Tải bản đầy đủ (.doc) (169 trang)

phát triển dịch vụ thuế ở việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.81 KB, 169 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Việc tạo lập và động viên các nguồn lực cho ngân sách quốc gia, tạo tiền
đề quyết định để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân và củng cố an ninh quốc phòng được xem là một trong những
nhiệm vụ chính trị hàng đầu. Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, do đó, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thuế là yêu cầu mang tính cấp thiết.
Để thực hiện thành công công cuộc này, bên cạnh sự phối hợp, nỗ lực của toàn
bộ hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp, cần phải triển khai đồng bộ,
quyết liệt các giải pháp, trong đó có việc phát triển dịch vụ thuế.
Dịch vụ thuế là một khái niệm đã xuất hiện khá lâu trong quản lý thuế của
các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đặc biệt, trong những năm gần đây đã xuất
hiện khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến dịch vụ thuế, qua đó đã thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và quản lý thuế ở nhiều nước. Tuy
nhiên, các công trình chỉ mới nghiên cứu về dịch vụ thuế trong bối cảnh về quản
lý thuế nói chung, xem xét về dịch vụ thuế trong mối quan hệ đan xen với các
biện pháp, chức năng quản lý thuế khác, ít có công trình nghiên cứu chuyên sâu,
riêng biệt cũng như đầy đủ và toàn diện về dịch vụ thuế. Một số vấn đề quan
trọng đến nay vẫn chưa có câu trả lời đầy đủ, cụ thể như: Vai trò của dịch vụ
thuế trong quản lý thuế; Tại sao phải triển dịch vụ thuế; Các tiêu chí đánh giá
chất lượng và hiệu quả dịch vụ thuế; Các mô hình phát triển dịch vụ thuế; Các
điều kiện về pháp lý cho việc phát triển dịch vụ thuế; Yêu cầu cho việc phát triển
dịch vụ thuế.
Ở nước ta dịch vụ thuế là khái niệm mới xuất hiện, nó tồn tại từ khi nền
kinh tế thực hiện mở cửa và hội nhập. Với tư cách là một trong những phương
tiện hỗ trợ thiết thực cho công tác quản lý thuế, đồng thời cũng là một loại hình
kinh doanh mới, tìm hiểu về dịch vụ thuế là được xem là vấn đề quan trọng và
cần thiết. Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, hiện vấn đề này vẫn chưa được nghiên
cứu, phân tích và hệ thống hóa một cách đầy đủ và xuyên suốt. Chưa đánh giá
tổng thể về thực trạng cung cấp dịch vụ thuế ở nước ta, kể cả việc dịch vụ thuế
được cung cấp từ cơ quan quản lý hay dịch vụ thuế được cung cấp từ các tổ


chức, cá nhân trong xã hội cho người nộp thuế. Thực tế này đã dẫn đến việc
chưa có một hệ thống các giải pháp hữu hiệu để tạo điều kiện khuyến khích, thúc
đẩy dịch vụ thuế phát triển ở Việt Nam trong thời gian qua. Đây là một hạn chế
đang đặt ra và cần khắc phục, nhất là trong điều kiện như hiện nay khi mà Việt
Nam đang ngày càng tham gia mạnh mẽ việc hợp tác kinh tế, thương mại và đầu
tư với nhiều quốc gia và vũng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới. Nhận thức
được tầm quan trọng đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Phát triển dịch vụ thuế ở
Việt nam trong giai đoạn hiện nay” để tiến hành nghiên cứu làm luận án tiến sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án
Các mục đích nghiên cứu chủ yếu của Luận án là:
- Hệ thống hóa, góp phần bổ sung và hoàn thiện các vấn đề lý luận về
dịch vụ thuế.
- Đánh giá xác đáng thực trạng phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế và góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế ở Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động cung cấp dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế của cơ quan thuế (hay
gọi là dịch vụ thuế công) và hoạt động cung cấp dịch vụ thuế của các doanh
nghiệp ở Việt Nam (hay gọi là dịch vụ thuế tư).
4. Phạm vi nghiên cứu
- Đối với dịch vụ thuế công, luận án tập trung nghiên cứu dịch vụ hỗ trợ
người nộp thuế của cơ quan thuế, không nghiên cứu dịch vụ thuế cung cấp bởi
cơ quan hải quan vì hải quan là lĩnh vực đặc thù nên việc cung cấp dịch vụ thuế
của cơ quan có liên quan đến nhiều nội dung khác mà trong thời gian nghiên cứu
có hạn không cho phép tiến hành nghiên cứu. Hay nói cách khác, luận án chỉ
2
nghiên cứu trong lĩnh vực thu thuế nội địa, không nghiên cứu đối với lĩnh vực
thu thuế xuất nhập khẩu.
- Đối với dịch vụ thuế tư, luận án nghiên cứu ở các đối tượng cung cấp

dịch vụ thuế (sẽ tập trung nghiên cứu chủ yếu vào các Đại lý thuế bởi vì trong
thực tế các công ty tư vấn về tài chính, kế toán, kiểm toán, công ty tư vấn luật đã
và sẽ hoàn thành các điều kiện để trở thành các đại lý thuế).
- Về thời gian nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu tình hình cung
cấp dịch vụ thuế từ năm 2007 (gắn với việc ra đời của Luật Quản lý thuế) đến
năm 2012, một số chỉ tiêu có mở rộng đến năm 2013. Tác giả nghiên cứu đứng
trên giác độ của một nhà nghiên cứu kinh tế độc lập.
- Về không gian nghiên cứu: Luận án tập trung chủ yếu nghiên cứu ở
những địa bàn kinh tế trọng điểm, nơi đóng góp chủ yếu số thu cho NSNN như:
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương,
Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương Đồng thời, các giải
pháp được nêu ra trong Luận án nhằm phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam đến
năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học,
trong đó chủ yếu là phương pháp logic - biện chứng, phương pháp phân tích -
tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Hệ thống hóa, làm rõ những vấn đề lý luận về dịch vụ thuế phục vụ cho
công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy của các trường đại học, cũng như
công tác điều hành quản lý của cơ quan thuế các cấp; Phân tích rõ vai trò và
sự cần thiết phát triển dịch vụ thuế ở nước ta trong bối cảnh đẩy mạnh công
tác cải cách hiện đại hoá ngành Thuế và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
như hiện nay; Nghiên cứu kinh nghiệm về việc phát triển dịch vụ thuế ở một
số quốc gia và rút ra nhận xét, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
3
Phân tích, đánh giá thực trạng của dịch vụ thuế trên hai góc độ: Dịch vụ
thuế do cơ quan thuế cung cấp cho người nộp thuế với tư cách là dịch vụ hành
chính công xuất phát từ vị trí của cơ quan quản lý nhà nước đối với đối tượng
chịu sự quản lý. Dịch vụ thuế do các tổ chức, cá nhân có chức năng trong xã

hội được pháp luật thừa nhận cung cấp cho người nộp thuế. Cả hai góc độ đều
được xem xét, đánh giá qua thực tế từ năm 2007 trở lại đây. Trên cơ sở đó,
Luận án đã phân tích, đánh giá kết quả đã đạt được và những tồn tại hạn chế
cũng như tìm ra những nguyên nhân của sự tồn tại, hạn chế đó.
Luận án đã đóng góp những giải pháp nhằm phát triển dịch vụ thuế ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và cả trong thời gian dài ở tương lai theo
các nội dung: xác lập vị trí pháp lý, tổ chức bộ máy/mô hình cung cấp dịch vụ
thuế công/tư, đào tạo nguồn nhân lực của cơ quan thuế cũng như nâng cao
chất lượng của dịch vụ thuế tư, ban hành quy chế giám sát, kiểm tra nhằm
đánh giá, kiểm soát chất lượng dịch vụ thuế công/tư, tăng cường quảng bá,
giới thiệu rộng rãi trong xã hội về ý nghĩa, lợi ích của việc phát triển dịch vụ
thuế tư. Các giải pháp được trình bày súc tích, ngắn gọn và dễ hiểu, bên cạnh
ý nghĩa thực tiễn, những giải pháp còn gợi mở những ý tưởng, tạo tiền đề cho
các nghiên cứu phát triển dịch vụ thuế trong tương lai xa hơn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được kết cấu thành bốn chương:
- Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về phát triển dịch vụ thuế
- Chương 2: Một số vấn đề lý luận và sự cần thiết phát triển dịch vụ
thuế ở Việt Nam
- Chương 3: Thực trạng dịch vụ thuế ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2012
- Chương 4: Giải pháp phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam giai đoạn
2013 - 2020


