LỜI MỞ ĐẦU
Ngân sách nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng trong mọi thời đại và
trong mọi nền kinh tế, nó là công cụ huy động tài chính đảm bảo việc thực
hiện hoạt động của bộ máy nhà nước, là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh
tế xã hội, có vai trò quan trọng trong cơ chế thị trường. Bởi vậy, mỗi quốc
gia đều xây dựng cho mình một hệ thống ngân sách nhà nước quy định cụ
thể chi tiết và hoàn chỉnh các vấn đề về thu, chi, phân cấp cũng như quản lý
ngân sách…Ngoài ra, mỗi năm còn có hội nghị thường niên nhằm báo cáo
các kết quả đạt được của ngân sách nhà nước trong năm và đề ra những chỉ
tiêu, nhiệm vụ về ngân sách cho năm tới.
Tại Việt Nam, tình hình kinh tế trong những năm gần với, với việc thu và chi
tiêu ngân sách không hợp lý và kém hiệu quả đã khiến cho ngân sách nhà
nước luôn luôn bị thâm hụt và ở mức khá cao. Nguồn thu của ngân sách nhà
nước hiện tại còn rất nhiều hạn chế về mặt cơ cấu cũng như quản lý nguồn
thu trong khi nhu cầu đầu tư các dự án và chương trình kinh tế lớn của nhà
nước cần một số lượng vốn lớn, chính những điều đó đã dẫn tới việc bội chi
ngân sách và tác động không nhỏ tới sự phát triển chung của đất nước.
Đó cũng chính là lý do em chọn đề tài : “ Ngân sách nhà nước và thực trạng
thâm hụt Ngân sách nhà nước ở Việt Nam”. Để có thể hiểu rõ hơn về các vai
trò của ngân sách nhà nước cũng như các khoản mục thu chi, đặc biệt là về
thâm hụt ngân sách cũng như các biện pháp khắc phục nó, cấu trúc của bài
đề án gồm 3 phần:
Chương 1: Tổng quan về Ngân sách nhà nước và thâm hụt Ngân sách nhà nước.
Chương 2: Thực trạng Ngân sách nhà nước và thâm hụt Ngân sách nhà nước tại
Việt Nam.
Chương 3: Kết luận về Ngân sách nhà nước và thâm hụt Ngân sách nhà nước tại
Việt Nam.
1
Chương 1: Tổng quan về Ngân sách nhà nước và thâm hụt
Ngân sách nhà nước
I. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Ngân sách nhà nước:
Khi nhà nước xuất hiện, để có tiền chi tiêu nhà nước đã đặt ra chế độ thuế khóa
bắt toàn dân phải cống nạp và từ các khoản thu đó hình thành nên quỹ tiền tệ của
nhà nước. Đầu tiên, nhà nước sử dụng quỹ tiền tệ này để nuôi dưỡng viên chức và
binh lính của nhà nước, ngoài ra còn sử dụng để chi tiêu cho hoàng gia. Sau đó,
phạm vi được mở rộng và như chúng ta thấy ngày nay, nhà nước còn dùng tiền
quỹ của mình để chi tiêu cho các khoản phúc lợi và kinh tế.
Trước khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện, nhà nước không hề có một văn bản tài
chính nào bao quát hết tất cả các khoản thu, chi của mình trong từng thời kì. Mỗi
một khoản chi được đảm bảo bằng một hay nhiều khoản thu nhất định và được thể
hiện trong một bảng dự toán riêng biệt, thậm chí có những khoản chi không cần dự
toán. Lúc đó, quyền hành thu chi đều thuộc về những người đứng đầu nhà nước,
thấy thiếu thì họ thu, không chịu bất kỳ một sự kiểm soát nào của xã hội.
Khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện, đã tạo ra những tiền đề để hình thành và phát
triển một hệ thống tài chính hoản chỉnh, nhất là ngân sách nhà nước. Giai cấp tư
sản đã lãnh đạo quần chúng chống lại những luật lệ tài chính vô lý của nhà nước
phong kiến, đòi hỏi sự hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước, sửa đổi hệ thống thuế
khóa và thiết lập sự kiểm tra của xã hội đối với các khoản thu, chi của nhà nước.
