
0
: giỏ trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp
V
t
: tổng giỏ trị tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào SXKD
V
n
: giỏ trị cỏc khoản nợ
• Ưu điểm của phương phỏp
Đõy là cỏch tớnh khỏ đơn giản. Nếu doanh nghiệp ghi chộp khỏ đầy
đủ cỏc nghiệp vụ kinh tế phỏt sinh và chấp hành tốt cỏc chế độ kế toỏn hiện
hành thỡ việc tớnh toỏn hoàn toàn cú cơ sở tin cậy.
• Nhược điểm của phương phỏp này
Tuy nhiờn ngay cả khi doanh nghiệp ghi chộp đầy đủ và thực hiện
nghiờm khắc cỏc chế độ kế toỏn của nhà nước thỡ số liệu trờn bảng cõn đối
kế toỏn cũng chỉ phản ỏnh giỏ trị của doanh nghiệp tại một thời điểm nào
đú chứ khụng phản ỏnh đỳng giỏ trị thị trường của toàn bộ số tài sản của
doanh nghiệp.
1.2.3.2 Phương phỏp hiện tại hoỏ cỏc nguồn tài chớnh tương lai
Theo phương phỏp này, giỏ trị của một doanh nghiệp được đo bằng độ

lớn cỏc khoản thu nhập mà doanh nghiệp cú thể mang lại cho cỏc nhà đầu
tư trong tương lai. Tuy nhiờn, giỏ trị của tiền ở cỏc thời điểm khỏc nhau sẽ
khụng giống nhau, cho nờn cần thực hiện quy đổi cỏc khoản thu nhập về
cựng một thời điểm, đú là thời điểm hiện tại.
• Cụng thức tổng quỏt:
Trong đú:
V
0
: Giỏ trị doanh nghiệp
F
t
: Thu nhập đem lại cho nhà đầu tư năm thứ t
i : Tỷ suất chiết khấu
n : Thời gian đỏo hạn
Xuất phỏt từ cụng thức tổng quỏt mà cỏc nhà đầu tư, tuỳ theo cỏch
nhỡn nhận về lợi ớch doanh nghiệp cú thể đem lại cho mỡnh, vận dụng và
phỏt triển cụng thức định giỏ doanh nghiệp dưới nhiều hỡnh thức khỏc
nhau.
Phương phỏp định giỏ chứng khoỏn
Giỏ trị thực của một chứng khoỏn được đỏnh giỏ bằng độ lớn của
cỏc khoản thu nhập mà nhà đầu tư chắc chắn sẽ nhận được do yếu tố đầu
tư chứng khoán. Vì vậy, giá cả của chứng khoán sẽ do giá trị của doanh
nghiệp quyết định. Theo đó,giá trị của DN sẽ bằng tổng giá trị các loại
chứng khoán mà DN dã phát hành.
• Phương pháp xác định
Trong đó:
PV
0
: Giá trị thực của một chứng khoán
R

t
: Thu nhập của chứng khoán ở năm thứ t
i: Tỷ suất triết khấu (tỷ lệ thu nhập dự tính)
n: Thời điểm đáo hạn
• ưu điểm:
Phương pháp định giá chứng khoán là mô hình đầu tiên tiếp cận trực
tiếp các khoản thu nhập dưới hình thức lợi tức cổ phần để xác định giá trị
chứng khoán. Thông qua việc phân tích, nhà đầu tư sẽ đánh giá giá cả
chứng khoán trên thị trường có đi quá xa so với giá trị thực của nó hay
không, từ đó xác định mức độ đầu cơ đối với từng loại chứng khoán và đầu
cơ trong việc mua bán DN.
Phương pháp định giá chứng khoán đặc biệt phù hợp với quan điểm
nhìn nhận của nhà đầu tư thiểu số, những người không có khả năng thâu
tóm quyền kiểm soát DN.
Phương pháp định giá chứng khoán xác định giá trị DN dựa trên dòng lợi
tức cổ phần, tỏ ra khá thích hợp với các DN có chứng khoán được dao dịch
trên thị trường, xác định giá trị tài sản thuần gặp nhiều khó khăn và những
DNcó tài sản hữu hình không đáng kể nhưng được đánh giá rất cẳô những
giá tị vô hình.
• Nhược điểm
Việc dự báo lợi tức cổ phần không phải là đơn giản. Cổ phiếu là loại
chứng khoán rủi ro nhất nên giả thuyết về sự ổn định của cổ tức và mức độ
tăng trưởng đều đặn thường không thuyết phục được nhà đầu tư.
Để xác định giá trị cổ tức, phải xây dựng được một lý thuyết định hướng
phân chia lợi nhuận trong tương lai. Trong thực tế, chính sách phân chia lợi
tức cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố như nhu cầu đầu tư, nhu cầu trả
nợ, khả năng tích luỹ vốn khấu hao,chính sách thuế thu nhập của nhà
nước
Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần.
Trong quá trình sản suất kinh doanh, daonh thu của DN được sử