4
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THUẾ
1.1. Các công trình nghiên cứu trước đây
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài

Theo khảo sát, tìm hiểu của tác giả, trên thế giới hiện nay có khá nhiều tài
liệu liên quan đến dịch vụ thuế, trong đó chủ yếu được trình bày trong mối tương
quan với các nội dung khác, ít có tài liệu độc lập, hoặc chỉ mới nghiên cứu một
trong hai nội dung chính của loại dịch vụ thuế thuế (công và tư), điển hình như:
1.1.1.1. Otake Kenichiro (2011), “Lịch sử, vai trò của kế toán công tại
Nhật Bản” (Chủ tịch Hiệp hội kế toán công Nhật Bản, tài liệu Hội thảo tháng
8/2011 tại Việt Nam): Đây là tài liệu trình bày về lịch sử ra đời và phát triển
nghề kế toán thuế công (đại lý thuế) tại Nhật Bản, nêu lên các loại hình dịch vụ
do kế toán công cung cấp cũng như đề xuất đến tổ chức và phương thức hoạt
động của Hiệp hội kế toán thuế công Nhật Bản. Qua đó đưa đến cái nhìn toàn
cảnh về lịch sử hình thành, phát triển của dịch vụ thuế tại Nhật Bản, cho thấy
quy mô, vai trò và tầm quan trọng của dịch vụ thuế. Đồng thời, nói lên ý nghĩa
của Hiệp hội kế toán thuế công, đó là nơi tập hợp những đại lý thuế và chịu trách
nhiệm quản lý việc đăng ký hành nghề của đại lý thuế (các đại lý thuế muốn
hành nghề phải đăng ký tham gia thành viên với Hiệp hội). Ngoài ra, tài liệu đề
cập đến chức năng của Hiệp hội kế toán công, mối quan hệ giữa hiệp hội và cơ
quan quản lý thuế Nhật Bản. Tài liệu này ý nghĩa với việc lựa chọn mô hình
quản lý, theo dõi hoạt động, đăng ký thành viên đại lý thuế ở nước ta. Tuy nhiên,
đây chỉ là tài liệu tổng kết thực tiễn thuần túy, chưa có cái nhìn tổng quan về
dịch vụ thuế, chưa đề cập đến dịch vụ thuế công do cơ quan thuế cung cấp [53].
1.1.1.2. Trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2007, Tạp chí Thuế
quốc tế đã khảo sát thực tế tại một số quốc gia ở khu vực Nam Mỹ về “Dịch
vụ thuế đang thay đổi như thế nào” (How tax services are changing). Nội
5
dung của cuộc khảo sát là đặt ra các câu hỏi đối với những người có liên quan
đến lĩnh vực dịch vụ thuế như công chức thuế, doanh nghiệp, doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ thuế… Các vấn đề chủ yếu mà công trình khảo sát này
nghiên cứu là: Các hình thức cung cấp dịch vụ thuế đã được tiến hành như thế
nào; đối tượng nộp thuế có thỏa mãn với dịch vụ đã được cung cấp không;
các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuế có thu nhập như thế nào; loại dịch vụ

thuế nào phát triển nhanh nhất… Từ kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả công
trình này đã có những nhận định về sự thay đổi của dịch vụ ở khu vực này và
xu hướng thay đổi trong thời gian tới. Như vậy, đây chỉ là một công trình
nghiên cứu thực tiễn thuần túy, không tiến hành nghiên cứu có hệ thống về
dịch vụ, đặc biệt là các vấn đề lý luận về dịch vụ thuế trong quản lý thuế [51].
1.1.1.3. Công trình nghiên cứu của Amardeep Dihllon và Jan G Buovwer
về “Cải cách quản lý thuế ở các nước đang phát triển” năm 2005 (Tax
administration reform in developing nations). Công trình này chủ yếu nghiên
cứu về sự cần thiết, hiệu quả, mục tiêu và định hướng cải cách quản lý thuế ở
các nước đang phát triển. Tuy nhiên, có một phần nội dung khá quan trọng có
đề cập đến dịch vụ thuế. Theo đó, dịch vụ thuế được coi là một yếu tố quan
trọng quyết định đến hiệu quả của cải cách thuế. Tuy nhiên, do không tập
trung chuyên sâu nghiên cứu về dịch vụ thuế nên công trình này không phân
tích sâu những yếu tố cần thiết để phát triển dịch vụ thuế ở các nước đang
phát triển [49].
1.1.1.4. Công trình nghiên cứu của Glenn Jenkins, Rup Khadka (1998) về
“Cải cách thuế ở Singapore” (Tax reform in Singapore). Đây là một công
trình nghiên cứu toàn diện về cải cách thuế ở Singapore. Trong đó, vấn đề
dịch vụ thuế cũng được đề cập khá sâu sắc. Nội dung chủ yếu có liên quan
đến dịch vụ thuế là các vấn đề về Chương trình giáo dục đối tượng nộp thuế
của Singapore, Chương trình giáo dục công chúng về thuế, Chương trình tạo
điều kiện phát triển các công ty tư vấn thuế… Công trình này cung cấp những
6
kinh nghiệm hay về việc tạo chính sách phát triển dịch vụ thuế. Tuy vậy, công
trình này không nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống về dịch vụ thuế [50], [52].
1.1.1.5. Cơ quan thuế và hải quan Estonia với công trình nghiên cứu có tiêu
đề “Dịch vụ khách hàng ở cơ quan thuế và hải quan Estonia” (Customer service
in Estonian tax and customs). Công trình này giới thiệu khái quát về tổ chức bộ
máy và các hình thức cung cấp dịch vụ thuế thực hiện bởi cơ quan thuế và hải
quan Estonia. Công trình này không trình bày về các dịch vụ thuế do các doanh

nghiệp thực hiện và không trình bày đầy đủ cơ sở lý luận của dịch vụ thuế [56].
1.1.1.6. Cơ quan thuế và ngân khố quốc gia Latvia có công trình mang tiêu
đề “Chiến lược quản lý thuế và thu ngân sách quốc gia gia” (Nguyên bản tiếng
Anh “State revenue service tax administration strategy”). Trong nghiên cứu này,
các tác giả đã nghiên cứu khá công phu về dịch vụ thuế với những phân tích sâu
sắc về chiến lược hướng tới đối tượng nộp thuế như là khách hàng của cơ quan
thuế; các mục tiêu, nhiệm vụ của cơ quan trong việc cung cấp dịch vụ thuế cho
đối tượng nộp thuế… Tuy nhiên, công trình này không nghiên cứu đầy đủ về
dịch vụ thuế do khu vực tư nhân thực hiện [56].
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, cho đến nay chưa có Luận án Tiến sĩ, Giáo trình, công trình
nào được nghiên cứu, xuất bản một cách đầy đủ về dịch vụ thuế. Đối với cơ
quan quản lý Nhà nước về thuế - Tổng cục Thuế, chỉ có các tài liệu liên quan
đến dịch vụ tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế - dịch vụ thuế công. Đối với dịch
vụ thuế tư, gần như không có tài liệu về cơ sở lý luận, rất ít tài liệu về thực trạng
phát triển. Tuy nhiên có một số bài báo, công trình nghiên cứu liên quan, đề cập
đến những khía cạnh nhất định đến vấn đề này như:
1.1.2.1. “Luật hóa dịch vụ tư vấn thuế: Doanh nghiệp và cơ quan thuế
cùng có lợi” Thuế Nhà nước số 10 (80), Hà Nội của Mai Thanh. [34]. Bài viết
này phân tích những luận cứ chủ yếu phải xây dựng hành lang pháp lý cho dịch
vụ thuế ở Việt Nam cũng như đề xuất những hướng xây dựng văn bản pháp
luật về dịch vụ thuế ở Việt Nam trong thời gian trước mắt.
7
1.1.2.2. “Vai trò của dịch vụ tư vấn trong công tác quản lý thuế” Thuế
Nhà nước, số 6/2004 của Lê Xuân Trường. [32]. Bài viết này đã đề cập đến
những vấn đề lý luận về dịch vụ thuế như lựa chọn mô hình dịch vụ thuế, các
cách thức tư vấn của cơ quan thuế, những nội dung cơ bản của dịch vụ thuế,
các điều kiện để phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam. Tuy nhiên, công trình này
chỉ trình bày những giải pháp mang tính ngắn hạn để phát triển dịch vụ thuế,
chưa nghiên cứu những giải pháp trung và dài hạn phát triển dịch vụ thuế ở