Kết quả của quá trình đấu tranh bền bỉ này là đã xóa bỏ được sự độc quyền chi tiêu
của người đứng đầu nhà nước, hình thành nên một ngân sách nhà nước theo những
tiêu chuẩn định mức công khai và được lập cho từng thời kỳ nhất định, và như
chúng ta thấy hiện nay là một hệ thống ngân sách nhà nước tương đối hoàn chỉnh.
1. Khái niệm:
• Điều 1 của Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội khóa XI nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam thông qua tại kì họp thứ hai, năm 2002 có ghi:
2
“ Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
• Bản chất của ngân sách nhà nước:
- Xét về phương diện pháp lý: Ngân sách nhà nước là một đạo luật dự trù các
khoản thu, chi bằng tiền của nhà nước trong một thời gian nhất định, thường là
một năm do cơ quan lập pháp của quốc gia ban hành.
- Xét về bản chất kinh tế: Ngân sách nhà nước là tập hợp các mối quan hệ
trong phân phối, gắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung.
- Về tính chất xã hội: Ngân sách nhà nước là công cụ kinh tế của nhà nước,
nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
2. Đặc điểm:
- Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với quyền lực kinh
tế - chính trị của nhà nước, và việc thực hiện các chức năng của nhà nước, được
nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định.
- Hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối lại các nguồn tài
chính, nó thể hiện ở hai lãnh vực thu và chi của nhà nước.
- Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa đựng
những lợi ích chung, lợi ích công cộng.
- Ngân sách nhà nước cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét
khác biệt của ngân sách nhà nước với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của nhà
nước, nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng riêng, sau đó mới được chi
dùng cho những mục đích đã định.
- Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc
không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
3
3. Vai trò của Ngân sách nhà nước:
3.1. Ngân sách nhà nước – công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo
các nhu cầu chi tiêu của nhà nước:
Đây là vai trò lịch sử của ngân sách nhà nước, mà trong cơ chế nào và trong thời
đại nào ngân sách nhà nước cũng phải thực hiện. Vai trò này của ngân sách nhà
nước được xác định trên cơ sở bản chất kinh tế của ngân sách nhà nước. Sự hoạt
động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi phải có
các nguồn tài chính để chi tiêu cho những mục đích xác định. Các nhu cầu chi tiêu
của nhà nước phải được thỏa mãn từ các nguồn thu bằng hình thức thuế và thu
ngoài thuế.
3.2. Ngân sách nhà nước – công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội của
nhà nước:
Khi đề cập đến các công cụ tài chính trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế -
xã hội, nhà nước không thể không sử dụng một công cụ rất quan trọng, đó là ngân
sách nhà nước. Bởi lẽ , phạm vi phát huy vai trò của ngân sách nhà nước rất rộng
và trên một mức độ lớn, nó tương đồng với phạm vi phát huy chức năng và nhiệm
vụ của nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội . Song, nhà nước
cũng chỉ có thể thực hiện điều chỉnh thành công khi có nguồn tài chính đảm bảo,
tức là khi sử dụng triệt để và có hiệu quả công cụ ngân sách nhà nước. Vai trò điều
tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của ngân sách nhà nước có thể được khái quát hóa
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và thị trường như sau :
3.2.1 Về mặt kinh tế:
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng hình thành cơ
cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
- Ngân sách nhà nước cung cấp nguồn kinh phí để nhà nước đầu tư cho cơ sở
kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, để
trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát
triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
4
- Việc hình thành doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong những biện pháp
căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng
cạnh tranh không hoàn hảo.
- Hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong những trường hợp cần
thiết đảm bảo cho sự ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang cơ
cấu mới, cao hơn.
- Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo thực hiện vai trò
định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
- Các nguồn vay nợ từ nước ngoài và trong nước sẽ tạo thêm nguồn vốn cho
nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn vay nợ của nhà
nước cũng là một vấn đề cần phải xem xét thận trọng khi quyết định thực
hiện các biện pháp huy động tiền vay.
