Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

nghiên cứu sự phát triển thể chất và tâm vận động của trẻ em 1-6 tuổi tại hưng yên, quảng nam và cần thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.66 KB, 75 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ em là tương lai và là niềm hy vọng của toàn thể nhân loại. Việc
chăm sóc – giáo dục trẻ em ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc sống
là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự
nghiệp chăm lo đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ để trở thành những chủ nhân
tương lai của đất nước.
Từ lúc lọt lòng đến 6 tuổi là một quãng đời có tầm quan trọng đặc biệt
trong quá trình phát triển chung của trẻ. Ở giai đoạn phát triển này, trẻ em có
những đặc điểm, những quy luật phát triển độc đáo, không giống bất cứ một
giai đoạn phát triển nào sau này. Chính vì vậy các bậc cha mẹ, các cô nuôi
dạy trẻ cần phải quan tâm đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ về mọi mặt để
giúp trẻ phát triển được thuận lợi [4], [24], [34].
Đánh giá tình trạng thể lực, sức khoẻ và phát triển tâm lý, vận động
(TVĐ) của trẻ em, nhất là trẻ dưới 6 tuổi là rất cần thiết trong công tác chăm
sóc và nuôi dạy trẻ. Điều quan trọng nhất là đánh giá được sự phát triển TVĐ
của trẻ và sớm nhận định các mức độ phát triển TVĐ để từ đó tìm ra cách giải
quyết thích hợp và kịp thời giúp cho trẻ phát triển tốt hơn trong những năm
sau. Có nhiều test tâm lý được đưa ra sử dụng để đánh giá sự phát triển TVĐ
của trẻ như test Brunet Lezine, Raven, Denver I, Gessell, Binet Simon,
trong đó test Denver I được áp dụng khá rộng rãi.
Trong những năm qua đó cú một số công trình nghiên cứu về sự phát
triển thể chất và tâm - vận động trẻ em tại nhiều địa phương trong cả nước.
Cỏc cụng trỡnh nghiên cứu về thể chất của Hàn Nguyệt Kim Chi [3], Vương
Thị Hoà [12], Nguyễn Đức Khoa và CS [15], Nguyễn Thu Nhạn và CS [24],
Lê Nam Trà [28], Hop Le Thi [40], Leung S. S et al [42]. Tuy vậy, các công
trình trên đều nghiên cứu cách đây hơn một thập kỷ mà các số liệu về phát
triển thể chất trẻ em luôn biến đổi theo thời gian nên cần được nghiên cứu
1
định kỳ, thường xuyên để đánh giá chính xác về hình thái nhân trắc và tình
trạng thể lực trong các giai đoạn khác nhau . Các công trình nghiên cứu về
phát triển tâm lý - vận động trẻ em của các tác giả : Lê Đức Hinh[10], [11]


Quách Thuý Minh và CS [20], [21], [22] , Hà Thị Minh Thi [26], Viện khoa
học giáo dục [32] chủ yếu nghiên cứu ở Hà Nội và chỉ sử dụng test Denver I.
Trong nghiên cứu này chỳng tôi sử dụng test Denver II, test này đầy đủ, hoàn
chỉnh và chính xác hơn test Denver I, để đánh giá sự phát triển tõm-vận động,
nhằm khắc phục những hạn chế của những nghiên cứu trên.
Để góp phần đánh giá sự phát triển thể chất và tõm-vận động, chúng tôi
tiến hành đề tài “ Nghiên cứu sự phát triển thể chất và tâm - vận động của trẻ
em 1-6 tuổi tại Hưng Yên, Quảng Nam và Cần Thơ” với các mục tiêu sau:
1. Xác định thực trạng phát triển thể chất của trẻ em từ 1-6 tuổi tại
Hưng Yên, Quảng Nam, Cần Thơ.
2. Đánh giá sự phát triển tâm vận động ở những trẻ này bằng test
Denver II.
Hy vọng với kết quả thu được sẽ góp phần làm đầy đủ và phong phú
thêm những hiểu biết về sự phát triển thể chất và tâm vận động ở trẻ em, làm
tài liệu tham khảo cho các nhà Y học, Giáo dục và Nhân chủng học trong việc
chăm sóc và giáo dục trẻ em.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Trẻ em là cơ thể đang lớn và phát triển, vì vậy sự tăng trưởng là một
đặc điểm sinh học cơ bản của trẻ em.
Tăng trưởng là quá trình biến đổi liên tục về kích thước, hình dáng,
chức năng sinh lý và sự trưởng thành sinh học của cơ thể. Quá trình này được
tính từ lúc trứng được thụ tinh, phát triển thành phôi thai, đến khi ra đời, lớn
lên và trưởng thành. Quá trình này diễn biến theo các giai đoạn khác nhau.
Quá trình tăng trưởng của trẻ em bao gồm cả sự tăng trưởng về thể chất
và sự phát triển tâm lý và vận động (gọi tắt là tâm vận động (TVĐ)). Nghiên
cứu về sự tăng trưởng thể chất tức là nghiên cứu sự phát triển của các kích
thước nhân trắc của cơ thể bao gồm chiều cao, cân nặng, kích thước cỏc
vũng Cũn nghiên cứu sự phát triển TVĐ là nghiên cứu sự trưởng thành của

hệ thần kinh.
1.1. Sự phát triển thể chất của trẻ em.
1.1.1.Các chỉ số đánh giá phát triển
Các chỉ số đánh giá sự phát triển thể chất trẻ em bao gồm : Chiều cao,
cân nặng, vòng đầu, vòng ngực, vũng đựi, vũng cánh tay.
1.1.1.1 Cân nặng:
- Cân nặng của người nói lên khối lượng và trọng lượng hay độ lớn
tổng hợp của toàn bộ cơ thể, nó liên quan đến mức độ và tỷ lệ giữa hấp thu và
tiêu hao. Trẻ được nuôi dưỡng tốt sẽ tăng cân. Do đó cân nặng phần nào nói
lên tình trạng thể lực, dinh dưỡng và sự tăng trưởng của trẻ em.
- Cân nặng trung bình của trẻ sơ sinh đủ tháng lúc mới đẻ khoảng
3000g, trẻ trai nặng hơn trẻ gái, con thứ nặng hơn con so. Nếu cân nặng của
trẻ lúc đẻ dưới 2500g coi như đẻ non, đẻ yếu hay suy dinh dưỡng bào thai.
3
Theo Hằng số sinh học người Việt Nam(1975) [30], cân nặng của trẻ trai mới
đẻ là 3,07 ± 0,32kg và của trẻ gái mới đẻ là 3,02 ± 0,35kg. Theo Lê Nam Trà
[28], cân nặng của trẻ trai mới đẻ là 3,11 ± 0,35kg và của trẻ gái mới đẻ là
3,06 ± 0,34kg. Trong năm đầu tiên, cân nặng của trẻ tăng rất nhanh nhưng
không đồng đều từng tháng. Những tháng đầu của năm thứ nhất phát triển
nhanh hơn những tháng cuối năm, nhất là trong 3 tháng đầu tiên. Trong vòng
6 tháng đầu năm thứ nhất trung bình mỗi tháng tăng thêm 650g, trong cỏc
thỏng thứ 2-3, mỗi tháng có thể tăng thêm 800-900g. Trong vòng 6 tháng cuối
năm thứ nhất, trung bình mỗi tháng tăng thêm 500g. Như vậy đến hết năm thứ
nhất cân nặng của trẻ tăng gấp 3 lần lúc mới đẻ [12], [24]
- Trong những năm tiếp theo thì cân nặng của trẻ tăng chậm hơn, trung
bình mỗi năm tăng khoảng 1,3-1,8kg, trẻ trai tăng cân nhanh hơn trẻ gái [3],
Chu Văn Tường và CS [31] đã đưa ra công thức tính gần đúng cân nặng của
trẻ dưới 14 tuổi như sau:
X= 9kg + 1,5kg(n-1)
X: Cân nặng của trẻ tính bằng kg

