Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

thảo luận thâm hụt ngân sách nhà nước pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.98 KB, 22 trang )

Mục lục:
1 Thế nào là thâm hụt ngân sách nhà nước 2
2 Thực trạng thâm hụt ngân sách ở Việt Nam 2
3 Nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách ở Việt Nam 6
3.1 Nhóm nguyên nhân khách quan 6
3.1.1 Tác động của chu kì kinh doanh 6
3.1.2 Do hậu quả các tác nhân gây ra 6
3.2 Nhóm nguyên nhân chủ quan 7
3.2.1 Do cơ cấu thu chi ngân sách thay đổi 7
3.2.2 Do điều hành ngân sách nhà nước không hợp lý 7
3.2.2.1 Thất thu thuế nhà nước
3.2.2.2 Đầu tư công kém hiệu quả
3.2.2.3 Nhà nước huy động vốn để kích cầu
3.2.2.4 Chưa chú trọng giữa chi đầu tư phất triển và chi thường xuyên
3.2.2.5 Quy mô chi tiêu của chính phủ quá lớn
4 Tác động của thâm hụt ngân sách ở Việt Nam 8
4.1 Tích cực 8
4.2 Tiêu cực 8
5 Giải pháp xử lý thâm hụt ngân sách ở Việt Nam 9
5.1 Phát hành tiền 9
5.1.1 Thực trạng phát hành tiền ở việt nam 10
5.1.2 Ưu, nhược diểm 11
5.1.2.1 Ưu điểm
5.1.2.2 Nhược điểm
5.1.3 Nhận xét 12
5.2 Vay nợ 12
5.2.1 Vay nợ trong nước 12
5.2.2 Ưu, nhược diểm 14
5.2.2.1 Ưu điểm
5.2.2.2 Nhược điểm
5.2.3 Vay nợ nước ngoài 15


5.2.3.1 Thực trạng vay nợ nước ngoài của Việt Nam
5.2.4 Ưu, nhược diểm 17
5.2.4.1 Ưu điểm
5.2.4.2 Nhược điểm
5.3 Tăng thuế và kiện toàn hệ thống thu 18
5.3.1 Ưu, nhược diểm 19
5.3.1.1 Ưu điểm
5.3.1.2 Nhược điểm
5.3.2 Nhận xét 19
5.4 Cắt giảm chi tiêu nhằm giảm thâm hụt ngân sách 20
5.4.1 Ưu, nhược diểm 21
5.4.1.1 Ưu điểm
5.4.1.2 Nhược điểm
5.4.2 Nhận xét 21
5.5 Kết luận 22
1 Thế nào là thâm hụt ngân sách nhà nước
Thâm hụt ngân sách nhà nước là tình trạng mất cân bằng ngân sách Nhà
nước khi số chi vượt qua số thu ngân sách trong năm tài chính
2 Thực trạng thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
Giai đoạn trước năm 1986, thâm hụt ngân sách nhà nước luôn ở tình
trạng cao quá mức, thu ngân sách không đủ bù đắp cho chi thường xuyên,
chi tiêu của Chính phủ Việt Nam phải dựa chủ yếu vào sự viện trợ của nước
ngoài, đặc biệt là Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
Sang giai đoạn 1986-1990, trước tình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến
hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN. Với
những bước đi chập chững ban đầu, chính sách tài chính đã có đổi mới một
bước. Tuy nhiên, thu NSNN càng không đủ chi và bù đắp thâm hụt NSNN
không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát
hành.

Giai đoạn 1991-1995, cơ cấu chi ngân sách đã dần dần thay đổi theo
hướng tích cực. Nguồn thu trong nuớc đã đủ cho chi thường xuyên, tình
trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm dứt.
Trong giai đoạn này chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt ngân
sách đã giảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay
nước ngoài.
Năm 1991 1992 1993 1994 1995
Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP 1,4% 1,5% 3,9% 2,2% 4,17%
Như vậy, có thể thấy bội chi NSNN trong những năm 1991-1995 là
rất thấp (bình quân 2,63%) thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính
phủ trong thời kỳ 1991-1995 và đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp phần
kiềm chế lạm phát.
Giai đoạn 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển
biến tích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu tư phát
triển, thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn
1996 - 2000 do tác động của khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á
nên nền kinh tế gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bị giảm
dần từ 1996 đến 1999 và đến năm 2000 tốc độ này mới tăng lên chút ít, chặn
đứng đà giảm sút.
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP 3% 4,05% 2,49% 4,37% 4,95%
Giai đoạn 2001-2010: trong những năm gần đây, NSNN cũng đã có
chuyển biến đáng kể. Tốc độ tăng thu hàng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ
tăng chi bình quân hàng năm đạt 18,5%. Bội chi NSNN trong giai đoạn này
về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP.
Đơn vị tính: Tỷ Đồng
Năm Số Bội chi Bội chi so với GDP
200
1