3.2.2. Về mặt xã hội:
- Đầu tư của ngân sách để thực hiện các chính sách xã hội : chi Giáo dục -
đào tạo, y tế, kế hoạch hóa gia đình, văn hóa, thể thao, truyền thanh, chi
bảo đảm xã hội, sắp xếp lao động và việc làm, trợ giá mặt hàng ...
- Thông qua thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm điều
tiết thu nhập để phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp.
- Thông qua thuế gián thu nhằm hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm. Tuy
nhiên, vấn đề sử dụng công cụ NSNN để điều chỉnh các vấn đề xã hội
không đơn giản, đòi hỏi phải được nghiên cứu đầy đủ và phải có sự thống
nhất giữa chính sách và biện pháp. Chẳng hạn: Khi trợ giá điện, xăng dầu,
công tác truyền hình . . . thì những đối tượng được hưởng không phải là
người nghèo, mà chính là những người có thu nhập trung bình hoặc cao.
3.2.3. Về mặt thị truờng:
Ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các chính sách về
ổn định giá cả, thị trường và chống lạm phát. Bằng công cụ thuế, phí, lệ phí,vay và
chính sách chi ngân sách nhà nước có thể điều chỉnh được giá cả, thị trường một
cách chủ động.
- Một chính sách ngân sách thắt chặt hay nới rộng đều có thể tác động mạnh
mẽ đến cung - cầu xã hội.
5
- Việc huy động của ngân sách nhà nước dưới các hình thức thuế, phí, lệ
phí,vay và kể cả bảo hiểm xã hội trên GDP và GNP chiếm tỉ trọng cao thì
sự cung ứng vốn đầu tư dài hạn, vốn tiền tệ ngắn hạn của các nhà đầu tư và
đầu tư của dân sẽ giảm, vốn tự đầu tư sẽ khan hiếm hơn. Mặt khác, nó sẽ
làm cho cầu về hàng hóa, dịch vụ của dân cư giảm xuống, nhưng ngân sách
nhà nước lại có điều kiện để tăng cầu với quy mô lớn và chi cho đầu tư lớn
sẽ kích thích tăng cung.
Ngược lại, nếu ngân sách nhà nước huy động trên GDP và GNP chiếm tỉ trọng
thấp thì nguồn tự đầu tư tăng lên, thúc đẩy tăng cung, đồng thời kích thích tăng
cầu về hàng hóa, dịch vụ, nhưng ngân sách lại không có điều kiện để tăng cầu và
chi cho đầu tư.
- Trên thị trường tài chính, nhà nước vay vốn với lãi suất cao sẽ có tác động
tăng cung ứng vốn từ phía các nhà đầu tư và tiết kiệm tiêu dùng để dành
cho tương lai, đồng thời làm giảm lượng cầu về vốn đầu tư của doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Ngược lại, khi lãi suất các khoản vay của nhà nước giảm xuống dưới mức lợi tức
bình quân toàn xã hội, các nhà đầu tư sẽ tìm môi trường đầu tư vào sản xuất kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ mà không muốn cho nhà nước vay. Mặt khác , lãi suất
các khoản vay của nhà nước có vị trí quan trọng trên thị trường chứng khoán, có
thể tham gia điều tiết quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán.
- Ở đây cần nhấn mạnh đến dự trữ nhà nước. Trong cơ chế thị trường, nhà
nước không thể bắt buộc các doanh nghiệp bán hàng theo giá cả quy định, mà
ngược lại, giá cả là do thị trường quyết định, phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu và
các yếu tố khác. Trong quá trình biến đổi của mình, sẽ có lúc giá cả lên cao, gây ra
những cơn sốt nhất thời và có lúc giá cả lại xuống quá thấp. Để bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng và kích thích sản xuất phát triển, nhà nước cần phải theo dõi
sự biến động của giá cả trên thị trường và phải có nguồn dự trữ về hàng hóa và tài
chính để điều chỉnh kịp thời. Nguồn dự trữ này được hình thành từ kinh phí cấp
phát của NSNN. Do đó, sự thành công của nhà nước trong điều chỉnh giá cả và thị
trường thông qua công cụ dự trữ nhà nước phụ thuộc vào kinh phí cấp phát của
NSNN cho mục đích này.