9kg là cân nặng của trẻ lúc 1 tuổi
1,5kg là cân nặng tăng trung bình mỗi năm
n là số tuổi
- Công trình của Chu Văn Tường và Nguyễn Công Khanh (1972) [31]
đóng góp đáng kể vào cuốn hằng số sinh học người Việt Nam (1975)
1.1.1.2.Chiều cao:
- Chiều cao nói lên chiều dài của toàn thân. Do đó nó đủ dùng để đánh
giá sức lớn của trẻ em. Chiều cao là số đo rất trung thành của hiện tượng tăng
trưởng, chiều cao phản ánh tốt cuộc sống quá khứ và là bằng chứng của sự
dinh dưỡng.
4
- Theo Lê Nam Trà [28], chiều cao của trẻ lúc mới sinh đủ tháng, con
trai là 50,01 ± 1,61cm và trẻ gái là 49,79 ± 1,46cm. Trong năm đầu tiên, cũng
như cân nặng, chiều cao phát triển rất nhanh nhưng không cao đều từng
tháng. Ở những tháng đầu, nhất là trong 3 tháng đầu tiên chiều cao phát triển
nhanh hơn so với ở những tháng cuối năm [40]. Khi trẻ 12 tháng, chiều cao
của trẻ trai là 73,78 ± 2,59 cm và của trẻ gái là 72,76 ± 2,92 cm. Như vậy đến
hết năm đầu tiên, chiều cao của trẻ tăng gấp 1,5 lần chiều cao lúc sinh.
-Trên 1 tuổi, chiều cao của trẻ tăng chậm hơn. Theo Chu Văn Tường và
cs [31] cú thể tính gần đúng chiều cao của trẻ trên 1 tuổi theo công thức sau:
X(cm)= 75cm+ 5cm(n-1)
X là chiều cao của trẻ trên một tuổi
75cm là chiều cao của trẻ lúc 1 tuổi
5cm là chiều cao trung bình mỗi năm
n là số tuổi
1.1.1.3. Vòng đầu.
+ Vòng đầu là một kích thước hay được dùng trong nhân trắc đặc biệt ở
trẻ em. Đo vòng đầu cho phép gián tiếp đánh giá khối lượng não. Khi mới đẻ,
đầu tương đối to so với kích thước cơ thể. Vòng đầu của trẻ tăng nhanh trong
năm đầu tiên, ở trẻ trai tăng thêm 12,24cm và ở trẻ gái 11,29cm. Bắt đầu từ

năm thứ hai trở đi vòng đầu tăng chậm, từ 6 đến 10 tuổi mức tăng trưởng
trung bình của vòng đầu hàng năm của trẻ dưới 0,5cm. Theo Hằng số sinh học
người Việt Nam (1975), vòng đầu trung bình của trẻ em Việt Nam thay đổi
như sau: Trẻ mới đẻ là 32cm, 1 tuổi là 46cm, 2 tuổi là 48 cm, 3 tuổi là 49 cm,
7 tuổi là 51cm.
1.1.1.4. Vòng ngực
+ Vòng ngực là kích thước cũng hay được dùng trong nhân trắc, vỡ nú
tượng trưng cho sự phát triển về chiều ngang (rộng + dầy) của thân mình và
5
cho phép đánh giá thể lực của một người. Lúc mới đẻ vòng ngực bằng hoặc
nhỏ hơn vòng đầu khoảng 1cm. Sau khi đẻ vòng ngực lớn nhanh hơn vòng
đầu, lúc 6 tháng vòng ngực bằng vòng đầu, sau đó vòng ngực lớn vượt vòng
đầu. Từ 2 đến 6 tuổi vòng ngực lớn hơn vòng đầu 2cm.
1.1.1.5. Vòng cánh tay.
+ Vòng cánh tay: Tăng nhanh trong năm đầu, ở trẻ trai tăng thêm 3,49
cm và 2,99 cm ở trẻ gái, sau đó mức tăng chỉ số này diễn ra rất chậm. Từ 2-10
tuổi vòng cánh tay trẻ tăng trung bình hàng năm dưới 0,5 cm. Khoảng 6 -36
tháng tuổi vòng cánh tay của trẻ nam hầu như không thay đổi (khoảng 14cm).
Sau 36 tháng tuổi vòng cánh tay của trẻ lại tăng lên và đến 60 tháng tuổi tăng
được 1cm .Vòng cánh tay cho phép đánh giá khối lượng các bắp thịt và nó
cũng phản ánh tình trạng dinh dưỡng của trẻ em.
1.1.2. Các chỉ số thể lực và dinh dưỡng.
Những chỉ tiêu thường được dùng là chiều cao đứng hoặc chiều cao
ngồi, cân nặng, vòng ngực Hầu hết các chỉ số đều được tính dựa và sự so
sánh các chỉ tiêu về chiều ngang (cân nặng và/ hoặc vòng bụng, vòng ngực )
với các chỉ tiêu về chiều dọc (chiều cao đứng, chiều cao ngồi).
Thể lực của một người phụ thuộc và tình trạng dinh dưỡng và tỷ lệ với
tầm vóc của người đó. Thể lực không chỉ phụ thuộc vào các kích thước hình
thái mà còn phụ thuộc vào các yếu tố chức năng [3], [16].
1.1.2.1. Chỉ số BMI ( body mass Index) hay chỉ số khối cơ thể