Việt Nam. Đồng thời, công trình cũng chưa đề cập sâu đến khía cạnh pháp lý
cần giải quyết để phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh
hiện nay.
1.1.2.3. “Tư vấn hỗ trợ người nộp thuế - Dịch vụ cần được xã hội hóa”
Thuế Nhà nước số 6/2006 của Lê Duy Thành. [33]. Bài viết này đã nêu lên
luận cứ cần phải xã hội hoá dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế, tuy nhiên với cách
tiếp cận coi dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế là một dịch vụ công cộng, tách bạch
hẳn chức năng quản lý và giám sát của cơ quan thuế trong bối cảnh hiện nay là
chưa phù hợp, đặc biệt với trình độ hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật thuế nói
riêng và pháp luật nói chung ở Việt Nam. Mặt khác, dưới góc độ lý luận, chức
năng hỗ trợ trong một số trường hợp độc lập với chủ thể quản lý và được đảm
trách bởi lực lượng chuyên môn hoá khác. Tuy nhiên, nó không hoàn toàn tách
rời, nó gắn liền với chức chức năng quản lý của cơ quan thuế, hơn nữa, nếu
trong trường hợp các lực lượng khác thực hiện hỗ trợ người nộp thuế cũng cần
có sự giám sát, quản lý sát sao của cơ quan nhà nước có liên quan, trong đó có
cơ quan thuế.
1.1.2.4. “Phát triển dịch vụ thuế để nâng cao hiệu lực quản lý thuế và cải
thiện môi trường đầu tư” (2009), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do TS. Lê
Xuân Trường chủ nhiệm. [29]. Đây là một trong những công trình nghiên cứu
về dịch vụ thuế khá đầy đủ ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện nay. Đề tài đã
nghiên cứu những vấn đề căn bản về dịch vụ thuế, trình bày về kinh nghiệm phát
triển dịch vụ thuế ở một số nước, đã đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ ở
8
nước ta cũng như trình bày những giải pháp để phát triển dịch vụ thuế tại Việt
Nam. Tuy nhiên, đề tài này tập trung chủ yếu nghiên cứu dịch vụ thuế trong mối
quan hệ với việc cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao hiệu lực quản lý thuế.
Mặt khác, nghiên cứu này đưa ra những kết luận trong bối cảnh cũ, không còn
phù hợp trong điều kiện hiện nay. Ngoài ra, với số liệu khảo sát bị hạn chế đối
với một vài tỉnh trên địa bàn lân cận Thành phố Hà Nội, công trình cũng bị hạn
chế bởi số liệu thực tế thu thập được. Bên cạnh đó, mặc dù đã đề cập hệ thống

các giải pháp phát triển dịch vụ thuế, tuy nhiên, do thực hiện trọng bối cảnh cũ
nên tính khả thi để áp dụng trong giai đoạn hiện nay là chưa cao. Một số giải
pháp chưa luận giải chi tiết và cụ thể, như các giải pháp về mô hình tổ chức cung
cấp dịch vụ thuế của cơ quan thuế, giải pháp về hoàn thiện quy trình quản lý
thuế. Ngoài ra, với số liệu thực tế về dịch vụ thuế tư, đề tài thu được rất ít, đề tài
chưa phản ánh xác thực nhất bức tranh tổng thể về thực trạng của dịch vụ thuế
công cũng như dịch vụ thuế tư ở nước ta.
1.1.2.5. “Phát triển đại lý thuế trong điều kiện Việt Nam hiện nay” (2010),
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính, do TS. Nguyễn Thị Thanh
Hoài chủ nhiệm. [30]. Đề tài đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về đại lý thuế và
vai trò của đại lý thuế. Đánh giá khái quát và cơ bản về thực trạng đại lý thuế ở
Việt Nam, qua đó phân tích, đánh giá những hạn chế, bất cập về chính sách và
các điều kiện phát triển đại lý thuế ở Việt Nam. Đồng thời đã đề xuất, kiến nghị
hệ thống chính sách, giải pháp phát triển đại lý thuế ở Việt Nam đến năm 2015.
Tuy nhiên, đề tài chỉ giới hạn đối với đại lý thuế - dịch vụ thuế tư, chưa nêu lên
toàn bộ về dịch vụ thuế. Ngoài ra, cũng như trên đã đề cập, đề tài bị giới hạn bởi
số liệu thực tế thu thập được còn hạn chế, chưa có cái nhìn toàn cảnh về thực
trạng đại lý thuế ở nước ta và điều kiện, bối cảnh nghiên cứu của đề tài không
còn phù hợp với điều kiện nghiên cứu hiện nay của Luận án.
Ngoài ra còn các công trình nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh nhất
định của dịch vụ thuế như:
9
- “Tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế: biện pháp thiết thực ngăn
chặn, phòng ngừa sai phạm” Thanh tra Tài chính số 21, Hà Nội, 2004 của
Hạnh Phương [35].
- “Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế – thí điểm để nhân rộng” Thuế Nhà
nước, số 1/2004 của PGS.TS Đặng Quốc Tuyến [36].
- “Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế – Nội dung quan trọng của cải cách
hành chính thuế” Thuế Nhà nước, số 12/2001 của TS. Đặng Quốc Tuyến [37].
Như vậy, mặc dù có đề cập đến các vấn đề lý luận của dịch vụ thuế,