25.885 4,67%
200
2
25.597 4,96%
200
3
29.936 4,9%
200
4
34.703 4,85%
200
5
40.746 4,86%
200
6
48.500 5%
200
7
56.500 5%
200 66.200 4,95%
8
200
9
142.355 6,9%
201
0
119.700 6,2%
Giảm một cách đáng kế thâm hụt ngân sách Nhà nước được coi là
thành tựu đáng kể của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Thành tựu này đă
góp phần to lớn vào quá trình đẩy lùi lạm phát ở nước ta cuối những năm

80. Giảm thâm hụt ngân sách đạt được là do kết quả của những biện pháp
cứng rắn như cắt giảm chi tiêu chính phủ, xóa bỏ dần các loại trợ cấp qua
giá, lương, trợ cấp cho xí nghiệp quốc doanh… Nhiều năm thâm hụt giảm
xuống dưới 5% so với GDP – một kết quả đáng khích lệ.
Tình hình thâm hụt ngân sách của Việt Nam từ 2000 đến 2008
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
TỔNG THU 90749 103888 123860 152274 190928 228287 279472 315915 416783
TỔNG CHI 108961 129773 148208 181183 214176 262697 308058 399402 494600
THÂM HỤT -18212 -25885 -24348 -28909 -23248 -34410 -28586 -83487 -77817
NHẬN XÉT:
+trong giai đoạn 2000-2008, tổng chi luôn lớn hơn tổng thu, khoảng
chênh lệch thu – chi ngày càng tăng.
+ tốc độ tăng thâm hụt diễn ra liên tục và ngày càng nhanh, đặc biệt là
giai đoạn 2007 – 2008.
+ tỷ trọng tăng thâm hụt trong GDP cao, hầu hết trên 5%.
+tốc độ tăng thâm hụt chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như: thiên tai, suy
giảm kinh tế, kích cầu dẫn tới tốc độ tăng thâm hụt đột biến năm 2007-
2008; tình hình thế giới ( giá dầu, suy thoái).
Năm 2007: tổng cục Thống kê cho biết, tổng thiệt hại do thiên tai, chủ yếu là do
sạt lở đất, mưa to và bão lũ gây ra ở 50 tỉnh, thành phố trên cả nước trong năm
2007 ước tính lên tới trên 11.600 tỷ đồng, bằng khoảng 1% GDP; giá dầu thô trên
thị trường thế giới năm 2007 giảm->giảm thu ngân sách,giảm thếu nhập khẩu xăng
dầu, trợ giá cho xăng dầu_>tăng mức thâm hụt
Năm 2008: chính phủ kích cầu nền kinh tế, trị giá gói kích thích lên tới … tỷ
USD->tăng thâm hụt 8-12%GDP, giảm thu từ thuế
Năm 2009:
Riêng IMF đã yêu cầu Chính phủ Việt Nam giám sát chặt chẽ các khoản chi tiêu
công. Theo đại diện của IMF, thì thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong năm
2009 đã lên tới 9% GDP, theo cách tính của IMF. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với
mức Việt Nam công bố chỉ là 6,9% GDP.

Năm 2010:
Bội chi ngân sách năm 2010 ở mức 6.2% GDP, giảm đáng kể so với năm
2009(6,9% GDP).
3 Nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
Thâm hụt ngân sách do rất nhiều nguyên nhân, và có sự ảnh hưởng khác nhau đến sự cân đối vĩ
mô của nền kinh tế. Về cơ bản, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước gồm các nguyên nhân
chính sau:
3.1 Nhóm nguyên nhân khách quan
3.1.1 Tác động của chu kì kinh doanh
Ở giai đoạn khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu
chi lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó
làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà
nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức
bội chi NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là
bội chi chu kỳ.
3.1.2 Do hậu quả các tác nhân gây ra
Xã hội luôn phải đối mặt với những rủi ro thiên tai, dịch bệnh và đôi khi cả những
rủi ro do chính con người gây ra như chiến tranh, khủng bố tình trạng dân số gia
tăng…mặc dù khi lập dự toán ngan sách các quôc gia đã có những biên pháp dự
phòng nhưng đôi khi rủi ro vượt ra ngoài dự đoán để xử lý các tình trạng khản cấp
nhắm ổn định các hoạt dộng kinh tế xã hội, nhà nước phải tăng chi và thâm hụt
ngân sách sảy ra ngoài mong muốn của nhà nước.
3.2 Nhóm nguyên nhân chủ quan
3.2.1 Do cơ cấu thu chi ngân sách thay đổi
Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm
tăng mức bội chi NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng
của Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của
chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu.
3.2.2 Do điều hành ngân sách nhà nước không hợp lý
3.2.2.1 Thất thu thuế nhà nước

Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách nhà nước bên cạnh các nguồn
thu khác như tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước, vay, nhận viện trợ…tuy nhiên, do hệ
thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lí chưa chặt chẽ đã tạo kẻ hở cho các cá
nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu một lượng đáng kể cho ngân sách nhà
nước…điển hình, trong năm 2008 lượng thuốc lá nhập lậu vào nước ta đã làm thất thu
thuế, lấy đi của ngân sách nhà nước 2.500- 3000 tỉ đồng. Ngoài ra, lượng thuốc lá nhập
lậu còn làm chảy máu ngoại tệ của đất nước khoảng 200 triệu USD/năm, làm gia tăng
thất nghiệp, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế một mặt giúp các doanh nghiệp có
thêm nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, việc miễn thuế, giảm
thuế hoặc chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân sách khác gây thâm hụt ngân
sách nhà nước.
3.2.2.2 Đầu tư công kém hiệu quả
Trong 2 năm 2007 và 2008, nước ta đã tiếp nhận một lượng vốn rất lớn từ bên ngoài.
Nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia
phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng đầu tư dàn
trải gây lãng phí ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công
những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả, đã gây lãng phí nguồn
ngân sách nhà nước và kiềm hãm sự phát triển của các vùng miền, là nguyên nhân chính
dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính
sự kém hiệu quả này làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng.
3.2.2.3 Nhà nước huy động vốn để kích cầu
Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính là: Phát hành trái phiếu Chính phủ,
miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước. Sử dụng gói giải pháp kích cầu
một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sẽ làm mức
thâm hụt ngân sách tăng rất cao khoảng 8-12%GDP
3.2.2.4 Chưa chú trọng giữa chi đầu tư phất triển và chi
thường xuyên
Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi ngân

sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ chế phân
cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách
cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng
với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm.
Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường
xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động
cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính
điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách.Để có nguồn kinh phí hoặc phải đi vay để
duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp
lực bội chi NSNN.
3.2.2.5 Quy mô chi tiêu của chính phủ quá lớn
Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong ngắn
hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài chính do
sự thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát đảm bảo sự hoạt
động lành mạnh của hệ thống tài chính. Đa số các nhà kinh tế thường thống nhất rằng
chi tiêu của chính phủ một khi vượt quá một ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng
kinh tế do gây ra phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả -> thâm hụt ngân sách
nhà nước -> lạm phát.
4 Tác động của thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
Bội chi ngân sách nhà nước (hay còn gọi là thâm hụt ngân sách nhà nước)
có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy theo
tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng bội chi ngân
sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ảnh hưởng tiêu
cực.
4.1 Tích cực
Sự thâm hụt ngân sách trong những năm qua được sử dụng như là một công cụ của
chính sách tài khóa để tăng trưởng kinh tế.
4.2 Tiêu cực
 Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa,
giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai, giảm