Chỉ số BMI = Cân nặng/chiều cao
2

Trong đó cân nặng được tính bằng kilogam (kg), chiều cao tính băng mét (m)
Chỉ số BMI có liên quan chặt chẽ với tỷ lệ khối mỡ trong cơ thể, do đó
BMI là một chỉ số được TCYTTG khuyến nghị dùng để đánh giá tình trạng
dinh dưỡng mức độ béo gầy. Đối với trẻ em chỉ số này thay đổi theo tuổi.
6
1.1.2.2.Chỉ số Pignet :
Chỉ số Pignet = Chiều cao đứng(cm)- [Cân nặng(kg) + Vòng ngực
trung bỡnh(cm) ].
Chỉ số càng bộ thỡ thể lực càng tốt. Đối với trẻ em chỉ số này thay đổi
theo tuổi, vì vậy khi lập thang phân loại phải lập riêng cho từng lứa tuổi thì
việc đánh giá mới thích hợp [16].
1.1.2.3. Chỉ số cân nặng theo tuổi.
Đó là chỉ tiêu được dùng sớm và phổ biến nhất. Chỉ số này so sánh cân
nặng của một trẻ với cân nặng chuẩn theo tuổi. Cách phân loại này tiện dụng
nhưng không phân biệt được tình trạng thiếu dinh dưỡng mới gần đây hay kéo
dài đã lâu. Để khắc phục nhược điểm đó, năm 1976 Waterlow [50] đề nghị
cỏch phõn loại dựa vào cân nặng theo chiều cao và chiều cao theo tuổi. Theo
TCYTTG (1981) đề nghị lấy quần thể tham khảo là NCHS ( National Center
of Health Statistic). Điểm ngưỡng ở dưới 2 độ lệch chuẩn (-2SD) so với quần
thể tham khảo NCHS được coi là nhẹ cân.Dưới 3 độ lệch chuẩn (-3SD) và
dưới 4 độ lệch chuẩn (-4SD) được coi là bị suy dinh dưỡng nặng và rất nặng.
Hiện nay, theo chuẩn mới của Tổ chức y tế Thế giới, quần thể tham chiếu
CNHS sẽ được thay thế bằng một quần thể tham chiếu mới xây dựng dựa trên
sự chọn mẫu tại 6 điểm đại diện cho các Châu lục và các chủng tộc [46],[52].
1.1.2.4. Chiều cao theo tuổi.
Chiều cao theo tuổi phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc
thuộc về quá khứ làm cho trẻ bị còi cọc (stunting). Điểm ngưỡng dưới 2 độ

lệch chuẩn (-2SD) so với quần thể tham khảo NCHS được coi là quá thấp
1.1.2.5.Cân nặng theo chiều cao.
Cân nặng theo chiều cao nhỏ phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng ở
thời kỳ hiện tại và thời điểm khảo sát làm cho trẻ ngừng tăng cân hoặc tụt cõn
nờn bị gày còm (wasting). Điểm ngưỡng dưới 2 độ lệch chuẩn (-2SD) so với
7
quần thể tham khảo NCHS được coi là suy dinh dưỡng. Trẻ được coi là thừa
cân khi cân nặng theo chiều cao trên 2SD.
1.2. Sự phát triển về tâm lý - vận động.
Tâm lý và vận động được ghép lại thành cụm từ tâm vận động, sở dĩ
như vậy là ở thời kỳ thơ ấu cho tới 5-6 tuổi phát triển tâm lý của trẻ liên quan
mật thiết tới sự phát triển vận động, tới cảm giác. Từ cảm giác trẻ đi tới vận
động và ngược lại, hai hoạt động này luôn gắn quện vào nhau, tác động lẫn
nhau và thúc đẩy sự phát triển tâm lý của trẻ. Theo Nguyễn Thị Nhất [25],
thần kinh phát triển đến đâu vận động phát triển đến đó, kết hợp với luyện tập
và chịu sự chi phối của tình cảm, vận động dần dần phù hợp với ý đồ mục
tiêu. Trong thời thơ ấu, phát triển của vận động và trí nóo không gắn liền với
nhau, một em bé 5 tuổi có thể đánh giá trí khôn thông qua sự phát triển của
vận động [19], [25].
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của hệ thần kinh trong thời kỳ phôi thai.
Hệ thần kinh phát triển vào ngày thứ 18 của phôi. Ống thần kinh được
hình thành từ sự dày lên của phần ngoại bì ở phía lưng của phôi. Phần ngoại
bỡ lừm xuống thành rãnh. Hai bờ rãnh gắn lại với nhau thành ống thần kinh ,
ở giữa là ống nội tuỷ. Đầu dưới của ống sẽ trở thành ống tuỷ sống. Đầu trên
phát triển rất to thành não. Trong tổ chức trung bì ở giữa ống thần kinh và
ngoại ngoại bì sinh ra màng não và xương. Ống thần kinh phát triển qua nhiều
giai đoạn và qua nhiều lần phân chia cuối cùng trục thần kinh thành năm tỳi
nóo [6].
Hệ thần kinh trung ương bao gồm não và tuỷ sống, từ đó có những dây
thần kinh, dây thần kinh sọ đối với não , dây thần kinh gai đối với tuỷ sống.

Toàn bộ các dây thần kinh hình thành hệ thần kinh ngoại biên. Hệ thần kinh
trung ương được bao bọc, bảo vệ, nuôi dưỡng bởi hệ thống mạch máu, màng
não- tuỷ và khung xương (xương sọ và cột sống). Song song với sự hình
8
thành và phát triển của não và tuỷ sống, các tổ chức bảo vệ và nuôi dưỡng hệ
thần kinh cũng phát triển.
Hệ thần kinh được cấu tạo bởi các neuron thần kinh, trẻ đủ tháng có
khoảng 100 tỷ neuron, nếu nơron bị tổn thương thì khó có khả năng phục hồi
và neuron chết đi sẽ không được thay thế.
Quá trình tăng trưởng của nóo: Tăng trưởng về thể tích và làm thành
hai bán cầu não. Sự cuộn lại của các bán cầu dẫn tới sự hình thành thuỳ thái
dương, rãnh Sylvius, thuỳ đảo, từ đó tạo nên hình móng ngựa của khứu não,
của nhõn đuụi, của cỏc nóo thất bên và đám rối mạch mạc. Bề mặt của não
trước không còn nhẵn, những rãnh não phát triển và cỏc rónh này giới hạn các
hồi [6].
Quá trình phát triển của vỏ nóo: Vỏ não bao phủ mặt ngoài . Tới tháng
thứ 5 của phôi, vỏ não vẫn có cấu trúc sơ sài, sau đó cấu trúc vỏ não được
hình thành nhưng vẫn chưa hoạt động. Trẻ mới sinh chỉ có phản xạ tự động và
những phản ứng thuần tuý thuộc về bản năng dưới vỏ. Trong quá trình vỏ não
hoàn thiện, các chuỗi neuron bắt đầu hoạt động, các phản ứng giác quan được
thiết lập, các hoạt động tâm lý được phát triển.
1.2.2. Sự phát triển của hệ thần kinh sau sinh.
Khi mới sinh , các tổ chức ở vỏ não chưa hoạt động. Khi sinh ra hệ thần
kinh phát triển kém nhất so với các cơ quan khác. Sự trưởng thành được tiếp
tục trong ba năm đầu của trẻ. Ở trẻ mới sinh, các sợi thần kinh chưa được
myelin hoá , đến hết tháng thứ 3 các dõy thần kinh sọ nóo có vỏ myelin. Đến
tháng thứ 3-6 bó tháp có vỏ bọc myelin, các dõy thần kinh ngoại biên phải
đến khi trẻ được 3 tuổi mới có vỏ bọc myelin. Sự meylin hoá có ý nghĩa lớn
vì nó góp phần làm cho hưng phấn dược truyền một cách riêng biệt theo các
sợi thần kinh. Vì thế, hưng phấn được truyền đến vỏ nóo một các chớnh xác,