song các công trình nêu trên vẫn chưa đề cập đến vai trò của dịch vụ thuế
trong quản lý thuế, rằng tại sao phải triển dịch vụ thuế và chưa đưa ra các tiêu
chí đánh giá chất lượng và hiệu quả dịch vụ thuế. Nội dung nghiên cứu của các
công trình nêu trên được diễn ra trong bối cảnh cũ, không còn phù hợp trong
điều kiện hiện nay. Mặt khác, dù đã đề cập đến các giải pháp để phát triển
dịch vụ thuế, tuy nhiên lại đặt trong mối quan hệ với việc cải thiện môi trường
đầu tư và nâng cao hiệu lực quản lý thuế hoặc chỉ mới nêu lên các giải pháp
để phát triển đối với đại lý thuế, không đề cập đến dịch vụ thuế công. Chỉ trình
bày những giải pháp mang tính ngắn hạn để phát triển dịch vụ thuế, chưa
nghiên cứu những giải pháp trung và dài hạn phát triển dịch vụ thuế ở Việt
Nam. Đồng thời, cũng chưa đề cập sâu đến khía cạnh pháp lý cần giải quyết
để phát triển dịch vụ thuế ở nước ta.
1.2. Khoang hở cho các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Như vậy, vai trò của dịch vụ thuế trong quản lý thuế là gì và giải pháp
phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam ra sao? Đây là những câu hỏi nghiên cứu và
câu hỏi quản lý cần phải có lời giải đáp.
Xuất phát từ tổng quan nghiên cứu cũng như xuất phát từ các câu hỏi quản
lý, câu hỏi nghiên cứu nêu trên, tác giả xác định hướng tiếp cận của đề tài là:
Phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam được thể hiện thông qua việc nâng cao chất
lượng, đảm bảo tính chuyên nghiệp, kịp thời và hiệu quả trong việc cung cấp
dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế; sự mở rộng quy mô các đại lý thuế với sự tham
10
gia sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp ngày càng gia tăng gắn với sự kiểm
soát và quản lý chặt chẽ của Nhà nước.
1.2.1. Nghiên cứu sẽ tìm ra điều gì?
Nghiên cứu sẽ xác định vấn đề phát triển dịch vụ thuế cần được lựa chọn
từ cơ sở lý luận về dịch vụ thuế, các loại dịch vụ thuế, vai trò và sự cần thiết
phải phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra những vấn đề
căn bản trong việc phát triển dịch vụ thuế ở Việt Nam hiện nay như: Lựa chọn
loại hình dịch vụ nào để phát triển? Tổ chức bộ máy của dịch vụ thuế công

được sắp xếp như thế nào? Khung pháp lý cho dịch vụ thuế tư? Nâng cao chất
lượng cung cấp dịch vụ thuế, tiêu chí đánh giá? Hệ thống thông tin, cơ sở dữ
liệu về người nộp thuế? Hình thức của Đại lý thuế, điều kiện pháp lý và cơ chế
kiểm tra, giám sát của cơ quan Nhà nước đối với hoạt động của Đại lý thuế?
Cơ chế tuyên truyền, khuyến khích người nộp thuế sử dụng dịch vụ thuế?
1.2.2. Điều đó khác các nghiên cứu khác ở đâu?
Phát triển dịch vụ thuế trên cơ sở bám sát định hướng, quan điểm về phát
triển kinh tế - xã hội đã được Đảng, Nhà nước đề ra, từ đó xác định quan điểm,
yêu cầu, mục tiêu phát triển dịch vụ thuế nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, ý
thức tuân thủ pháp luật, thu hút đầu tư là cách tiếp cận chưa được nghiên cứu
sâu, có hệ thống ở các công trình trước đây đã công bố.
1.3. Điểm yếu và điểm mạnh của nghiên cứu
1.3.1. Điểm yếu của nghiên cứu này: Đây là vấn đề rất mới ở Việt Nam,
do vậy chưa có nhiều người nghiên cứu, từ các tài liệu liên quan cho đến các
văn bản pháp quy đề cập đến nội dung này vẫn còn rất hạn chế. Do đó, ở cả
giác độ lý luận và thực tiễn, vấn đề này còn khá mới mẻ với Việt Nam, chưa có
đánh giá đầy đủ thực trạng về phát triển dịch vụ thuế ở nước ta.
1.3.2. Điểm mạnh của nghiên cứu này: Đây là cách tiếp cận mới, với
nguồn số liệu mới cập nhật và tính chính xác cao, đầy đủ được thu thập từ
nguồn đáng tin cậy, chất lượng. Mặt khác, dịch vụ thuế là một nội dung đã
được đề cập trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020,
11
mục tiêu đã rõ ràng, vấn đề còn lại là cần có sự đánh giá sâu sắc, chi tiết về
thực trạng phát triển hiện nay, từ đó đề ra những giải pháp sát thực, phù hợp.
1.4. Đóng góp mới của nghiên cứu này
Nội dung này đã được đề cập tại Mục 6, Lời mở đầu, theo đó những đóng
góp mới của đề tài này mang ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn như sau:
1.4.1. Về ý nghĩa khoa học: Thông qua việc sưu tầm, tổng hợp và phân
tích đánh giá từ các nguồn tài liệu liên quan sẽ hệ thống hoá được các vấn đề cơ
sở lý luận về dịch vụ thuế.

1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn: Đã nghiên cứu, đề xuất được các giải pháp phát
triển dịch vụ thuế ở Việt Nam hiện nay (định hướng đến năm 2020) nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thuế, xã hội hoá dịch vụ hỗ trợ người
nộp thuế, nâng cao ý thức pháp luật của xã hội nói chung, góp phần tạo ra công
bằng trong xã hội. Cụ thể đã đưa ra được các giải pháp để phát triển dịch vụ
thuế công: Hoàn thiện khung pháp lý; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông
tin về người nộp thuế theo từng cấp quản lý; Đổi mới và nâng cao chất lượng
cán bộ làm công tác hỗ trợ người nộp thuế; Xây dựng tiêu chí đánh giá và biện
pháp kiểm soát chất lượng công tác hỗ trợ người nộp thuế của cán bộ thuế và bộ
phận hỗ trợ người nộp thuế; Tăng cường đầu tư cho công nghệ thông tin nhằm
phục vụ công tác hỗ trợ người nộp thuế; Thực hiện tốt công tác thống kê nhu cầu
dịch vụ thuế của người nộp thuế; Cần có chính sách đào tạo, đãi ngộ phù hợp đối
với cán bộ thuế làm công tác hỗ trợ người nộp thuế và các giải pháp nhằm phát
triển dịch vụ thuế tư: Hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm phát triển và quản lý hoạt
động của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuế; Hoàn thiện hình thức tổ chức
chuyên cung cấp dịch vụ làm thủ tục về thuế tư (đại lý thuế); Ban hành quy chế
kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các tổ chức cung
cấp dịch vụ thuế (doanh nghiệp, công ty, đại lý…); Hoàn thiện quy trình quản lý
thuế, công khai những nội dung của quy trình có liên quan đến người nộp thuế;
Nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thủ tục về
thuế.
12
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THUẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Cơ sở lý luận về dịch vụ thuế
2.1.1. Khái niệm dịch vụ
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và quá trình phân công lao động
xã hội dẫn đến việc xuất hiện ngày càng nhiều hơn chủng loại sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Trên thế giới ngày

nay, nền kinh tế không chỉ đơn thuần với các sản phẩm vật chất cụ thể, mà
bên cạnh đó còn tồn tại các sản phẩm dịch vụ. Dịch vụ được coi là ngành
công nghiệp không khói. Xã hội càng phát triển thì các loại hình dịch vụ càng
đa dạng và phong phú.
Nếu như sản xuất hàng hóa tạo ra các vật phẩm cụ thể, có hình thái vật
chất rõ ràng với những giá trị sử dụng nhất định thì hoạt động dịch vụ cũng
thỏa mãn được yêu cầu nào đó của con người, dù nó không thể hiện dưới hình
thức hiện vật. Dịch vụ theo nghĩa hẹp không sản xuất ra vật chất, người bỏ
sức lao động cung cấp hiệu quả vô hình mà không có sản phẩm hữu hình. Tuy
nhiên, theo nghĩa rộng, thì dịch vụ bao hàm cả việc đưa lao động vào sản
phẩm vật chất, dịch vụ hoàn thành còn bao gồm cả những vật phẩm, hàng hóa
để thoả mãn nhu cầu của người trả tiền mua nó [2].
Dịch vụ nói chung trong nền kinh tế thị trường được nhà kinh tế học
Philip Kotler cho rằng: Dịch vụ là một giải pháp hay lợi ích mà một bên có
thể cung ứng cho bên kia chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển
quyền sở hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền với sản phẩm vật chất [33].
Cùng với sự phát triển và đa dạng hóa nhu cầu tiêu dùng xã hội, sự phát
triển nền kinh tế trong bối cảnh phân công lao động xã hội theo hướng chuyên
môn hóa chuyên sâu, tăng cường hợp tác hóa trên phạm vi toàn cầu, cơ cấu
giữa sản xuất và dịch vụ cũng có sự thay đổi đáng kể. Theo đó, ở các nước
13
phát triển, các nước có thu nhập cao, giá trị dịch vụ thường chiếm tỷ trọng cao
trong GDP hơn nhiều so với các nước có thu nhập thấp. Ngay cả ở những
nước kém phát triển, các ngành dịch vụ cũng đóng góp không dưới 35 - 40%
GDP. Dịch vụ mang tính vô hình nhưng lại đóng vai trò quan trọng để thúc
đẩy hoạt động kinh tế. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh giúp tăng cường tính
chuyên môn hóa. Theo nhận định của nhiều nhà sản xuất hàng hóa và cung
cấp dịch vụ, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và dịch vụ chuyên môn là những yếu
tố đầu vào quan trọng, giúp cho doanh nghiệp cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu
quả kinh doanh. Vì vậy, chú trọng phát triển dịch vụ hỗ trợ kinh doanh sẽ có