tăng trưởng trong dài hạn.
 Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối với năng
lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát kỳ
vọng của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước
sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt.
 Thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn tới việc nhà nước buộc phải
phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều này đến lượt nó dẫn tới lạm
phát.
 Gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ làm tăng nợ quốc gia, khiến sự tăng trưởng
của sản lượng tiềm năng chậm lại.
 Thâm hụt còn làm cho các nhà hoạt động chính sách không thể hoặc không
sẵn sàng sử dụng các gói kích thích tài chính đúng thời điểm.
 Để bù lại các khoản thâm hụt chính phủ buộc phải tăng thuế hoặc vay nợ
thông qua phát hành trái phiếu. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn
thất vô ích về phúc lợi xã hội và các doanh nghiệp phải chịu chi phí lớn
hơn, làm giảm động lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Đồng thời mức
tiêu dùng cũng giảm->giảm tổng cầu.
 Tóm lại: Thâm hụt ngân sách cao, kéo dài đe dọa sự ổn định vĩ mô.
5 Giải pháp xử lý thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
Để khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước,tuỳ theo bối cảnh,theo tình hình
kinh tế từng nước mà người ta có thể sử dụng một,hai hay nhiều biện pháp khác nhau như:
Phát hành tiền
Vay trong nước hoặc vay nước ngoài
Tăng thuế hoặc tăng các nguồn thu khác của Chính phủ
Cắt giảm chi tiêu (kể cả chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển )
Trong đó ,ba giải pháp đầu được xem như những giải pháp “cấp tiến” vì nó không trực
tiếp cắt giảm quyền lợi của bất kỳ bộ phận nào trong xã hội.Mặt khác nó lại hướng vào việc tăng
nguồn tài chính cho nên khá dễ triển khai.
Trong khi đó,giải pháp thứ tư được mệnh danh là “bảo thủ” vì nó nhằm vào cắt giảm chi
tiêu.Do đó,giải pháp này sẽ bị các ban ngành ,địa phương hoặc đơn vị có ngân sách dự kiến bị cắt

giảm lên tiếng phản đối,cản trở hoặc tìm cách gian lận,đồng thời tổng nhu cầu xã hội cũng bị co
hẹp lại.
Sau đây chúng ta sẽ đi vào phân tích các biện pháp tài trợ cụ thể để thấy được ưu điểm
cũng như nhược điểm của từng biện pháp và biện pháp nào sẽ mang lại hiệu quả cao?
5.1 Phát hành tiền
Khi ngân sách nhà nước thâm hụt,Chính phủ có thể tài trợ số thâm hụt
của mình bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở,đặc biệt là trong trường
hợp nền kinh tế đất nước suy thoái.Khi sản lượng thực tế thấp hơn mức sản
lượng tiềm năng thì việc tài trợ số thâm hụt của chính phủ bằng cách phát
hành thêm lượng tiền cơ sở sẽ góp phần thực hiện những mục đích của chính
sách ổn định hoá kinh tế thông qua việc đưa nền kinh tế tiến đến gần mức
sản lượng tiềm năng mà không gây lạm phát.
Ngược lại,khi nhu cầu của nền kinh tế quá mạnh (sản lượng thực tế
cao hơn mức sản lượng tiềm năng ) thì chính phủ không nên tài trợ số thâm
hụt của mình bằng cách tăng nhanh lượng tiền cơ sở ,vì như vậy sẽ càng
kích tổng cầu lên cao và đẩy sản lượng thực tế vượt xa mức sản lượng tiềm
năng,hậu quả là làm tăng lạm phát .
5.1.1 Thực trạng phát hành tiền ở việt nam
Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta vô cùng yếu
kém, thu không đủ chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách nhà nước luôn ở
tình trạng cao quá mức, chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của
nước ngoài là chính. Tuy nhiên, mức thâm hụt quá lớn khiến việc bù đắp
thâm hụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ
nguồn tiền phát hành.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách
1984 0,4
1985 9,3
1986 22,9
1987 89,1

1988 450
1989 1.655
1990 1.200
Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990, 59,7% mức thâm hụt của Ngân
sách nhà nước được hệ thống ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành
tiền. Trong bối cảnh mà tỷ lệ tích lũy nội bộ của nền kinh tế còn rất thấp (có
thể nói là không đáng kể), làm không đủ ăn, tỷ lệ chi đầu tư phát triển lại
quá lớn và nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách lại chủ yếu do phát hành tiền
như trên chính là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát
phi mã trong giai đoạn 1986-1990.
5.1.2 Ưu, nhược diểm
5.1.2.1 Ưu điểm
Nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một
cách nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng
nợ nần.
5.1.2.2 Nhược điểm
Tài trợ thâm hụt ngân sách theo phương pháp này thì xu hướng sẽ tạo
ra một tổng cầu quá lớn trong nền kinh tế và làm cho lạm phát tăng nhanh .
5.1.3 Nhận xét
Như vậy, biện pháp này có nhược điểm lớn là chứa đựng nguy cơ lạm
phát,gây tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống chính trị ,kinh tế và xã hội.
Kinh nghiệm chua xót về việc phát hành tiền quá dễ dãi để bù đắp
thâm hụt ngân sách gây ra lạm phát cao trong thập kỷ 80 đã cho chúng ta
những bài học quý giá.
Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nước ta đã bù đắp bội chi ngân
sách nhà nước bằng cách in thêm tiền đưa vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỷ
lệ lạm phát đỉnh điểm lên tới hơn 600%, nền kinh tế bị trì trệ
Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và
từ năm 1992, nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi
ngân sách nhà nước.