định khu hơn. Từ đó hoạt động của trẻ hoàn thiện hơn [6], [27]. Sự phát triển
9
của các đường dẫn truyền thần kinh diễn ra mạnh mẽ theo sự tăng lên của tuổi
và được tiếp tục khi trẻ 14-15 tuổi.
Các đường dẫn truyền cảm giác: Cảm giác nông ( sờ, đau, nóng, lạnh)
và cảm giác sâu ( tư thế, vị trí, nhận biết đồ vật). Ngay từ đầu trẻ đã phản ứng
lại với các kích thích, song phản ứng này chỉ mang tính chất chung. Đến 2-3
tuổi trẻ mới có thể định được vị trí kích thích đau.
Đường dẫn truyền thị giác: Được phát triển sớm, trẻ mở mắt ngay khi
ra đời. Chức năng thị giác của trẻ phát triển ở thời điểm 3 tháng, lúc này mắt
của trẻ đã nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay. Có sự kết hợp thị giác, vận động
và tiến bộ về ký ức thị giác giúp cho phát triển hiện tượng cầm, chơi đùa và
ngôn ngữ của trẻ.
Đường dẫn truyền thính giác: Ngay từ tháng cuối của thai , trẻ đã phản
ứng lại với các kích thích của thính giác với sự co cơ ở mắt. Từ 2 tháng tuổi ,
trẻ đã mỉm cười khi có người hỏi chuyện, đến khoảng 5 tháng tuổi trẻ bắt đầu
nhận biết các giọng nói của người nói chuyện. Lúc này có hiện tượng chín
muồi trong các diện thính giác.
Các đường dẫn truyền khứu giác, vị giác: Được hoạt động ngay từ khi
mới sinh ra biểu hiện là trẻ đó cú phản ứng lại bằng cách nhăn mặt với các
kích thích mạnh.
Các đường dẫn truyền vận động: Có nhiều đường dẫn truyền vận động:
Vận động có ý thức (bú tháp), vận động phối hợp (ngoại tháp), vận động
trương lực (cỏc nhõn xỏm trung ương). Phản xạ vận động là hình thức đặc
biệt của hoạt động vận động.
Sự phát triển về ngôn ngữ của trẻ: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất của người, là chức năng tổng hợp của nhiều cấu trúc cao cấp
của não.
10
+ Chức năng ở mặt ngoài của vỏ não: Ngôn ngữ là hình thức cao nhất

của hoạt động tâm lý, các diện chức năng của ngôn ngữ ở nhiều vùng của vỏ
não, có liên hệ với nhau đồng thời liên hệ với vận động, cảm giác và giác
quan.
+ Ngay khi chào đời tiếng khóc của trẻ mở đầu tiếng nói. Tới 6-7
tháng, trẻ đã phát âm được một số vần, tới 9-12 tháng, trẻ được củng cố thêm
bằng hoạt động phản xạ có điều kiện , trẻ nhắc đi nhắc lại nhiều từ, vần khác
nhau để từ đó nói được một số từ có ý nghĩa như ma ma, ba ba, bà, mẹ Ở
tuổi nhà trẻ và mẫu giáo, trẻ phát âm được và nói được một số câu ngắn, đặc
biệt có ngôn ngữ tự tạo nhưng chưa có sự chỉnh hợp trong ngôn ngữ.
Sự phát triển về trí tuệ: Trí tuệ là hoạt động tâm lý phức tạp bao gồm
khả năng nhận thức, ngôn ngữ, vận động và khẳ năng thích ứng với xã hội. Sự
phát triển của trí tuệ là sự tổng hợp của sự phát triển và chín muồi của hệ thần
kinh trung ương.
Sự phát triển của tâm lý diễn ra trên cơ sở sự phát triển về giải phẫu và
sinh lý [6], [19] [25], đặc biệt là trên cơ sở sự phát triển của não bộ và của hệ
thần kinh.
- Giai đoạn từ 1- 3 tuổi là giai đoạn rất đặc biệt. Mối quan hệ của đứa
trẻ với thế giới xung quanh và xã hội loài người được thay đổi về cơ bản cùng
với sự phát triển của vận động đi lại và tiếng nói. Việc tự đi lại cho phép trẻ
làm quen một cách toàn diện với các sự vật, hiện tượng xung quanh nú, cũn
sự phát triển tiếng nói của trẻ giúp trẻ khả năng tiếp xúc nhiều hơn với người
lớn. Hành vi của đứa trẻ 2-3 tuổi thể hiện rất rõ bằng hoạt động tìm tòi, lôi
cuốn chúng đến với mọi đồ vật, chạm, sờ, đẩy, cầm lấy chúng.
Đặc điểm hoạt động tư duy của trẻ ở năm thứ hai thay đổi rất rõ, tuy
các kích thích phức hợp vẫn còn tác dụng, nhưng đó khỏc về chất. Trẻ đã bắt
đầu biết tỏch cỏc thành phần của các kích thích xuất phát từ một đối tượng –
11
xuất hiện hình ảnh của từng đối tượng. Các hiện tượng của môi trường bên
ngoài đối với đứa trẻ ở năm thứ hai đã có được đặc điểm mới. Từ thế giới
tổng quát không phân chia xung quanh của đứa trẻ , bắt đầu xuất hiện từng