lợi cho nền kinh tế.
Như vậy, từ sự phân tích trên, ta có khái niệm: Dịch vụ là sản phẩm
không có hình thái vật chất của tổ chức hoặc cá nhân này cung cấp cho tổ
chức hoặc cá nhân khác có thu tiền hoặc không thu tiền nhằm mang đến một
giá trị nhất định cho cả bên cung cấp và bên nhận được dịch vụ.
2.1.2. Khái niệm dịch vụ thuế
Có quan điểm cho rằng, dịch vụ thuế là dịch vụ tư vấn thuế và kê khai
thuế. Hoặc dịch vụ thuế là dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế của cơ quan thuế,
theo đó, đây là loại dịch vụ công do cơ quan thuế cung cấp miễn phí để hỗ trợ
người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, bao gồm các dịch vụ giải
thích và tư vấn pháp luật, hỗ trợ việc chuẩn bị kê khai, tính thuế và xác định
nghĩa vụ thuế; qua đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác
quản lý thuế.
Cũng có cách hiểu về dịch vụ thuế đang chủ yếu nghiêng về xu hướng
xem xét dịch vụ thuế như là sản phẩm được cung cấp bởi các tổ chức, cá nhân
ngoài nhà nước và chưa đề cập đến dịch vụ thuế do cơ quan thuế cung cấp.
Với quan điểm điểm này, việc xem xét dịch vụ thuế được tiếp cận thông qua
khái niệm về dịch vụ làm thủ tục về thuế và đại lý thuế - chủ thể cung cấp chủ
yếu dịch vụ làm thủ tục về thuế trong xã hội. Trên thực tế có một số khái
niệm như:
14
- Ở Nhật Bản, theo quy định của Luật Kế toán công có chứng chỉ, đại
lý thuế là những chuyên gia về thuế với công việc là hỗ trợ các đối tượng nộp
thuế có sứ mệnh là “những người có chuyên môn về thuế, đứng trên lập
trường độc lập và công bằng, dựa theo quan điểm của chế độ kê khai, đóng
thuế, có trách nhiệm đáp lại sự tín nhiệm của đối tượng nộp thuế và đảm bảo
hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật” [53].
- Theo điều 20, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 có quy định “Tổ
chức kinh doanh dịch vụ thủ tục về thuế là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
có điều kiện được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh

nghiệp, thực hiện các thủ tục về thuế theo thỏa thuận với người nộp thuế” [3].
- Theo Thông tư số 117/2012/TT-BTC ngày 19/7/2012 của Bộ Tài
chính hướng dẫn hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế “Dịch vụ làm thủ tục
về thuế là hoạt động của đại lý thuế thực hiện các thủ tục đăng ký thuế, khai
thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, lập hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế, hoàn
thuế và các thủ tục hành chính thuế khác thay người nộp thuế theo quy định
của Luật Quản lý thuế và hợp đồng dịch vụ đã ký kết” và “Đại lý thuế là
doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện để kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế
theo quy định tại Luật Quản lý thuế và các quy định khác của pháp luật có
liên quan” [22].
- Theo Hội tư vấn Thuế Việt Nam (VTCA): “Dịch vụ làm các thủ tục về
thuế là hoạt động chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn về thuế của các cá
nhân, chịu sự điều chỉnh của pháp luật và quản lý của cơ quan nhà nước”.
[21]. Quan điểm này đã chỉ rõ được tính chất của dịch vụ thuế, xem đó là một
hoạt động chuyên nghiệp đảm bảo theo một cấp độ chuyên môn nhất định,
đồng thời đặt ra yêu cầu có sự quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng.
Tuy nhiên, khái niệm này mới chỉ đề cập đến đối tượng cung cấp dịch vụ thuế
là các cá nhân và cũng chưa đưa ra được nội dung của dịch vụ bao gồm những
vấn đề gì.
15
Hoặc dịch vụ thuế được hiểu là dịch vụ tư vấn thuế, theo quan điểm này,
dịch vụ tư vấn được cung cấp bởi các tổ chức, cá nhân có trình độ chuyên
môn giúp người nộp thuế hiểu biết rõ ràng hơn về các quy định của pháp luật
thuế hoặc đảm bảo sự thuận lợi, mang lại lợi ích tối ưu nhất cho người nộp
thuế khi thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Người nộp thuế nhận được những
lời khuyên từ các nhà tư vấn và nhà tư vấn cũng không chịu trách nhiệm về
kết quả xảy ra khi người nộp thuế thực hiện theo lời khuyên đó. Cơ chế ràng
buộc trong trường hợp này, hầu như lỏng lẻo, tùy thuộc vào hợp đồng giao kết
giữa các bên. Tuy nhiên, nếu hiểu dịch vụ thuế theo chiều hướng này, việc
quản lý, tạo ra hành lang pháp lý để giám sát hoạt động của người nộp thuế

rất khó khăn bởi thuế là lĩnh vực đặc thù, liên quan trực tiếp đến quyền lợi
“sát sườn” của cả người nộp thuế và nhà nước. Quản lý thuế nói chung và tư
vấn thuế nói riêng cần đặt trong khuôn khổ pháp luật nghiêm ngặt và có cái
nhìn toàn diện.
Có thể nói hiện nay có khá nhiều cách hiểu khác nhau về dịch vụ thuế.
Song, tựu chung lại, tất cả các quan điểm trên đúng nhưng chưa đầy đủ, chưa
phản ánh đúng nội hàm của khái niệm dịch vụ thuế. Các quan điểm chưa phản
ánh hết nội dung về chủ thể cung cấp dịch vụ thuế, nội dung của dịch vụ thuế
cũng như tính chất của dịch vụ thuế.
Từ những phân tích kể trên, theo quan điểm của tác giả, dịch vụ thuế là
sản phẩm do nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân cung cấp cho người nộp thuế
trong quá trình chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế. Theo khái
niệm này, dịch vụ thuế là những hoạt động liên quan đến toàn bộ hoạt động
của doanh nghiệp, cá nhân trong quá trình chấp hành pháp luật thuế, thực hiện
nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Đó là những sản phẩm do Nhà nước, doanh
nghiệp hoặc cá nhân cung cấp cho người nộp thuế về các thủ tục thuế như
đăng ký thuế, kê khai thuế, tính thuế, nộp thuế và các dịch vụ khác có liên
quan đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế như tư vấn hoặc lập
16
kế hoạch kinh doanh phù hợp với pháp luật thuế, tư vấn giải quyết các tranh
chấp về thuế…
Cách hiểu như trên phản ánh đầy đủ nội hàm của khái niệm dịch vụ
thuế. Nói lên cụ thể chủ thể cung cấp dịch vụ, bao gồm cả nhà nước và các tổ
chức, cá nhân ngoài nhà nước. Đồng thời cũng nói lên nội dung của dịch vụ
thuế, không chỉ là dịch vụ làm thủ tục về thuế mà cả những dịch vụ tư vấn,
lập kế hoạch thuế, giải quyết tranh chấp thuế Tuy vậy, ở đây cần lưu ý rằng,
có những khoảng giao thoa nhất định về phạm vi của các loại dịch vụ (mà có
người cho rằng có sự trùng lắp về nội dung dịch vụ) do chúng có mối quan hệ
hữu cơ với nhau. Chẳng hạn như, dịch vụ tư vấn thuế với nội dung cụ thể là tư
vấn lựa chọn mặt hàng nhập khẩu cho phù hợp với pháp luật về thuế xuất