6
- Chống lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá trình điều chỉnh thị
trường. Nguyên nhân gây ra và thúc đẩy lạm phát có nhiều và xuất phát từ nhiều
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thu, chi tài chính của Nhà nước.
+ Khi đồng vốn ngân sách được sử dụng hợp lý và có hiệu quả thì tác dụng tích
cực của nó rất lớn, ngược lại sẽ gây ra bất ổn định trên thị trường, thúc đẩy lạm
phát tăng lên.
+ Phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp
của tình trạng lạm phát gia tăng.
- Mặt khác, NSNN có cân bằng hay không sẽ tác động sâu sắc đến sự cân bằng
của cán cân thanh toán quốc tế, bởi vì:
+ Cân bằng của ngân sách tác động trực tiếp đến sự cân bằng của cán cân
thương mại.
+ Cân bằng của ngân sách thực hiện được hay không nói lên khả năng trả nợ
đến hạn các khoản vay nước ngoài có thực hiện được hay không.
II. Thu ngân sách nhà nước:
1. Khái niệm, đặc trưng:
Để thực hiện các chức năng của mình Nhà nước phải huy động một bộ phận
nguồn tài chính của xã hội tập trung vào NSNN. Bộ phận nguồn tài chính này
được tập trung vào quỹ tiền tệ của Nhà nước bằng những phương thức và hình
thức khác nhau. Hình thức cổ truyền được sử dụng từ trước cho đến nay để tạo
nguồn thu cho NSNN đó là thuế. Ngoài ra Nhà nước còn có các nguồn thu khác
như: thu từ các hoạt động kinh tế của Nhà nước, thu từ vay nợ, viện trợ . . .
a. Khái niệm:
Ta có khái niệm : “ Thu ngân sách nhà nước là việc nhà nước sử dụng quyền lực
của mình để tập trung một phần hoặc toàn bộ nguồn lực tài chính quốc gia để tạo
thành quỹ Ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước”.
Hay nói các khác, bản chất của thu NSNN phản ánh quan hệ kinh tế nảy sinh
trong quá trình phân chia các nguồn tài chính giữa nhà nước với các chủ thể trong
xã hội. Nó mang tính bắt buộc, cưỡng chế các chủ thế kinh tế khác phải thực hiện
trách nhiệm và nghĩa vụ đối với nhà nước.
b. Đặc trưng:
7
Thu NSNN được đặc trưng bởi một số đặc điểm sau:
- Cơ cấu các khoản thu NSNN đều gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền
lực chính trị của nhà nước. Trên cơ sở quyền lực chính trị của mình, nhà nước
định ra các chính sách thu NSNN. Ngược lại, các khoản thu NSNN là tiền đề để
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
- Thu NSNN luôn luôn gắn chặt với các quá trình kinh tế và các phạm trù giá
trị. Kết quả của quá trình hoạt động kinh tế và hình thức, phạm vi, mức độ vận
động của các phạm trù giá trị là tiền đề quan trọng xuất hiện hệ thống thu NSNN.
- Thu NSNN phải căn cứ vào tình hình hiện thực của nền kinh tế; biểu hiện ở
các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội GDP, giá cả, thu nhập, lãi suất, v.v...
- Ngoài ra, thu NSNN được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp
là chủ yếu.
Do đó, cần lưu ý là không tính vào thu NSNN các khoản thu mang tính chất
hoàn trả như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì thế, các văn bản hướng dẫn Luật
NSNN (Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và Thông tư
59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính) chỉ tính vào thu NSNN các
khoản viện trợ không hoàn lại; còn các khoản viện trợ có hoàn lại thực chất là các
khoản vay ưu đãi không được tính vào thu NSNN.
2 .Nội dung, phân loại thu ngân sách:
Xét theo tác dụng của các khoản thu với quá trình cân đối ngân sách, thu NSNN
bao gồm các khoản:
Thu trong cân đối NSNN:
Thu trong cân đối NSNN bao gồm các khoản thu chủ yếu sau:
- Thuế, phí và lệ phí
- Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước.