đối tượng riêng rẽ. Sự tiến bộ to lớn này trong việc phân tích môi trường bên
ngoài chỉ có thể diễn ra nhờ tác dụng của các dấu vết do các đối tượng gõy ra
trong não của đứa trẻ [14], [19], [23], [25]
Dần dần ở trẻ được hình thành hệ thống hành động thích đáng đối với
các đối tượng khác nhau : Nó ngồi lên ghế, dựng thỡa xỳc thức ăn, uống nước
từ chén Nhờ tác động qua lại giữa trẻ với các đối tượng mà hình thành được
các chức năng khái quát- nét hoạt động đặc biệt của não người.
Trong năm đầu tác nhân củng cố không điều kiện có hiệu quả nhất đối
với trẻ là thức ăn. Đến năm thứ 2,3 các loại củng cố khác ( định hướng, tự vệ,
trò chơi) trở nên có hiệu quả hơn. Ở trẻ hai tuổi đã hình thành được một số
lượng lớn các phản xạ có điều kiện với ý nghĩa của tín hiệu như kích thước,
trọng lượng, màu sắc Loại phản xạ này được xem như sự phản ánh có tính
tập hợp các hiện tượng của thế giới bên ngoài vào trong não và là mầm mống
của những khái niệm. Trong giai đoạn này sự hình thành các hệ thống đường
liên hệ có điều kịờn đối với sự định hình trật tự của các kích thích từ bên
ngoài có ý nghĩa lớn trong hoạt động thần kinh cao cấp của đứa trẻ.
Đối với các trẻ gần 3 tuổi sự hình thành một số hoạt động định hình
không còn khó khăn và các hoạt động định hình tiếp theo được hình thành
càng dễ hơn. Tuy nhiên, sự thay đổi hoạt động định hình đối với đứa trẻ là
công việc rất khó khăn. Do đó, đối với đứa trẻ 3 tuổi cần chú ý đến sự hình
thành và duy trì các hoạt động, sinh hoạt có tính chất định hình.
Cũng vào thời điểm này (khoảng 2-3 tuổi) tiếng nói của trẻ bắt đầu phát
triển nhanh. Tiếng nói trở thành tín hiệu có ưu thế khi nó tác động lờn cỏc thụ
cảm thể thính giác. Sang năm thứ 3 trẻ có thể nói lại và nhớ dễ dàng những từ
12
mới do người lớn nói ra ngay cả trong những trường hợp trẻ chưa hiểu ý
nghĩa của từ đó. Từ 2,5 đến 3 tuổi vốn ngôn ngữ của trẻ không những chỉ gồm
những từ riêng rẽ hay những thành ngữ, mà cũn cú cả những câu được đặt ra
trong quá trình phát triển ngôn ngữ và là những liên hợp khác nhau của
những từ ngữ đã quen biết trước đó, với việc sử dụng các giới từ, động từ và

những đặc điểm khác nhau về cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ [25], [27].
Trong sự hình thành tiếng nói cơ quan phân tích vận động cũng đóng
vai trò rất quan trọng. Sự phân biệt các âm thanh của tiếng nói không chỉ
được dựa trên sự phân tích các xung động từ các thụ cảm thể bản thể với bộ
máy phát âm, mà cũn cú sự tham gia của cơ xương (cử động tay). Đồng thời
có mối tương quan chặt chẽ giữa mức độ phát triển tiếng nói với các vận động
tinh vi của ngón tay, còn mối tương quan giữa tiếng nói và các vận động
chung rất thấp.
Một đặc điểm rất quan trọng trong hoạt động tư duy của trẻ em trong
những năm đầu sau khi sinh là hệ thống các đường liên hệ thần kinh được
hình thành trong thời gian này rất bền và được duy trì trong suốt đời sống cá
thể [14]. Điều này có liên quan với sự tiếp thu đặc biệt nhanh nhạy ở trẻ em,
cũng như với mức hưng phấn cao của các cấu trúc thần kinh dưới vỏ, nhờ đó
mà tác dụng của sự củng cố phản xạ không điều kiện ở trẻ em lứa tuổi này rất
mạnh và bền.
Trên thế giới, các nghiên cứu về sự phát triển tâm - vận động đã được
tiến hành từ thế kỷ XIX nhưng còn thô sơ. Sang thế kỷ XX đã có nhiều công
trình nghiên cứu nhờ có các kỹ thuật tiên tiến. Có nhiều trắc nghiệm để đánh
giá sự phát triển tâm - vận động ở trẻ em, như trắc nghiệm Gessell, Binet
Simon, Merrill Palmer, Terman Merrill, Brunet Lezine, Denver I và Denver II
[5], [10], [11], [21], [22].
13
Ở Việt Nam, năm 1972-1975 Vũ Thị Chín và CS [5] đã tiến hành thăm
dò sự phát triển tâm lý, vận động của trẻ từ 0-3 tuổi ở nhà trẻ bằng thang đo
Brunet- Lezine. Lê Đức Hinh [10], [11] đã sử dụng trắc nghiệm Denver I
trong đánh giá phát triển tâm - vận động cho trẻ em tại khoa Thần kinh Bệnh
viện Bạch Mai. Năm 1990 tác giả đã viết một tài liệu khá đầy đủ về cách sử
dụng trắc nghiệm này [10]. Quách Thuý Minh và CS [20], [21], [22] đã áp
dụng trắc nghiệm Denver I đánh giá sự phát triển tâm - vận động của trẻ em
tại một số nhà trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội. Nguyễn Thị Yến, Lê Nam Trà,

Hàn Nguyệt Kim Chi đã áp dụng trắc nghiệm Denver I đánh giá sự phát triển
tâm - vận động của 99 trẻ em dưới 5 tuổi tại Hà Nội và Hà Tây [32], [34].
1.3.Test Denver II.
Test Denver I được xuất bản đầu tiên vào những năm 1967 nhằm khám
phá dự báo những vấn đề phát triển ở trẻ nhỏ.Test Denver I đã được thích ứng
để sử dụng và được tiêu chuẩn hoỏ trờn 20 nước và đã được sử dụng nghiên
cứu cho trên 50 triệu trẻ em trên toàn thế giới. Do phạm vi sử dụng rộng như
vậy dẫn đến phải nghiên cứu sâu hơn và nó là động lực thúc đẩy các nhà
nghiên cứu xem xét, chỉnh sửa và tiêu chuẩn hoá lại Test Denver I. Trong quá
trình này đó cú một vài sự thay đổi so với 105 tiết mục nguyên bản. Có một
vài tiết mục bị huỷ bỏ căn cứ vào giá trị lâm sàng, hạn chế của nó hay do khó
khăn trong việc thực hiện và tính điểm. Một vài mục đã được chỉnh sửa để
giúp người đọc hiểu rõ hơn và rất nhiều mục mới được thêm vào, đặc biệt là
trong phần về ngôn ngữ. Tiêu chuẩn chấm điểm cho mỗi mục và cho những
hành vi chung của trẻ đã được xây dựng ưu tiên cho việc thu thập thông số.
Test Denver II được thiết kế để sử dụng tốt trẻ cho em độ tuổi sơ sinh
đến 6 tuổi và được tổng kết qua đánh giá hành vi của trẻ trên một loạt những
kỹ năng được thiết kế phù hợp với lứa tuổi. Test này thường được sử dụng
14
trong việc theo dõi những triệu chứng của trẻ để phát hiện ra vấn đề, trong
việc xác thực những nghi ngờ bằng trực giác có thể dùng test để đo và trong
việc giám sát những vấn đề xấu trong sự phát triển của trẻ, cũng như những
vấn đề ở những người đã trải nghiệm nhưng khó khăn trong thời kỳ chu sinh.
Mục đích của trắc nghiệm: Nhằm tiêu chuẩn hóa một phương pháp
đánh giá sự phát triển tâm vận động để có thể phát hiện sớm các trạng thái
chậm phát triển ở trẻ em trước tuổi đi học. Trắc nghiệm chủ yếu là vận dụng
các tiêu chuẩn bình thường đã biết, sắp xếp các tiêu chuẩn đó vào một hệ
thống chung để tiến hành, dễ nhận định, dễ đánh giá và tiện làm nhiều lần trên
cùng một đối tượng.
Test Denver II không phải là Test IQ, cũng không phải là những dự báo