khẩu, nhập khẩu, nếu xét ở một giác độ khác có thể coi là dịch vụ pháp lý.
Điều này là hiển nhiên vì tư vấn thuế thực chất là “lời khuyên, sự góp ý” của
đối tượng này với đối tượng khác thông qua việc vận dụng tư duy kinh tế để
giải quyết bài toán kinh doanh theo pháp luật thuế.
Trong quá trình thực thi pháp luật thuế, cơ quan thuế có nhiệm vụ
tuyên truyền, hỗ trợ cho người nộp thuế với các hình thức khác nhau, một mặt
giúp cho xã hội hiểu và nắm được những quy định của pháp luật thuế, nhất là
những chính sách thuế mới, nhằm nâng cao ý thức, nâng cao việc chấp hành
trong quá trình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Mặt khác, thông
qua việc tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ giúp cho cơ quan thuế nắm bắt
được các thông tin, sự phản hồi từ phía người dân, để có cơ sở tổng hợp và
sửa đổi, bổ sung kịp thời cả về cơ chế chính sách thuế và quy trình, thủ tục
về quản lý thuế.
Dịch vụ thuế do các doanh nghiệp, cá nhân có chức năng cung cấp đã
và đang rất phát triển ở các nước tiên tiến, khi mà việc áp dụng cơ chế tự tính,
tự khai, tự nộp thuế đã được thực hiện từ rất lâu. Theo đó, các tổ chức, cá
nhân là đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ phải kê khai và xác định đúng số thuế
phải nộp và chịu trách nhiệm về số liệu đã kê khai theo qui định của pháp
17
luật. Chính cơ chế này là một trong những động lực thúc đẩy nhu cầu tư vấn,
hỗ trợ về thuế của người nộp thuế tăng lên và như vậy, các dịch vụ làm thủ
tục về thuế có thể được thực hiện thông qua các doanh nghiệp hoặc cá nhân
cung cấp dịch vụ thuế.
Như đã nêu trên, ở Việt Nam, từ khi Luật Quản lý thuế lần đầu tiên có
hiệu lực (1/7/2007), Nhà nước cho phép các tổ chức kinh doanh thực hiện các
dịch vụ làm thủ tục về thuế như: Thực hiện các thủ tục đăng ký thuế, khai
thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, khiếu nại về thuế, lập hồ sơ đề nghị miễn
thuế, giảm thuế, hoàn thuế thay người nộp thuế theo qui định của Luật Quản
lý thuế và hợp đồng dịch vụ đã ký kết với người nộp thuế.
Các doanh nghiệp thực hiện cung cấp dịch vụ thuế cũng giống như các

chủ thể sản xuất kinh doanh khác, được pháp luật ghi nhận, bảo hộ để thực
hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm nhất định khi tham gia vào các quan hệ
pháp luật dưới hai góc độ: thực hiện các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm với đối
tác kinh doanh - người ủy thác; thực hiện nghĩa vụ với vai trò như một doanh
nghiệp, cũng có nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật nói chung và thực hiện chấp
hành các quy định của pháp luật thuế nói riêng.
2.1.3. Phân loại dịch vụ thuế
Có nhiều loại dịch vụ thuế khác nhau, tuỳ thuộc vào các tiêu thức xác
định, tuy nhiên tất cả đều có chung một đặc điểm đó là đều được cung cấp bởi
một tổ chức (thuộc Nhà nước hoặc không thuộc Nhà nước), cá nhân này cho
tổ chức, cá nhân khác, hay nói cách khác là việc cung cấp dịch vụ của cơ quan
thuế hoặc tổ chức, cá nhân cho người nộp thuế trong việc tìm hiểu về chính
sách pháp luật thuế cũng như trong quá trình thực thi pháp luật thuế, thực hiện
nghĩa vụ với NSNN. Có một số tiêu thức cụ thể như sau:
2.1.3.1. Căn cứ vào đối tượng, chủ thể cung cấp dịch vụ, dịch vụ thuế
được phân loại thành dịch vụ công và dịch vụ tư.
* Dịch vụ thuế công là dịch vụ do cơ quan quản lý thuế cung cấp, gắn
liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuế nhằm nâng cao
18
ý thức tuân thủ pháp luật về thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế
thực hiện nghĩa vụ của mình.
Với khái niệm nêu trên, dịch vụ thuế công có thể được hiểu là dịch vụ
tư vấn và cung cấp các ứng dụng tiện ích cho NNT thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế. Đó có thể là hoạt động tuyên truyền, quảng bá thông tin về chính sách,
thủ tục về thuế cho người nộp thuế và cộng đồng xã hội; hoặc cũng có thể là
một loại dịch vụ hành chính công thực hiện giải quyết các hồ sơ thuế, cấp
giấy chứng nhận, chứng thực,
Cho dù được hiểu theo nghĩa nào thì cũng có thể khẳng định trách
nhiệm chính của việc cung cấp dịch vụ công thuộc về Nhà nước. Việc cung
cấp dịch vụ có thể do Nhà nước trực tiếp thực hiện hoặc do các đối tác trong

xã hội thực hiện nhưng phải trong khuôn khổ pháp luật, dưới sự giám sát,
quản lý của Nhà nước và do Nhà nước trả tiền. Cơ quan thuế là một bộ phận
trong bộ máy Nhà nước thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công cho
người nộp thuế và cả cộng đồng. Dịch vụ công do cơ quan thuế cung cấp bao
gồm cả các dịch vụ công ích như cung cấp thông tin pháp luật, cung cấp các
dịch vụ tư vấn miễn phí về thuế và cũng có cả các dịch vụ hành chính công
như chứng nhận thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Chính vì vậy, trong
bối cảnh và phạm vi nghiên cứu luận án, cách hiểu dịch vụ thuế công là dịch
vụ cung cấp bởi cơ quan thuế hoặc cách hiểu dịch vụ thuế công là dịch vụ
thuế do nhà nước trả tiền để thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ là những
quan niệm phù hợp.
* Dịch vụ thuế tư là dịch vụ do các tổ chức, cá nhân hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh dịch vụ thuế cung cấp. Dịch vụ thuế tư có liên quan trực
tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp mua dịch vụ, của bản thân doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ thuế và của nhà nước. Không phải bất kỳ doanh nghiệp nào
trong nền kinh tế cũng có thể cung cấp được dịch vụ thuế tư, mà cần phải có
những tiêu chuẩn, điều kiện nhất định và được điều chỉnh bởi các văn bản quy
phạm pháp luật. Do đó, dịch vụ thuế tư phải được coi là ngành nghề kinh
19
doanh có điều kiện và cần một khuôn khổ pháp lý phù hợp để quản lý hoạt
động kinh doanh này, cụ thể yêu cầu cơ bản đối với tổ chức cung cấp dịch vụ
thuế tư bao gồm:
Thứ nhất, về thủ tục thành lập và cấp phép hoạt động. Như đã nêu ở trên,
dịch vụ thuế tư được xem là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện, do đó
cần một khuôn khổ pháp lý phù hợp để quản lý hoạt động kinh doanh này.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuế tư với tư cách là một tổ chức kinh doanh
nên mọi thủ tục hành chính bao gồm cả thủ tục hành chính về thuế tương tự
như đối với một doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây là ngành nghề kinh doanh có
điều kiện nên tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thuế phải có
chứng chỉ đảm bảo các điều kiện qui định về trình độ yêu cầu cũng như có đủ