Ngày 1/4/1990 thành lập hệ thống kho bạc nhà nước trực thuộc bộ tài
chính (chịu trách nhiệm về thâm hụt ngân sách nhà nước ) độc lập với ngân
hàng nhà nước ( chịu trách nhiệm phát hành tiền vào lưu thông ). Đây là một
cuộc cách mạng về cơ cấu nhằm tách chức năng quản lý quỹ ngân sách nhà
nước ra khỏi chức năng phát hành tiền,tránh tình trạng tiền túi nọ bỏ vào tuúi
kia. Cơ chế đó đã đóng góp có kết quả vào việc kiềm chế bội chi và lạm phát
trong thập kỷ vừa qua.Từ năm 1991 nhà nước đã tiến hành vay nợ để bù đắp
thâm hụt ngân sách.
5.2 Vay nợ
Vay nợ là biện pháp chủ yếu để tài trợ thâm hụt ngân sách ở tất cả các quốc
gia trên thế giới, các biện pháp này khá đa dạng
5.2.1 Vay nợ trong nước
Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát
hành công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận
nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát
hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các ngân hàng.
Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát
hành trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái
phiếu công trình.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Số tiền vay trong nước để bù
đắp bội chi ngân sách nhà
nước
Số bội chi
2010 98.700 119.700
2009 88.520 115.900
2008 51.200 66.200
2007 43.000 56.500
2006 36.000 48.500
2005 32.420 40.746

2004 27.450 34.703
2003 22.895 29.936
2002 18.382 25.597
5.2.2 Ưu, nhược diểm
5.2.2.1 Ưu điểm
- Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt
ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì
vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát.
- Tập chung được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư,tránh được
nguy cơ khủng hoảng nợ nước ngoài, dễ triển khai.
5.2.2.2 Nhược điểm
 Thứ nhất, chứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt
động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
Để vay được tiền chính phủ phải đa dạng hoá các hình thức vay như
phát hành trái phiếu, tín phiếu, công trái Đồng thời phải thực hiện nhiều
biện pháp để tăng mức độ hấp dẫn người cho vay như tăng lãi suất, mở rộng
ưu đãi về thuế thu nhập ngoài ra còn phải triển khai các biện pháp khác, kể
cả tuyên truyền, vận động để huy động tối đa nguồn tiền trong dân cư
nhằm hoàn thành kế hoạch vay đã định.
Tuy nhiên, tổng lượng tiền mà nhân dân và các đơn vị có thể có để cho
chính phủ vay bị giới hạn trong tổng lượng tiết kiệm của xã hội. Nếu chính
phủ huy động được nhiều thì đương nhiên phần tiền còn lại dành cho đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh ở khu vực ngoài quốc doanh sẽ giảm đi.
Như vậy, chưa biết chính phủ sẽ làm gì, làm như thế nào đối với lượng
tiền huy động được, nhưng xã hội hay trực tiếp hơn là khu vực các doanh
nghiệp và dân cư đó sẽ mất đi một nguồn vốn tương ứng có khả năng dành
cho đầu tư phát triển kinh tế. Nếu các biện pháp thu hút tiền vay của chính
phủ và của ngân hàng càng có lãi suất cao thì càng tạo ra luồng tiền vốn dịch
chuyển từ các khu vực doanh nghiệp và dân cư sang hệ thống tài chính ngân
hàng mà không chảy vào sản xuất kinh doanh.