chính xác cho sự thích ứng trong tương lai hay những năng lực trí tuệ. Nó
không được thiết kế cho việc chẩn đoán một cách chung chung như mất khả
năng học tập, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn cảm xúc và cũng không nên sử dụng
cho việc chẩn đoán, lượng giá cũng như kiểm tra về thực thể. Hơn thế Test
được thiết kế để so sánh những hành vi của trẻ qua rất nhiều các hành vi với
những hành động của trẻ khác ở cùng một độ tuổi.
Test Denver II gồm 125 tiết mục, nó được sắp xếp thành 4 nhóm lĩnh
vực, để dễ theo dõi từng loại chức năng như sau:
- Lĩnh vực 1 đánh giá cá nhân – xã hội là sự hoà hợp với xã hội và có
liên quan đến nhu cầu cá nhân, gồm 25 tiết mục.
- Lĩnh vực 2 đánh giá vận động tinh tế- thích ứng là sự phối hợp tay-
mắt, thao tác với những vật nhỏ bé và cách giải quyết vấn đề, gồm 29 tiết
mục.
- Lĩnh vực 3 đánh giá ngôn ngữ là sự nghe hiểu và sử dụng ngôn ngữ,
gồm 39 tiết mục.
15
- Lĩnh vực 4 đánh giá vận động thô là quá trình biết ngồi, đi, chạy
nhảy , các loại vận động cỏc nhúm cơ lớn, gồm 32 tiết mục.
Test này cũng bao gồm 5 quan sát hành vi. Cách đánh giá hành vi này
giúp cho những người theo dõi có sự đánh giá chủ quan về tất cả hành vi của
trẻ và chứa đựng những đo lường thô về việc trẻ sử dụng khả năng của chúng
như thế nào.
Những giá trị của Denver II đã thiết lập nên một tập hợp các dấu ấn lâm
sàng của trẻ trong suốt thời kỳ phát triển và cảnh báo những khó khăn trong
quá trình phát triển của trẻ dưới dạng tiềm năng. Test Denver II thường được
sử dụng để sớm xác định xem trẻ này so với trẻ khác như thế nào. Song nó
không phải là sự tiên đoán sau này trong sự phát triển của trẻ.
1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ
1.4.1.Các yếu tố nội tiết và di truyền
* Nội tiết: Các hormon tham gia quỏ trỡnh điều hoà phát triển cơ thể [8], [35]

- Hormon tăng trưởng (GH) được bài tiết từ khoảng tuần thứ 9 thời kỳ
phôi, từ đó hormon tăng tiết dần nhưng vai trò của nó với sự phát triển thai
chưa rõ, GH của tuyến yên đóng một vai trò rất quan trọng trong sự tăng
trưởng của trẻ từ khi sinh đến lúc trưởng thành với các tác dụng sau:
+ Tăng số lượng và kích thước tế bào, do đó vừa làm cơ thể tăng trọng lượng,
vừa làm tăng kích thước các phủ tạng.
+ Kích thích phát triển cỏc mụ sụn ở các đầu xương dài làm cơ thể cao lờn,ở
những xương đã cốt hoá GH làm dầy màng xương, đặc biệt là các xương dẹt.
+ Tăng tổng hợp Protein, do đó làm tăng trọng lượng và kích thước cơ thể.
Rối loạn bài tiết hormon GH sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển cơ thể, đặc biệt
trong thời kì cơ thể đang phát triển.
16
- Somatomedine: Là hormon có tác dụng hiệp đồng với GH trong quá
trình tăng trưởng. Người ta thấy GH không tác dụng trực tiếp lên sụn của cơ
thể mà thông qua somatomedine, sinh tổng hợp somatomedine lại phụ thuộc
vào GH. Như vậy, somatomedine và GH gắn kết chặt chẽ với nhau, giúp cơ
thể tăng trưởng bình thường.
- Hormon tuyến giáp :Là T
3
và T
4
, do các tế bào của nang tuyến giáp
tổng hợp và bài tiết. Tác dụng của T
3
và T
4
phối hợp với GH để làm cơ thể
phát triển, tăng quá trình biệt hoá tế bào,tăng tốc độ phát triển và điều hoà sự
phát triển cơ thể. Trong thời kì cơ thể đang phát triển, nếu thiếu T
3

- T
4
dẫn tới
lùn. Ngoài ra T
3
- T
4
còn tham gia vào quá trình phát triển trí tuệ. Vì vậy, nếu
trẻ thiếu T
3
- T
4
không chỉ bị lùn mà còn bị đần độn . Ngược lại nếu thừa T
3
-
T
4
trong thời kì đang phát triển, cơ thể sẽ lớn nhanh hơn những trẻ cùng lứa
tuổi nhưng không gây ra bệnh khổng lồ.
- Calcitonin: Do các tế bào cạnh nang của tuyến giáp bài tiết.
Calcitonin có tác dụng làm tăng quá trình tạo xương.
- Hormon sinh dục: Testosteron do tế bào Leydig của tinh hoàn bài tiết,
vai trò của nó là biệt hoá trung khu điều hoà chức năng sinh dục của vùng dưới
đồi. Estrogen do buồng trứng bài tiết, hormon này tham gia điều hoà sự phát
triển cơ thể và làm xuất hiện, duy trì và phát triển các đặc tính sinh dục ở nữ.
- Cortisol và các Glucocorticoid khác do lớp bó của tế bào vỏ thượng thận
tiết ra. Với nồng độ bình thường thỡ cỏc hormon này góp phần làm tăng
trưởng, nếu nồng độ tăng trong máu sẽ làm chậm tăng trưởng.
* Yếu tố di truyền bao gồm: Giống nòi, chủng tộc, các yếu tố gen và các bất
thường bẩm sinh.

- Tăng trưởng chiều cao của cơ thể con người cũng chịu sự chi phối bởi
yếu tố di truyền. Chiều cao là một đặc điểm nhân chủng quan trọng, mỗi dân
17
tộc thường có một khung chiều cao nhất định, chiều cao này được xác định
qua quá trình hình thành các đặc điểm sinh thể của dân tộc.
- Chiều cao cũng như một số tính trạng khác như: Độ thông minh, màu
da, nếp vân tay được chi phối bởi nhiều cặp gen tương ứng, các gen này có thể
nằm trên cùng một cặp hoặc nằm trờn cỏc cặp nhiễm sắc thể tương đồng khác
nhau. Hiện nay người ta chưa biết rõ gen nào chi phối chiều cao con người.
- Bên cạnh yếu tố di truyền, kích thước và thời gian tăng trưởng của trẻ
em cũng bị ảnh hưởng bởi giống nòi và chủng tộc. Tanner và CS [49]nghiên
cứu chiều cao của trẻ em có nguồn gốc châu Âu (London) , châu Á (Hồng
Kụng) và châu Mỹ (Hoa Kỳ) nhận thấy trẻ em châu Âu và châu Mỹ có chiều
cao tương tự nhau, còn trẻ em châu Á thấp hơn hẳn.
1.4.2. Yếu tố môi trường xã hội
* Dinh dưỡng:
- Nhiều nghiên cứu gần đây [2],[9], [ 13], [18], [29], [33] cho thấy dinh
dưỡng hầu như giữ vai trò chính trong sự phát triển của trẻ, ít nhất đến 5 tuổi.
- Việc cung cấp dinh dưỡng đầy đủ và hợp lí phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố:
+ Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ.
+ Kiến thức của bố mẹ, kinh tế của gia đình.
+ Phong tục tập quán của địa phương nơi trẻ sinh sống.
- Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ phụ thuộc nhiều vào lứa tuổi. Hiện nay, tổ chức
quốc tế nghiên cứu về dinh dưỡng đã thống nhất các loại thức ăn bổ sung cho
trẻ được biểu thị theo ô vuông thức ăn [17], [ 13], [33]
18
- Thức ăn bổ sung phải hợp với lứa tuổi và nhu cầu của trẻ. Thời điểm bắt đầu
cho ăn bổ sung đúng nhưng chất lượng thức ăn không tốt cũng sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển của trẻ [ 7] ,[18], [33], [38], [44], [51]
Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng đến sự phát triển và sức