tư cách đạo đức nghề nghiệp. Nếu doanh nghiệp vi phạm một trong hai điều
kiện này đều bị đình chỉ hoạt động.
Thứ hai, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuế tư phải đáp ứng điều kiện
về cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết để đảm bảo thực hiện thủ tục kê khai, tư
vấn thuế Một trong những giải pháp hiệu quả nhất để phát triển dịch vụ thuế
là ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và cung cấp dịch vụ, trong đó
có các dịch vụ điện tử do cơ quan thuế cung cấp trực tiếp cho người nộp thuế
như: cơ sở dữ liệu văn bản điện tử, khai thuế điện tử, nộp thuế, hoàn thuế điện
tử, trao đổi thông tin thuế điện tử qua hệ thống thư điện tử, tin nhắn qua điện
thoại di động Nhiều cơ quan thuế các nước còn triển khai các hình thức hỗ
trợ điện tử đặc biệt dành riêng cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuế tư,
điển hình là cổng thông tin dành riêng, theo đó, doanh nghiệp tư vấn có thể
truy cập kê khai thuế điện tử cho nhiều người nộp thuế, tra cứu tờ khai thuế,
xem tài khoản thuế của nhiều người nộp thuế, nhận các thông báo liên quan
đến người nộp thuế qua hệ thống thư điện tử Cấu phần quan trọng nhất làm
nền tảng cho việc cung cấp dịch vụ điện tử là hệ thống cơ sở dữ liệu người
nộp thuế tích hợp. Để có được cơ sở dữ liệu tích hợp cần phải có một hệ
thống ứng dụng đồng bộ, hệ thống đường truyền đủ mạnh để có thể kết nối và
20
duy trì thông tin liên lạc giữa cơ quan thuế với người nộp thuế cũng như các
đại lý thuế. Do vậy, trong điều kiện phát triển dịch vụ tài chính điện tử, doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ thuế tư phải có các điều kiện vật chất cần thiết để nối
mạng với cơ quan thuế cũng như hệ thống doanh nghiệp để có thể thực hiện
được các qui trình, thủ tục kê khai và thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN.
Thứ ba, phải có đội ngũ nhân lực cần thiết hội đủ điều kiện hành nghề
trong lĩnh vực khai báo và làm thủ tục về thuế theo qui định của cơ quan thuế.
Do đặc điểm của hoạt động doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuế tư, người
khai thuế phải là người nắm vững đầy đủ chuyên môn, nghiệp vụ, qui trình,
thủ tục về thuế. Nếu đội ngũ nhân viên không giỏi về nghiệp vụ sẽ rất dễ mắc
sai sót khi thực hiện nghiệp vụ, khi đó không chỉ gây thiệt hại về mặt kinh tế

mà nhiều khi còn bị xử lý về mặt luật pháp. Vì vậy, đòi hỏi những người hoạt
động trong lĩnh vực này phải có kiến thức tổng hợp về pháp luật thuế, kế toán
cũng như các kiến thức khác có liên quan cần thiết để đảm bảo thực hiện tốt
nghĩa vụ của mình. Ngoài yêu cầu ngoại ngữ, kỹ năng vi tính, họ còn có các
kỹ năng lắng nghe, phân tích yêu cầu, trình bày quan điểm và thuyết phục.
Phong cách ứng xử văn minh, lịch sự, mềm mỏng, khéo léo, linh hoạt cũng là
những yêu cầu cần thiết đối với người hành nghề dịch vụ thủ tục về thuế, tư
vấn thuế. Đây là điều kiện có tính quyết định đến việc chấp hành quyền và
nghĩa vụ của người khai thuế đối với doanh nghiệp tư vấn. Ngoài năng lực
trình độ thì yêu cầu đặt ra đối với người thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ
thuế là người có phẩm chất tốt, chuyên nghiệp trong thái độ và hành vi. Có
như vậy, chất lượng của các hoạt động dịch vụ thuế mới đảm bảo chính xác,
khách quan và trung thực.
Thứ tư, đạo đức nghề nghiệp của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuế
tư. Để đảm bảo quyền lợi giữa nhà nước - doanh nghiệp - người nộp thuế thì
một trong những yêu cầu cơ bản đối với doanh nghiệp tư vấn là vấn đề đạo
đức nghề nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp phải có tính trung lập, tức là có tính
độc lập với khách hàng và cơ quan thuế trong các quyết định của mình khi
21
cung cấp các dịch vụ về thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tuân
thủ pháp luật thuế. Việc chấp hành tốt pháp luật về thuế nhằm góp phần quan
trọng trong việc thúc đẩy tiến trình cải cách và hiện đại hoá công tác quản lý
thu thuế. Hơn nữa, quá trình hoạt động của mình, doanh nghiệp tư vấn phải
chịu sự quản lý của cơ quan thuế. Khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình,
nếu vi phạm pháp luật thuế thì ngoài việc bị xử lý theo qui định của pháp luật,
đền bù thiệt hại vật chất cho người nộp thuế, doanh nghiệp đó đó sẽ bị cấm
hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực này trong một thời gian nhất định.
Thứ năm, về giám sát kiểm tra. Để đảm bảo định hướng cho dịch vụ
thuế tư phát triển theo một lộ trình phù hợp, đồng thời để thiết lập và duy trì
một trật tự xã hội nhất định, trong quá trình hoạt động của các tổ chức, cá

nhân cung cấp dịch vụ, đòi hỏi việc kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của
các đơn vị này là yêu cầu rất quan trọng, nhằm xử lý nghiêm các hành vi vi
phạm pháp luật. Ngoài việc được cơ quan thuế giám sát kiểm tra hoạt động
của mình như những người nộp thuế thông thường khác, doanh nghiệp, cá
nhân cung cấp dịch vụ thuế tư còn phải được kiểm tra, giám sát đặc biệt dưới
các hình thức khác để đảm bảo tính trung thực, minh bạch, chính xác, đầy đủ
đối với các hồ sơ kê khai của khách hàng. Bên cạnh đó, Nhà nước mà đặc biệt
là cơ quan thuế cũng áp dụng nhiều biện pháp, cách thức để đảm bảo mọi hoạt
động cung cấp dịch vụ thuế của các doanh nghiệp, cá nhân cung cấp dịch vụ
thuế tư là minh bạch, đúng pháp luật, đảm bảo độ tin cậy để người nộp thuế
ký kết hợp đồng.
Khi xã hội phát triển, kéo theo việc phân công lao động xã hội diễn ra
càng mạnh mẽ, các hoạt động của doanh nghiệp cần phải chuyên môn hóa,
người kinh doanh chỉ tập trung kinh doanh, sản xuất, còn lại các công việc
khác thì phải do các bộ phận chuyên trách làm. Hơn nữa, xuất phát từ thực
tiễn phát sinh trong tiến trình phát triển của xã hội, ngày càng có nhiều hình
thức kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh mới ra đời và hoạt động. Tổng hợp lại
có thể thấy, việc xuất hiện dịch vụ thuế tư là yêu cầu tất yếu, khách quan và sẽ
22
xuất hiện rất nhiều các loại hình dịch vụ như: tư vấn quản lý, tư vấn đầu tư, tư
vấn luật, và đặc biệt là tư vấn thuế và đại lý thuế…
Cách phân loại này cũng cho thấy, vì dịch vụ thuế có thể được cung cấp
bởi cả cơ quan thuế và doanh nghiệp nên nếu dịch vụ thuế tư (dịch vụ thuế do
các doanh nghiệp chuyên cung cấp dịch vụ thuế thực hiện) phát triển mạnh
mẽ thì một mặt sẽ có tác động góp phần nâng cao hiệu lực quản lý thuế (như
sẽ phân tích trong mục 2.2 dưới đây), mặt khác sẽ giúp giảm bớt khối lượng
công việc cung cấp dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế của cơ quan thuế. Hai dịch
vụ này có mối quan hệ biện chứng và thúc đẩy nhau cùng phát triển, khi dịch
vụ thuế công phát triển trong đó có việc cơ quan thuế tuyên truyền, phổ biến
về dịch vụ thuế tư, về việc khuyến khích doanh nghiệp sử dụng dịch vụ thuế