- Thu lợi tức cổ phần của Nhà nước.
- Các khoản thu khác theo luật định.
Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không chỉ
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số thu ngân sách nhà nước hàng năm mà còn là
công cụ của Nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Để phát huy tốt các
tác dụng điều tiết vĩ mô của các chính sách thuế, nhìn chung ở nước ta cũng như ở
các nước khác trên thế giới, nội dung của chính sách thuế thường xuyên có thay
đổi cho phù hợp với diễn biến thực tế của đời sống kinh doanh xã hội và phù hợp
8
với yêu cầu của quản lý kinh tế, tài chính. Các sắc thuế chủ yếu hiện đang được áp
dụng ở nước ta hiện nay gồm có: Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập đối với ngưới có thu
nhập cao, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp,…
Thu để bù đắp sự thiếu hụt của NSNN:
Bao gồm các khoản vay trong nước và ngoài nước cho chi tiêu ngân sách nhà
nước khi các khoản chi ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu trong cân đối
của ngân sách.
- Vay trong nước: gồm cả vay của các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế, xã hội trong nước. Việc vay này được thực hiện dưới hình thức
phát hành các công cụ nợ của chính phủ (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) như các
tín phiếu kho bạc Nhà nước, trái phiếu Chính phủ.
- Vay ngoài nước:
Ngoài ra còn một số các phân loại thu NSNN:
• Căn cứ vào tính chất kinh tế của các nguồn thu: Thu NSNN chia làm 2 loại:
- Thu từ thuế và các khoản mang tính chất thuế như phí, lệ phí. Đây là các
khoản thu có tính chất bắt buộc, không hoàn trả và là nguồn thu chủ yếu của ngân
sách.
- Các khoản thu không mang tính chất thuế hay thu ngoài thuế.
Các phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định tỷ lệ động viên từ thuế vào
ngân sách hay tỷ suất thuế ( tỷ lệ giữa số thuế thu được/ GDP) dùng trong việc
phân tích đánh giá chính sách động viên vào NSNN từ thuế. Ngoài ra nó còn có ý
nghĩa tỏng việc xác định và đánh giá tỷ trọng nguồn thu thuế trong tổng số thu.
• Căn cứ vào tính chất thường xuyên của các khoản thu, thu NSNN bao gồm:
- Thu thường xuyên bao gồm chủ yếu từ thuế, lệ phí, phí. Ngoài ta có các
khoản thu khác là:
+ Thu từ sở hữu tài sản ngoài thuế như thu từ hoạt động sự nghiẹp, thu sử dụng
vốn ngân sách, tiền cho thuê mặt đất…
9
+ Thu lãi từ các khoản cho vay
+ Các khoản đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong nước
+ Tiền phạt, tịch thu…
- Thu không thường xuyên có các khoản như thu tiền bán nhà thuộc sở hữu
nhà nước, bán cổ phần thuộc sở hữu nhà nước, thu từ viện trợ, vay nợ…
Trên cơ sở mức chi thường xuyên mà chủ yếu căn cứ vào thuế, phí, lệ phí
giúp xác định tỷ lệ giữa thu thường xuyên và chi thường xuyên. Tỷ lệ này rất cần
khi cân đối NSNN nhằm đảm bảo ổn định chi tiêu dùng thường xuyên và tăng tích
lũy cho nền kinh tế.
• Căn cứ vào phạm vi của nguồn thu :
- Thu nước ngoài, gồm có viện trợ và vay nước ngoài
- Thu trong nước và vay nợ trong nước
Cách phân loại này có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ phụ thuộc của
NSNN vào bên ngoài và mức độ can thiệp trực tiếp của nhà nước thông qua tỷ
trọng chi đầu tư và tiêu dùng của khu vực nhà nước.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước:
- Tiềm năng tài nguyên thiên nhiên của đất nước:
- Nhân tố GDP bình quân đầu người:
- Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế:
- Mức độ và hiệu quả chi tiêu của nhà nước:
- Tổ chức bộ máy thu ngân sách:
10
III. Chi ngân sách nhà nước:
1. Khái niệm, đặc trưng:
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà
nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của
nhà nước. Thực chất của chi ngân sách nhà nước là việc cung cấp các
phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của nhà nước.