Do vậy, vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách luôn luôn chứa
đựng nguy cơ kìm hãm các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Mục tiêu chấn hưng kinh tế của chính phủ thông qua con đường phát hành
trái phiếu, tín phiếu bị chính bản thân giải pháp này cản trở ngay từ nguồn
gốc.
Chính vì thế, trong thời kỳ kinh tế đình đốn, hầu như các nước đều
tránh các biện pháp có nguy cơ làm giảm khẳ năng tự đầu tư của các thành
phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh và các tầng
lớp dân cư. Biện pháp tài trợ thâm hụt ngân sách này chỉ nên thực hiện trong
trường hợp nền kinh tế là cường thịnh. Nếu ta tài trợ thâm hụt ngân sách
bằng cách phát hành trái phiếu, thì trái phiếu sẽ tạo ra cho công dân trách
nhiệm nộp thêm thuế trong tương lai để trang trải lãi về các trái phiếu đấy.
 Thứ hai, việc trả lãi trong tương lai tạo ra một gánh nặng nợ cho
chính phủ (trừ khi những thâm hụt ngân sách nhà nước này bắt nguồn từ
việc chi tiêu cho các dự án đầu tư có sức sinh lời).
Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta
hiện nay), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho
chúng trở nên ít hấp dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để
buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu
việc này có dài có thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến uy tín của Chính phủ
và khiến cho việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn
vào các năm sau.
Tuy nhiên điều này chưa xảy ra ở Việt Nam.
Ngược lại, tức thực tế hiện nay, lãi suất trái phiếu chính phủ vẫn
không đáp ứng được lãi suất kỳ vọng của thị trường nên phát hành trái phiếu
luôn bị thất bại. Hậu quả có khi cũng tệ không kém, thị trường gần như
không có thanh khoản.
5.2.3 Vay nợ nước ngoài
Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước
ngoài thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ

các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng
Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế
5.2.3.1 Thực trạng vay nợ nước ngoài của Việt Nam
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ
chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một
nước nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và
hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái
phiếu bằng ngoaị tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng
Năm Số tiền vay nước ngoài để bù
đắp bội chi ngân sách nhà nước
(đơn vị tính: Tỷ Đồng)
Số bội chi
2010
21.000 119.700
2009 27.380 115.900
2008 15.000 66.200
2007 13.500 56.500
2006 12.500 48.500
2005 8.326 40.746
2004 7.253 34.703
2003 7.041 29.936
2002 7.125 25.597
5.2.4 Ưu, nhược diểm
5.2.4.1 Ưu điểm
Nó là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu, có thể bù đắp
được các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế.
Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt
trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

5.2.4.2 Nhược điểm
 Thứ nhất, việc vay nợ nước ngoài sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần,
nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ.
 Thứ hai, dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước
ngoài. Thậm chí, nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là
nhiều các điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi
vay bị phụ thuộc nhiều.
Vay nước ngoài phụ thuộc vào đối tác cho vay và thường phải chịu
những điều kiện ngặt nghèo về lãi suất và thời hạn vay trả. Hình thức vay
thường qua các hiệp định song phương,nguồn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) và vay trên thị trường tài chính quốc tế. Nguồn hỗ trợ phát triển
chính thức thường cho vay với các điều kiện ưu đãi, nhưng ngày càng hiếm
hoi và do vậy có sự cạnh tranh gay gắt. Dù thế nào, thì vay nước ngoài cũng
chịu sự ràng buộc của nhiều điều kiện vay áp đặt từ nước cho vay.
Ví dụ, Quỹ MIYAZWA của Nhật Bản quy định :Trong tống số vốn
được cho vay tài trợ, phải có ít nhất 50% được sử dụng để mua hàng của
Nhật hoặc các công ty Nhật đóng tại nước sở tại. Ngoài ra còn kèm theo các
điều kiện, thủ tục không thành văn khác như phải qua khâu trung gian là
Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản (JEXIM) hoặc các trung gian tài chính
khác của Nhật thì mới có thể vay được tiền từ MIYAZAWA
Như vậy nếu ta vay được của Nhật 1 tỷ ta đã góp phần trực tiếp chấn
hưng nền kinh tế Nhật tới trên 500 triệu, chưa kể các áp lực về thủ tục đấu
thầu,giá cả,công nghệ
Tính đến cuối năm 2000, mức độ nợ nước ngoài của Việt Nam khoảng
12,8 tỷ USD, chiếm 40-45% so với GDP và vẫn còn nằm trong “giới hạn an
toàn”. ( ngưỡng an toàn là 50% GDP).
Năm 2008, nợ Chính phủ chiếm khoảng 36,5% GDP, năm 2009 ước
lên đến 40% GDP và năm 2010 khoảng 44% GDP.
5.3 Tăng thuế và kiện toàn hệ thống thu
Nhà kinh tế học Mỹ-Laffer (thập kỷ 70 ) đã đồ thị hoá hai tác động trái