khoẻ trẻ em nhiều tác giả Việt Nam cho thấy tình trạng dinh dưỡng càng kộm,
thỡ tỉ lệ trẻ chậm phát triển và mắc bệnh càng nhiều [9], [ 16] , [18], [20].
Theo Trần Hồng Loan [18] thì tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng
rất cao. Trong đó, trẻ thiếu cân bị suy dinh dưỡng chiếm 45%. Tác giả còn
cho biết trẻ bị suy dinh dưỡng tập trung nhiều ở lứa tuổi 13-16 tháng tuổi.
Cai sữa sớm cho trẻ ( trước 24 tháng tuổi) cũng gây suy dinh dưỡng với tỷ lệ
cao. Trẻ suy dinh dưỡng, đặc biệt là suy dinh dưỡng protein năng lượng,
chậm phát triển hơn so với trẻ bình thường: tuổi xương chậm hơn tuổi thực là
88,1%, trẻ có chiều cao phát triển kém chiếm 83,1% . Suy dinh dưỡng còn
làm cho tỷ lệ trẻ bị mắc bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tăng cao, đặc biệt
là trẻ em dưới 1 tuổi. Ngược lại, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính lại là nguyên
nhân gây suy dinh dưỡng đối với trẻ. Lượng protid, lipid, glucid, vitamin A
được hấp thu vào cơ thể ở trẻ suy dinh dưỡng thấp hơn rõ so với trẻ bình
thường.
+Thời điểm bắt đầu cho ăn bổ sung: cho ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn
đều ảnh hưởng đến phát triển thể chất của trẻ. TCYTTG khuyến cáo thời
điểm cho ăn bổ sung tốt nhất là từ 6 tháng, chỉ cho trẻ từ 4-6 tháng ăn thêm
nếu sau khi bú mẹ mà trẻ cũn đúi lên cân chậm.
+ Chất lượng thức ăn: thức ăn bổ sung phải phù hợp với lứa tuổi và nhu
cầu của trẻ. Nghiên cứu hiệu quả của việc bổ sung thức ăn đến sự phát
triển thể chất đã được nhiều tác giả đề cập đến [7] ,[9], [17].
19
* Gia đình
Theo Daniels R.S. và Smith R. thì từ khi trẻ được sinh ra, được nuôi dạy cho
tới lúc lớn và lúc trưởng thành, mỗi cá thể đều có một mối quan hệ mật thiết
với gia đình. Do đó chất lượng cuộc sống trong mỗi gia đình có sự liên quan
mật thiết đến quá trình phát triển thể chất, tâm lý và vận động của trẻ. Một trẻ
có cân nặng thấp khi sinh, nếu người mẹ đẻ nhiều con, nhà ở chật chội, kinh
tế gia đình khó khăn không đủ khả năng nuôi dưỡng, trẻ bị tiêu chảy nhiều
lần, không được sự chăm sóc đầy đủ của y tế, thức ăn thiếu chất đều là những

yếu tố góp phần tác động lên sự phát triển của trẻ [9]. Nếu những yếu tố trên
càng nhiều ở một trẻ thì trẻ đó có xu hướng bị suy dinh dưỡng [9], [18].
* Bệnh tật: Các bệnh về chuyển hoá, thần kinh, nội tiết, hô hấp, tim mạch,
tiờu hoỏ đều ảnh hưởng đến sự tăng trưởng.
Nhiều nghiên cứu cho thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa sự phát triển của
trẻ với bệnh tật nhất là bệnh nhiễm khuẩn, chuyển hoá [23], [24]
20
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu : 525 trẻ từ 1- 6 tuổi và các bà mẹ của cỏc cháu
ở Hưng Yên, Quảng Nam và Cần Thơ. Đây là 3 tỉnh, thành phố đại diện cho
3 miền Bắc, Trung, Nam.
- Tiêu chuẩn chọn trẻ:
+ Là trẻ sinh đủ tháng (38-42 tuần ), đẻ thường hoặc mổ đẻ.
+ Cõn nặng lúc sinh từ 2500g trở lên, chiều dài lúc sinh > 45cm.
+ Không có dị tật bẩm sinh, không có bệnh xã hội (giang mai, lao)
+ Không mắc các bệnh về thần kinh.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Trẻ mắc bệnh về hệ thần kinh.
+ Trẻ mắc bệnh mạn tính.
Bảng 2.1. Phân bố trẻ nghiên cứu theo địa dư và theo giới tính
Giới Thành phố Nông thôn Chung
n % n % n %
Trai 67 23,1 223 76,9 290 55,24
Gái 59 25,1 176 74,9 235 44,76
Tổng số 126 24,0 399 76,0 525 100
21
Bảng2.2.Phõn bố trẻ nghiên cứu theo địa dư và nhúm tuổi
Tháng

tuổi
n Thành phố Nông thôn
n % n %
13-15 51 14 27,45 37 72,55
16-18 30 7 23,33 23 76,66
19-21 24 6 25,00 18 75,00
22-24 35 7 20,00 28 80,00
25-27 33 8 24,24 25 75,75
28-30 26 9 34,61 17 65,38
31-33 31 7 22,58 24 77,42
34-36 35 10 28,57 25 71,43
37-42 55 11 20,00 44 80,00
43-48 50 11 22,00 39 78,00
49-54 57 13 22,81 44 77,19
55-60 43 10 23,25 33 76,74
61-66 27 6 22,22 21 77,77
67-72 28 7 25,00 21 75,00
Tổng 525 126 24,00 399 76,00
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
NC cắt ngang mô tả, mỗi trẻ được làm một hồ sơ nghiên cứu theo mẫu.
2.2.2. Địa bàn và thời gian nghiên cứu.
Địa bàn nghiên cứu được chọn có chủ đích là 3 tỉnh Hưng Yên, Quảng
Nam và Cần Thơ. Tại mỗi tỉnh, 1 quận và 1 huyện được chọn ngẫu nhiên.
Cũng theo phương pháp ngẫu nhiên, chọn 1 phường và 3 xã tham gia vào
nghiên cứu. Như vậy, địa bàn nghiên cứu sẽ bao gồm 3 phường và 9 xã. Cụ
thể phân bố đối tượng nghiên cứu theo thị xó/thành phố/huyện như sau:
phường Hiến Nam và huyện Kim Động (tỉnh Hưng Yên), huyện Thanh Bình
và thành phố Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam), , huyện Phong Điền, quận Cái Rang
(thành phố Cần Thơ).