tư, điều đó sẽ tạo ra cơ sở cho dịch vụ thuế tư phát triển. Đến lượt mình, khi
dịch vụ thuế tư phát triển, các doanh nghiệp thực hiện sử dụng ngày càng
nhiều dịch vụ tư vấn, hỗ trợ từ các doanh nghiệp sẽ giúp cho cơ quan thuế
giảm tải công việc, không mất nhiều thời gian hướng dẫn, đối soát, để có thời
gian tập trung vào các chức năng khác hoặc tập trung hỗ trợ chuyên sâu,
chuyên nghiệp hơn.
Để phân biệt dịch vụ thuế công và dịch vụ thuế tư, chúng ta cần nhìn
nhận, đánh giá hai loại hình dịch vụ này dựa trên các tiêu thức cụ thể như:
Thứ nhất, về trách nhiệm, dịch vụ thuế công có tính trách nhiệm cao, cơ quan
cung cấp không thể không làm và người sử dụng dịch vụ thuế công không
phải trả phí. Còn dịch vụ thuế tư, có thể làm hoặc có thể không làm và người
sử dụng dịch vụ thuế tư phải trả phí theo thoả thuận; Thứ hai, về cơ sở pháp lý
và nội dung dịch vụ, dịch vụ thuế công mang tính chất công quyền, trong đó
cung cấp các dịch vụ hỗ trợ là chính, việc tư vấn có mức độ và có thể không
có đại lý. Dịch vụ thuế tư nặng về chuyên môn, nghiệp vụ, mang tính chuyên
nghiệp, bao gồm cả dịch vụ, tư vấn và đại lý Thứ ba, dịch vụ thuế công và
dịch vụ thuế tư cần phải phối hợp chặt chẽ với nhau trên tinh thần, cơ sở càng
phát triển mạnh mẽ dịch vụ thuế tư thì càng giới hạn phạm vi dịch thuế công
23
và tiến tới là dịch vụ thuế công giữ vai trò chủ đạo trong việc chỉ đạo, điều
hành, dẫn dắt, kiểm soát và làm trọng tài, chế tài trong công tác quản lý thuế.
2.1.3.2. Căn cứ vào phương thức cung cấp dịch vụ, dịch vụ thuế được
phân loại thành dịch vụ thuế thủ công và dịch vụ thuế điện tử. Dịch vụ thuế
thủ công là dịch vụ được cung cấp thông qua các phương thức thủ công, chưa
có sự hỗ trợ của máy móc, phương tiện hiện đại. Dịch vụ thuế điện tử được
cung cấp dựa trên hệ thống máy móc, thiết bị tiên tiến đặc biệt là ứng dụng
mạnh mẽ công nghệ thông tin. Mục tiêu của hiện đại hóa công tác quản lý
thuế đó là đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển các dịch vụ thuế điện tử (dịch vụ
kê khai thuế qua mạng Internet, dịch vụ kê khai thuế qua các nhà trung gian
T-VAN, dịch vụ nộp thuế điện tử, nộp thuế qua máy ATM, qua tin nhắn

SMS ). Cùng với thời gian, dịch vụ thuế điện tử sẽ ngày càng phát triển,
ngày càng chiếm ưu thế và thay thế dần các dịch vụ thuế thủ công. Tất nhiên,
trong một số trường hợp, dịch vụ thuế thủ công và dịch vụ thuế điện tử có thể
đan xen nhau chứ không nhất thiết phải tách rời nhau. Chẳng hạn như để cung
cấp một dịch vụ thuế điện tử thì ở khâu chuẩn bị có thể có một số công việc
phải tiến hành thủ công; hoặc khi tiến hành tư vấn trực tiếp (dịch vụ thuế thủ
công) thì người ta có thể sử dụng những kỹ thuật điện tử để phối hợp…
2.1.3.3. Căn cứ vào nội dung của dịch vụ được cung cấp, dịch vụ thuế
được phân loại thành dịch vụ làm thủ tục thuế (đăng ký thuế thuê, khai thuế
thuê…) và dịch vụ tư vấn thuế (dịch vụ giảng dạy, giới thiệu pháp luật thuế,
dịch vụ hướng dẫn làm thủ tục thuế, dịch vụ kế toán thuế và xây dựng kế
hoạch thuế). Từ cách phân loại này cho thấy, tùy theo đặc điểm tình hình sản
xuất kinh doanh, quy mô kinh doanh, điều kiện hoàn cảnh và khả năng của
từng người… mà các tổ chức, cá nhân có nhu cầu về các loại dịch vụ khác
nhau. Chẳng hạn như, những cơ sở kinh doanh nhỏ thì thường có nhu cầu về
dịch vụ làm thủ tục thuế, còn những doanh nghiệp lớn thì có nhu cầu cao về
dịch vụ xây dựng kế hoạch thuế. Dịch vụ tư vấn thuế nói chung là cần thiết
đối với mọi lọai hình người nộp thuế.
24
2.1.3.4. Căn cứ vào trách nhiệm tài chính của đối tượng thụ hưởng
dịch vụ, dịch vụ thuế được phân loại thành dịch vụ thuế có thu phí và dịch vụ
thuế không thu phí. Cách phân loại này cho thấy, loại dịch vụ không thu phí
chỉ có thể cung cấp bởi cơ quan nhà nước do có nguồn tài trợ từ ngân sách
nhà nước. Khu vực tư nhân không cung cấp dịch vụ không thu phí do đây là
hoạt động kinh doanh, muốn thu hồi vốn và có lợi nhuận, khi cung cấp dịch
vụ phải thu phí [29].
2.1.4. Các hình thức cung cấp dịch vụ thuế
2.1.4.1. Các hình thức cung cấp dịch vụ hỗ trợ của cơ quan thuế
(i) Xuất bản các ấn phẩm về thuế
Cơ quan thuế phát hành các ấn phẩm về thuế như các tờ rơi, các cuốn

sổ tay về chính sách pháp luật thuế để phát miễn phí cho người nộp thuế. Nội
dung của các ấn phẩm này thường được soạn thảo ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu.
Mục tiêu chủ yếu của hình thức hỗ trợ này là nâng cao nhận thức của người
nộp thuế và giúp người nộp thuế nắm bắt những nội dung thiết yếu của pháp
luật thuế. Những ấn phẩm này có thể đặt để phát miễn phí tại trụ sở cơ quan
thuế hoặc ở một số nơi công cộng và cũng có thể phát miễn phí trực tiếp cho
người nộp thuế. Hình thức này thuận tiện với những người không có nhiều
thời gian để đọc toàn bộ văn bản luật nhưng cần biết những vấn đề cơ bản
nhất. Tuy nhiên, hình thức này có hạn chế là không giới thiệu được đầy đủ nội
dung các sắc thuế, không giải quyết được các trường hợp cụ thể, không đến
được với các người nộp thuế ngại đọc hoặc thậm chí không biết đọc.
(ii) Hỗ trợ người nộp thuế thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
Đây là hình thức hỗ trợ được thực hiện thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng (báo, đài phát thanh, đài truyền hình). Việc hỗ trợ người
nộp thuế thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng lại nhằm mục
đích nâng cao nhận thức của người nộp thuế và giải quyết những vướng mắc
pháp luật của người nộp thuế. Các ưu điểm cơ bản của hình thức hỗ trợ này là
cách thức thực hiện hấp dẫn, đa dạng; mọi người nộp thuế có nhu cầu đều có
25

×