dụng để bù đắp các khoản chi phí phát sinh, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
cho ngân sách nhà nước. Phần còn lại chính là lợi nhuận thuộc về DN. Giá
trị một DN, theo đó, sẽ được đo bằng độ lớn của các khoản lợi nhuận thuần
mà DN có thể mang lại cho chủ sở hữu trong suốt thời gian tồn tại của DN.
• Phương pháp xác định:
Để đảm bảo cho sự nhất quán trong việc đánh giá các khoản lợi
nhuận thuần phát sinh ở các thời điểm khác nhau trong tương lai, người ta
thực hiện việc quy đổi chúng về thời điểm hiện tại theo một lãi suất nhất
định, còn gọi là lãi suất triết khấu hay tỷ suất hiện tại hoá.
Công thức:
Trong đó:
V
0
: Giá trị DN
Pr
t
: Lợi nhuận năm thứ t
• ưu điểm
Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần được xây dựng phù hợp
với các DN không có nhiều tài sản để khấu hao, khả năng tích luỹ vốn từ
khấu hao và lợi nhuận để lại không đáng kể, phần lớn lợi nhuận sau thuế
đều được trả cho các nhà đầu tư.
Việc định lượng lợi nhuận trong tương lai bao giờ cũng dễ dàng hơn
vì người ta không cần tính đến sự chi phối của chính sách, định hướng
phân chia lợi tức cổ phần trong DN.
• Nhược điểm
Việc điều chỉnh số liệu trong quá khứ để rút ra tính quy luật của lợi
nhuận trong tương lai không phù hợp với tình hình chiến lược về DN. Đặc
biệt là đối với những DN mới thành lập chưa có quá khứ để xem xét, còn
đối với DN đã “trưởng thành” thì lợi nhuận đạt được hàng năm là tương đối

ổn định.
Phương pháp dòng tiền chiết khấu
Phương pháp dòng tiền chiết khấu là một phương pháp xác định giá
trị DN dựa trên quan điểm đánh giá của nhà đầu tư đa số. Đối với nhà đầu
tư đa số, việc bỏ tiền ra mua DN có thể mang lại trong tương lai, mà là để
đổi lấy một cơ hội, nhà đầu tư sau khi nắm quyền kiểm soát có thể điều
khiển DN hoạt động theo tính toán của mình để mang lại lợi nhuận lớn
nhất.
Nhà đầu tư luôn đánh giá mọi việc dựa trên cơ sở dòng tiền. Họ chỉ
tiến hành mua DN khi đã đánh giá DN theo đúng tiêu chuẩn hiệu quả của
dự án đầu tư, đồng thời, cân nhắc về thời điểm phát sinh các dòng tiền đó.
Do vậy, giá trị hiện tại của dòng tiền thuần mà việc đầu tư vào doanh
nghiệp cả ở thời điểm hiện tại và tương lai đem lại cho nhà đầu tư đa số
được coi là tiêu chuẩn thích hợp để xác định giá trị DN.
• ưu điểm
Cách tính toán giá trị DN theo phương pháp này về thực chất là lựa
chọn phương pháp đầu tư tối ưu. Do đó, giá trị DN tính toán được sẽ là
mức giá cao nhất mà nhà đầu tư đa số có thể trả, nếu tham gia đấu thầu.
Phương pháp này thích hợp với cách tiếp cận DN của các nhà đầu tư đa số.
Phương pháp này cung cấp một cách giải thích rõ ràng nhất vì sao
DN này lại có giá trị cao hơn DN kia.
Đây là phương pháp điển hình được xem xét trong một trạng thái
động vì công thức tổng quát xây dựng đòi hỏi phải đề cập và lượng hoá
toàn bộ yếu tố tác động tới giá trị DN như doanh thu, chi phí, thuế thu
nhập, vốn đầu tư, tỷ suất chiết khấu dòng tiền
• Nhược điểm
Phương pháp dòng tiền chiết khấu gặp phải khó khăn trong vấn đề
lượng hoá tỉ suất chiết khấu và chu kỳ đầu tư. Đối với những doanh nghiệp
nhỏ không có chiến lược kinh doanh hoặc chiến lược kinh doanh không rõ
ràng thì phương pháp này đôi khi mang nặng tính lý thuyết. Phương pháp