ngược nhau của việc tăng thuế thu nhập tuỳ theo mức thuế suất áp dụng.
Có một mức mức thuế suất tối ưu (t*) cho phép nhà nước đạt được số
thu ngân sách từ thuế lớn nhất. Khi thuế suất nằm dưới mức tối ưu này, thì
nâng thuế suất cho phép tăng thu ngân sách. Nhưng nếu thuế suất đã cao hơn
mức tối ưu này mà lại tiếp tục nâng thuế suất thì số thu ngân sách chỉ giảm
đi. Hàm ý của đường cong Laffer là khi thuế suất đang ở mức cao, thì giảm
thuế suất sẽ có lợi vì thu ngân sách tăng đồng thời lại khuyến khích khu vuẹc
tư nhân hăng hái đầu tư.
5.3.1 Ưu, nhược diểm
5.3.1.1 Ưu điểm
Khi còn trong vùng có thể chịu đựng được,tăng thuế suất thuế thu nhập
sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước,đồng thời còn kích thích các đối
tượng mở mang các hoạt động kinh tế,tăng khả năng sinh lời,một phần nộp
ngân sách nhà nước,còn lại là thặng dư cho mình.Trong trường hợp này,tăng
thuế thu nhập có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế.
5.3.1.2 Nhược điểm
Khi vượt qua giới hạn chịu đựng của nền kinh tế, tăng thuế suất trực
thu sẽ làm giảm nguồn thu từ thuế của ngân sách nhà nước và thúc đẩy trốn
thuế ,lậu thuế.
5.3.2 Nhận xét
Trên thực tế, tăng thuế là giải pháp không dễ áp dụng và rất tốn kém.
Tăng thuế có khả thi hay không còn phụ thuộc vào sức chịu đựng của nền
kinh tế, phụ thuộc vào hiệu quả làm việc của hệ thống thu,phụ thuộc vào
hiệu suất của từng sắc thuế. Trong thời kỳ kinh tế suy thoái, hoạt động kinh
tế mờ nhạt thì tăng thuế không những không khả thi mà còn cản trở hoạt
động sản xuất kinh doanh,trực tiếp làm tăng số lượng nợ đọng thuế của các
doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng tài chính không lành
mạnh và làm giảm nguồn thu ngân sách.
Ở Việt Nam, năm 2009 Chính phủ đã giải quyết thâm hụt ngân sách
bằng cách: Tăng thuế thu nhập cá nhân và thuế bất động sản. Liên quan tới

các ưu đãi về thuế TNDN: Từ 1-1-2009 thuế suất thu hẹp lại chỉ còn 10% và
20%, bỏ thuế suất ưu đãi 15%.
Các ưu đãi miễn giảm thuế thu hẹp lại, không mặc nhiên áp dụng cho
các DN mới thành lập hay đang đầu tư mở rộng nữa. Chỉ ưu đãi với các dự
án đầu tư vào lĩnh vực mang tính chất nhà nước đặc biệt khuyến khích.
Ví dụ: lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ, đầu tư hạ tầng quan trọng, sản xuất phần mềm, các dự án đầu tư vào
các khu kinh tế Mức để miễn giảm thuế tối đa là miễn 4 năm giảm 9 năm.
Các doanh nghiệp đã thành lập trước ngày 1-1-2009 và đang được
hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành sẽ tiếp tục được áp
dụng thời gian ưu đãi như cũ.
Luật mới cũng khống chế cách xác định thời gian bắt đầu tính thuế ưu
đãi: tính từ năm có thu nhập chịu thuế. Nếu doanh nghiệp nào lỗ trên 3 năm,
thì năm đầu tiên tính ưu đãi là năm thứ 4.
Thay đổi về thuế GTGT: Thu hẹp nhóm hàng hoá dịch vụ có thuế suất
5%. Đây là bước chuyển tiếp để tiến đến chỉ duy trì hai mức thuế suất là 0%
và phổ thông 10%.
Ví dụ: hiện nay qui định sản phẩm cơ khí phục vụ sản xuất là 5% còn
phục vụ tiêu dùng là 10%, tuy nhiên rất khó phân biệt hai loại này nên sẽ
chuyển hết sang 10%; sản phẩm luyện cán kéo kim loại cũng chuyển hết
sang thuế suất 10%; hóa chất cơ bản, thông thường được chuyển qua nhóm
10%; máy xử lý tự động; than đá, đất đá sỏi, bốc xếp trục vớt cứu hộ…cũng
vậy.
5.4 Cắt giảm chi tiêu nhằm giảm thâm hụt ngân sách
Cắt giảm nguồn đầu tư và tín dụng Nhà nước
Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước
Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp
Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan
trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt
để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án

mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt
giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các
khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà
nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa
thực sự cần thiết.
5.4.1 Ưu, nhược diểm
5.4.1.1 Ưu điểm
• Nhà nước chủ động trong thu và chi NSNN
• Không ảnh hưởng tới các biến số kinh tế vĩ mô
• Giảm chi tiêu CP Giảm Tổng cầu giảm lạm phát cao như hiện nay
5.4.1.2 Nhược điểm
• Khó thực hiện, nếu cắt giảm nhiều thì không hoàn thành được chỉ tiêu kinh
tế
• Ảnh hưởng tới lợi ích công
• Khó khăn trong việc quản lý giám soát các dự án đầu tư của CP
5.4.2 Nhận xét
Xét theo góc độ kinh tế học,cắt giảm chi tiêu với hy vọng giảm tổng
chi nhằm giảm mức thâm hụt ngân sách nhà nước là một biện pháp ‘tiêu
cực’.
Chính phủ sẽ cắt giảm chi thường xuyên,bao gồm cả chi lương ,chi
mua sắm trang thiết bị cho bộ máy quản lý hành chính,thậm chí sẽ trì hoãn
hoặc cắt giảm đầu tư phát triển.
Đương nhiên, ở đây cần phân biệt tính hiệu quả, tiết kiệm trong mỗi
khoản chi ngân sách với khái niệm cắt giảm chi tiêu ngân sách nhà nước,cần
phân biệt khái niệm lãng phí và phạm trù kích cầu. Nếu như công việc trung
gian gián tiếp kích thích hoạt động kinh tế thì đó không phải là lãng phí mà
là những việc cần làm ngay giúp cho nền kinh tế phục hồi.Dù trước mắt
,ngân sách có thiếu hụt cũng phải tạo nguồn để chi cho khoản đó nhằm chấn
hưng nền kinh tế và nuôi dưỡng nguồn thu trong tương lai.

Chẳng hạn ở Việt Nam để tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hoá của
ta, cần tăng khả năng lưu thông,muốn tăng khả năng lưu thông cần giảm chi
phí vận chuyển,muốn giảm chi phí vận chuyển nhà nước cần đầu tư vào cơ
sở hạ tầng giao thông vận tải, cải tạo, hoàn thiện và xây mới các tuyến
đường
5.5 Kết luận
Mỗi giải pháp tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước đều có những ưu điểm và
nhược điểm riêng.Không một giải pháp nào chỉ có toàn ưu điểm và cũng không tồn tại
giải pháp nào thuần tuý là nhược điểm.
Do vậy cần phối hợp sử dụng đồng thời các giải pháp với những liều lưọng hợp
lý,phù hợp với từng giai đoạn phát triển và bối cảnh nền kinh tế nhằm phát huy tối đa tác
dụng của mỗi giải pháp.
Trong thời gian tới,đồng thời với việc triển khai các biện pháp hoàn thiện hệ
thống thuế,tăng cường huy động vốn vay,cắt giảm chi tiêu lãng phí có lẽ cũng không
nên bỏ quên nhà máy in tiền.Phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách trong những
thời điểm hợp lý ,với một liều lượng hợp lý là đúng đắn,chúng ta không nên phủ nhận
tuyệt đối biện pháp này. Trong điều kiện chính phủ quản lý máy in tiền và nhất là khi nền
kinh tế trong tình trạng suy thoái,mức lạm phát không cao,vật giá không leo thang thì nên
chủ động in tiền nhằm mục tiêu trước nắt là có đủ tiền để trang trải các chương trình đầu
tư phát triển,bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước.Hơn nữa,in tiền ở thời điểm và mức độ
hợp lý sẽ tạo ra mức lạm phát nhẹ có tác dụng kích thích tiêu dùng,thú đẩy kinh tế phát
triển.
Ngoài ra khi nền kinh tế đang ở trong tình trạng xuống dốc,càng không nên áp
dụng các biện pháp kìm hãm sự phục hồi các hoạt động kinh tế như cắt giảm chi tiêu,tăng
thuế, mà phải làm ngược lại chấp nhận bội chi ngân sách và khống chế bội chi ở trong
giới hạn an toàn,không kéo theo lạm phát.

×