Chi NSNN có một số đặc trưng riêng:
- Chi NSNN luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội
mà chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia.
- Tính hiệu quả của các khoản chi NSNN được thực hiện ở tầng vĩ mô và
mang tính toán diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả xã hội và
chính trị ngoại giao.
- Phần lớn các khoản chi ngân sách đều là các khoản cấp phát không hoàn
trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Vì vậy, các nhà quản lý cần có sự
phân tích tính toán cẩn thận khi đưa ra các quyết định chi tiêu để tránh
được những lãng phí không cần thiết.
2. Nội dung, phân loại chi ngân sách nhà nước:
2.1. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, chi NSNN phân thành:
- Chi đầu tư kinh tế: Là những khoản chi nhằm hoàn thiện và mở rộng nền
sản xuất xã hội. Khoản chi này có vai trò điều tiết quan trọng, được thực
hiện qua nhiều kênh khác nhau, tạo ra sự tác động tổng hợp kích thích sự
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, tạo thế cân bằng cho nền kinh tế.
- Chi cho y tế : bao gồm các khoản chi để duy trì và mở rộng hoạt động y tế.
- Chi cho giáo dục: bao gồm các khoản chi cho việc duy trì và phát triển hoạt
động giáo dục đào tạo.
- Chi cho phúc lợi xã hội: là những khoản chi mà xã hội cần chính phủ quan
tâm, giúp đỡ. Đó là các khoản trợ cấp cho người già, người tàn tật, trẻ mồ
11
côi, người lao động chưa có việc làm, nhân dân các vùng thiên tai, địch họa,
cho thương binh, gia đình liệt sĩ...
- Chi cho quản lý hành chính : là những khoản chi nhằm duy trì hoạt động
của các cơ quan quản lý thuộc chính quyền các cấp, Quốc hội, Hội đồng
nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân, chi về ngoại giao . . .
- Chi cho an ninh và quốc phòng: là những khoản chi dành cho các lực
lượng vũ trang và công tác bảo vệ trị an trong nước.
2.2. Căn cứ vào mục đích kinh tế - xã hội, chi NSNN được phân thành:
- Chi tích lũy: bao gồm các khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi cấp vốn
lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước, chi dự trữ . . .
- Chi tiêu dùng: chi tiêu dùng đa dạng và phức tạp hơn nhiều so với chi tích
lũy bao gồm, chi quản lý hành chính, chi sự nghiệp, chi bù giá và chi khác.
2.3. Căn cứ vào yếu tố thời hạn tác động của các khoản chi, chi NSNN được phân
thành 3 nhóm:
- Chi thường xuyên: là những khoản chi có thời hạn tác động ngắn, bao gồm
: chi lương và các khoản có tính chất tìên lương, chi bổ sung quỹ hưu trí,
chi công vụ phí, chi mua sắm hàng hóa và dịch vụ cho nghiệp vụ và cho
sửa chữa thường xuyên, chi trợ cấp, bù giá, chi trả lãi tiền vay trong và
ngoài nước, chi cho quỹ dự trữ thường xuyên, dự bị phí . . .
- Chi đầu tư phát triển: Là những khoản chi có thời hạn tác động dài, bao
gồm: Chi đầu tư các dự án phát triển, chi chuyển giao vốn đầu tư cho các
doanh nghiệp Nhà nước hoặc các địa phương, chi dự trữ cho mục đích đầu
tư, chi viện trợ, đầu tư cho nước ngoài. . .
- Chi trả khác: bao gồm, chi cho vay (cho vay các tổ chức nhà nước, cho vay
nước ngoài...) và trả nợ gốc (trả nợ trong nước, trả nợ ngoài nước).
3. Những nhân tố ảnh hưởng:
- Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thiên nhiên như bão, lũ lụt, sóng thần…
- Nhiệm vụ của đất nước trong từng thời kì.
- Khả năng tích tụ và tập trung nguồn lực kinh tế.
12