này đòi hỏi người đánh giá phải có năng lự chuyên môn trong việc thảm
định dự án đầu tư.
Phương pháp này đòi hỏi một lượng thông tin lớn, đáng tin cậy để
đánh giá các yếu tố bên trong và bên ngoài tác động đến DN.
1.2.3.3. Phương pháp định lượng Goodwill (GW –lợi thế thương
mại)
Phương pháp này đưa ra nhằm định giá DN trên cơ sở xác định giá
trị tài sản vô hình. Để hiểu rõ phương pháp này, chúng ta xuất phát từ một
số vấn đề lý thuyết cơ bản về tài sản vô hình:
Giá trị của tài sản vô hình trong một DN được tính bằng giá trị hiện
tại của các khoản thu nhập do tài sản vô hình tạo ra hay nói cách khác
chính là giá trị hiện tại của các khoản siêu lợi nhuận.
- Phương pháp xác định:
GW: Giá trị tài sản vô hình, còn gọi là lợi thế thương mại.
B
t
: Lợi nhuận năm t:
)1( nt −=
r : Tỉ suất lợi nhuận thông thường của tài sản đưa vào kinh doanh.
r.A
t
: Lợi nhuận bình thường của tài sản năm t
Khi đó: V
0
=ACN+ GW
V
0
: Giá trị DN
ACN: Giá trị tài sản thuần
• Ưu điểm

Cho đến nay, đây là phương pháp duy nhất xác định giá trị tài sản vô
hình của DN. Nó đã thiết lập được cơ sở lý luận vững chắc nhất chứng
minh giá trị của DN được cấu thành từ 2 yếu tố là tài sản hữu hình và tài
sản vô hình, đồng thời, xây dựng được cơ sở để lượng hoá yếu tố giá trị của
tài sản vô hình.
Phương pháp GW xác định giá trị DN trên cơ sở tính đến lợi ích của
cả người mua và người bán. Công thức xác định đã hàm chứa một điều
rằng: Người mua DN là nhằm thu được khoản lợi nhuận cao hơn mức sinh
lời bình thường của một tài sản chứ không phải mua những tài sản hiện
hành. Hơn nữa, nó còn chỉ ra quan niêm về mức sinh lời tối thiểu của một
đồng vốn vào đầu tư.
• Nhược điểm
Công thức tính giá trị tài sản vô hình theo GW thực chất căn cứ vào
giá trị hiện tại của siêu lợi nhuận. Tuy nhên, trong điều kiện thị trường cạnh
tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay thì việc duy trì một tỷ lệ siêu lợi
nhuận trong một khoảng thời gian dài là vô cùng khó khăn. Vì vậy, rất khó
xác định thời gian cố định có thể duy trì mức siêu lợi nhuận. Do đó, rất khó
xác định thành phần B
t
-r.A
t
trong công thức.
Theo phương pháp này giá trị tài sản vô hình phụ thuộc rất lớn vào
các tham số B
t
, A
t
, r. Do đó, việc lựa chọn các tham số này khác nhau sẽ
đưa đến sự sai lệch rất lớn trong việc định giá tài sản vô hình của DN. Có
rất nhiều quan điểm khác nhau trong việc định lượng các tham số B

t
, A
t
, r
xuất phát từ quan niệm về chi phí cơ hội của các nhà đầu tư là khác nhau.
Phương pháp này không cung cấp được những cơ sở dữ liệu khác để
nhà đầu tư đánh giá triển vọng của DN trong tương lai.
Trên đây là các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trên thị
trường chứng khoán của các nước trên thế giới. Còn trên thị trường Việt
Nam sẽ sử dụng những phương pháp định giá doanh nghiệp nào trong phần
tiếp theo của chuyên đề sẽ đề cập tới.
1.2.4. Những khó khăn đối với một công ty chứng khoán khi
thực hiện hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp
Công ty chứng khoán có rất nhiều khó khăn trong hoạt động tư vấn
xác định giá trị doanh nghiệp:
Trước hết là cơ chế tài chính cho việc thực hiện chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần chậm được sơ kết, đánh giá, sửa đổi,
bổ sung kịp thời. Công tác xử lý nợ và tài sản tồn đọng còn mang tính hành
chính, thủ tục rườm rà, qua nhiều khâu, nhiều cấp mất thời gian.
Các quy định và các văn pháp luật của chúng ta cũng chưa thực sự
được hoàn thiện, chậm sửa đổi bổ sung, các văn bản pháp luật lại không
được thống nhất. Chính vì vậy việc áp dụng những văn bản này đối với
những công ty chứng khoán cũng gây những khó khăn.
Về phương pháp, cũng có những khó khăn bất cập. Các công ty
chứng khoán ở nước ta chủ yếu xác định giá trị doanh nghiệp theo phương
pháp tài sản còn những phương pháp khác thì hầu như không được áp
dụng, việc này đã làm cho công ty chứng khoán không tận dụng được
những ưu điểm của những phương pháp còn lại, đồng thời không phải bất
cứ doanh nghiệp nào cũng thích hợp với việc định giá theo phương pháp tài
sản.