22
Thời gian nghiên cứu : Tiến hành từ tháng 06/2007 đến 10/2008
2.2.3. Quá trình chọn mẫu
* Mẫu được lựa chọn theo phương pháp hệ thống:
Tại cỏc xó/phường mẫu được lựa chọn theo phương pháp hệ thống. Lập danh
sách các hộ gia đỡnh có trẻ trong độ tuổi. Tính khoảng cách k:
k = số trẻ trong độ tuổi của xó/phường/số trẻ cần nghiên cứu của xã,
phường.Cứ cách k trẻ lấy 1 trẻ vào nghiên cứu cho đến khi đủ số trẻ nghiên
cứu của một xó/phường thì dừng lại.
Công thức tính cỡ mẫu:
N
n =
1+ N. e
2

N: Dân số nghiên cứu
e: Sai số chọn mẫu ( 15%)
*Chọn mẫu
Ước tớnh mỗi xã/phường có số dõn trung bình từ 7000 người, với tỷ lệ
phần trăm trẻ dưới 6 tuổi trên cả nước là 11,6% [1], số trẻ dưới 1 tuổi là
1,86% dõn số, số trẻ 1-6 tuổi ước tớnh khoảng 700 trẻ. Đơn vị nghiên cứu là
hộ gia đình. Để có thể ước tính tỷ lệ trẻ ở cỏc nhúm đối tượng khác nhau như
trình bày ở trờn.Theo công thức trên mỗi xã có khoảng 42 hộ. Như vậy,
tổng số mẫu sẽ là: n = 3 tỉnh x 4 xó/phường x 42 hộ = 504 trẻ
2.2.4. Chỉ số nghiên cứu và cách xác định.
- Chỉ số hình thái của trẻ: Chiều cao, cân nặng, vòng đầu, vòng ngực, vòng
cánh tay, vũng đựi.
- Tâm – vận động: Dùng trắc nghiệm Denver II.
2.2.4.1. Xác định một số chỉ số hình thái
23

+ Cân nặng
Dụng cụ: Cân đồng hồ, cân Testus Beam Scale của UNICEF, đạt mức
chính xác 10g.
Kỹ thuật : Trẻ được cân bằng cân đồng hồ, cân vào buổi sáng, trước
khi cho trẻ ăn. Trẻ được nằm hay ngồi trong chiếc nôi con. Đặt cả nôi và đứa
trẻ lên cân. Cân nặng của trẻ bằng hiệu số của trọng lượng chung trừ cho
trọng lượng của chiếc nôi và quần áo.
+ Chiều cao
- Với trẻ dưới 3 tuổi, đo chiều cao nằm:
Dụng cụ: Bàn đo được cấu tạo từ một tấm ván dài 120cm, rộng 30cm,
mặt trên được bào nhẵn. Tấm ván này dùng để dặt trẻ nằm khi đo. Một đầu
của bàn được ghép vuông góc với một tấm ván nhỏ khỏc cú kích thước
30x30 cm để làm mặt phẳng cố định. Dọc theo bàn có một hộp gỗ hình thước
thợ. Hộp này dễ dàng di động trên mặt bàn nằm.
Kỹ thuật: Gỏy, mông, gót chân trẻ được áp sát vào bàn đo. Khi đo chiều
cao trẻ, một người giữ đầu trẻ sao cho đỉnh đầu sát vào tấm ván đính vuông
góc với bàn đo, người thứ hai một tay giữ hai đầu gối của trẻ cho chân trẻ
khỏi cong lên, một tay đẩy tấm gỗ di động của thước đến gót chân của trẻ và
đọc số đo.
- Với trẻ trên 3 tuổi, đo chiều cao đứng :
Dụng cụ: Thước đo nhân trắc học của Martin (Thuỵ Sỹ).
Kỹ thuật : Trẻ đi chân không, đứng quay lưng vào thước đo. Lưu ý để
thước đo theo chiều thẳng đứng, vuông góc với mặt đất nằm ngang. Gót chân,
mông, vai và ụ chẩm trẻ tựa sát vào một mặt phẳng đứng, mắt và lỗ tai ngoài
nằm trên cùng một đường thẳng, hai tay bỏ thõng theo hai bên mỡnh. Dựng
thước vuông hoặc mảnh gỗ áp sát đỉnh đầu thẳng góc với thước đo. Đọc và
ghi số cm với một số lẻ.
+ Vòng đầu:
24
Dụng cụ: Dùng thước dây mềm, không co giãn, được chia vạch đến

milimột.
Kỹ thuật đo: vòng quanh đầu, phía trước trên cung lông mày, phía sau
qua ụ chẩm để lấy kích thước tối đa.
+ Vòng ngực :
Dụng cụ: Dùng thước dây mềm, không co giãn, được chia đến milimột.
Kỹ thuật đo: Vòng thước dây quanh ngực, phía sau vuông góc với cột
sống sát dưới xương bả vai, phía trước qua hai núm vú (đối với các trẻ dưới 2
tuổi) và qua mũi ức (ở trẻ trên 2 tuổi). Người đo đứng về một bên của trẻ để
có thể kiểm tra mặt phẳng của thước dây. Có thể lấy số đo ở thì giữa lúc thở
nhẹ nhàng bình thường. Cũng có thể đo vòng ngực lúc thở hết sức và lúc hít
vào hết sức, rồi lấy trung bình cộng của 2 lần đo.
+ Vòng cánh tay:
Dụng cụ: Dùng thước dây mềm, không co giãn, được chia vạch đến
milimet.
Kỹ thuật đo: Để hai tay trẻ buông thõng tự nhiên, lòng bàn tay hướng
vào đựi, vũng thước dây theo vòng tay, đo ở giữa cánh tay trái( đo sát da
không qua lớp vải ở tay ỏo), vũng đo đi qua điểm giữa cánh tay tính từ mỏm
cùng xương vai đến mỏm trên lồi cầu xương cánh tay. Đọc kết quả và ghi số
cm với một số lẻ.
+ Vũng đùi:
Dụng cụ: Dùng thước dây mềm, không co giãn, được chia vạch đến
milimet.
Kỹ thuật đo: Vòng thước đo quanh đựi, sỏt nếp dưới lằn mông để đo
vòng to nhất của đùi. Số đo vũng đựi được lấy ở tư thế chân duỗi thẳng. Đọc
kết quả và ghi số cm với một số lẻ.
2.2.4.2. Nghiên cứu về phát triển tâm - vận động:
25

×