Công việc xác định giá trị doanh nghiệp là một công việc phức tạp
và đòi hỏi mất nhiều công sức và nguồn nhân lực, tuy nhiên công ty chứng
khoán tuy có nguồn nhân lực có năng lực có trách nhiệm nhưng lại không
nhiều lực lượng không đông, một người có thể phải cùng một lúc làm nhiều
công việc vì vậy cũng gây khó khăn cho việc định giá.
1.3 ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN PHÁT
TRIỂN HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
1.3.1. Khung pháp lý
Khi một doanh nghiệp muốn thực hiện một hoạt động kinh doanh
nào đó thì nó phải dựa vào một chuẩn mực đó là khung pháp lý quy định
cho loại hình kinh doanh đó. Kinh doanh trong loại hình tư vấn tài chính
doanh nghiệp cũng vậy cũng cần có những quy định của pháp luật để các
hoạt động có thể diễn ra một cách bình thường và đảm bảo sự công bằng.
Tại Việt Nam hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp được hướng
dẫn thực hiện tại các văn bản sau:
- Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về
việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
- Thông tư 126/2004/TT-BTC này 24/12/2004 của Bộ Tài chính
Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về
chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
Theo Nghị định 187/NĐ-CP ngày 16/11/2004/ và Thông tư 126/TT-
BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định thì có 2 phương pháp để xác định giá
trị doanh nghiệp hiện được sử dụng tại Việt Nam:
- Phương pháp dòng tiền chiết khấu (áp dụng trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng, thương mại, tư vấn thiết kế xây dựng, tin học, chuyển giao công
nghệ có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân 5 năm liền
kề trước khi CPH cao hơn lãi suất trả trước của trái phiếu chính phủ có kì
hạn 10 năm trở lên tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị
doanh nghiệp).
- Phương pháp tài sản (áp dụng với các doanh nghiệp có nghành nghề

kinh doanh khác với các doanh nghiệp trên).
Thông tư 126/TT- BTC đã hướng dẫn cụ thể các phương pháp xác
định giá trị doanh nghiệp mà các công ty chứng khoán có thể áp dụng trong
hoạt động của mình. Đây là khung pháp lý mà các doanh nghiệp có thể soi
vào để điều chỉnh mọi hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp của mình.
1.3.2. Sự phát triển của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động đã
được hơn 5 năm. Có thể nói hơn 5 năm qua chúng ta đã xây dựng và vận
hành được thị trường chứng khoán có tổ chức, về cơ bản đã hình thành khá
đầy đủ các chủ thể tham gia thị trường, bước đầu đã thực hiện huy động
vốn đầu tư cho doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán, cung cấp cho
nền kinh tế một kênh đầu tư mới, tạo tiền đề phát triển thị trường chứng
khoán trong thời gian tới. Thị trường chứng khoán ra đời và hoạt động đã
có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế nhất là trong lộ trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Trong thời gian gần đây Thị trường chứng khoán phát triển ngày
càng mạnh, các công ty niêm yết trên thị trường ngày càng nhiều, và ngày
càng nhiều công ty muốn phát hành chứng khoán trên thị trường. Mặt khác,
tiến trình CPH đang ngày càng được đẩy mạnh, chính vì vậy hoạt động xác
định giá trị doanh nghiệp hình thành và phát triển là một tất yếu và rất cần
thiết.
1.3.3. Thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước và tăng cường hoạt động phát hành chứng khoán ra thị
trường
Qua 15 năm thực hiện, hết năm 2005, chúng ta đã thành lập được
2987 công ty cổ phần trên cơ sở CPH DNNN và bộ phận DNNN. Sau 15
năm thực hiện có thể nhận thấy những chuyển biến sau:
Thứ nhất, sự chuyển hướng từ CPh các DNNN trong một số lĩnh
vực sang hầu hết các ngành lĩnh vực chỉ trừ loại DNNN trong lĩnh vực dầu
khí và an ninh quốc phòng. Chuyển biến từ việc CPH các doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ, có quy mô vốn nhỏ sang cả những doanh nghiệp có quy mô

vốn lớn và làm ăn có lãi. Tiến trình CPH từ những công ty nhỏ sang cả
tổng công ty.
Thứ hai, tiến trình CPH không chỉ thu hút vốn của các nhà đầu tư,
của những người lao động trong doanh nghiệp mà còn thu hút cả của
những người nông dân cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp biến
họ trở thành những cổ đông, gắn bó họ với sự phát triển của doanh nghiệp.
Thứ ba, việc chuyển từ CPH theo hướng cơ bản khép kín, nội bộ
sang hình thức đấu giá công khai, bán cổ phần ra bên ngoài để thu hút nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Đây được coi là sự chuyển biến “có chất” nhất
thể hiện sự thay đổi căn bản quan điểm và chủ trương về CPH, góp phần
tạo ra sức bật mạnh mẽ để đẩy nhanh, mạnh quá trình cải cách hệ thống

×