Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

giá trị văn chương tác phẩm bình ngô đại cáo của nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.21 KB, 44 trang )

BÀI VĂN MẪU LỚP 10
Đề bài: Giá trị văn chương của Bình ngơ
đại cáo
Đã nhiều thập kỷ nay, Bình Ngơ đại cáo được
đưa vào chương trình dạy-học mơn Văn (sau
gọi là mơn Ngữ văn) ở cấp cuối trường phổ
thơng.
Thường thì người ta cứ mặc nhiên dạy- học nó
như một văn bản văn chương mà không mấy
người đặt ra vấn đề phải chăng nội dung dạyhọc đó phù hợp với tính chất môn học hay đã
lấn sân sang môn học khác, môn Lịch sử


chẳng hạn, và cùng với điều đó lại có thể bỏ
sót một số giá trị văn chương nào đó bởi trước
tác này mang tính chất ngun hợp, khơng chỉ
là “văn sử bất phân” mà ngay ở phần văn
cũng là tổng hoà của nhiều loại văn: văn nghị
luận, văn tự sự, văn trữ tình… Và mặc dầu
bản hùng văn này đã được nhiều người nghiên
cứu dưới các góc độ, đạt được nhiều thành
tựu, song vẫn có những vấn đề cần phải nhận
thức lại.


Bình Ngơ đại cáo trước hết là một văn kiện
lịch sử. Cuối năm 1427 (cũng có những tài
liệu cổ cho rằng đầu năm 1428) được lệnh của
Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết Bình Ngơ đại cáo và
văn bản này được cơng bố tháng 4 năm 1428
bố cáo cho toàn quân dân biết sự nghiệp bình




Ngơ đã hồn tồn thắng lợi, qn thù đã thảm
bại và phải cút khỏi nước ta, một vận hội mới
đã mở ra cho giang sơn xã tắc. Chỉ với tư cách
văn bản quan phương Bình Ngơ đại cáo mới
được đưa vào bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn
thư(1) chứ khơng phải vì nó là tác phẩm văn
chương xuất sắc của một bề tôi. Tuy nhiên,
các thể loại văn chương Việt Nam thời trung
đại-như viện sĩ Đ.X. Likhatsôp nhận thấy ở
thể loại văn học Nga cổ- “là để phục vụ nhằm
thoả mãn cả một kết hợp phức tạp những nhu
cầu xã hội và tồn tại gắn liền với điều đó
trong một sự lệ thuộc với nhau rất chặt


chẽ”(2), nên từ khi ra đời, Bình Ngơ đại cáo
khơng phải chỉ được tiếp nhận chủ yếu như
một văn bản hành chính mà cịn như một kiệt
tác văn chương.
Cáo là một thể trong loại văn chiếu lệnh, loại
văn được người xưa coi trọng nhất. Luận ngữ
ghi lời của đức Khổng Tử khen nước Trịnh
cẩn trọng khi soạn thảo loại văn bản này: Tử
viết: “Vi mệnh, Tỳ Thầm thảo sáng chi. Đông
Lý Tử Sản nhuận sắc chi Thế Thúc thảo luận
chi. Hành nhân Tử Vũ tu sức chi” (Đức
Khổng Tử nói rằng: “Khi nước Trịnh làm tờ
từ mệnh gửi cho nước khác, ông Tỳ Thầm



khởi thảo, ông Thế Thúc khảo cứu bàn bạc,
quan hành nhân là ông Tử Vũ sửa chữa thêm
bớt, ông Tử Sản ở đất Đông Lý trau chuốt
lại”). Tỳ Thầm, Thế Thúc, Tử Vũ, Tử Sản là
những người tài nổi tiếng đương thời, cả bốn
người hợp sức lại để viết cho thấy thái độ của
người đương thời về loại văn liên hệ trực tiếp
với chính sự này. “Chính giả, chính dã”
(Chính trị là chính nghĩa – Luận ngữ). Một
phương tiện để làm rõ chính nghĩa của các đế
vương và các triều đại chính là văn chiếu
lệnh. Văn chương thẩm mỹ để ngâm ngợi, chỉ
cho thấy tài năng của cá nhân trong khi văn


chiếu lệnh phục vụ đắc lực cho chính sự, gắn
bó với sự hưng vong của vương triều và quốc
thể. Văn chương thời trung đại khác văn
chương hiện nay ở nhiều phương diện, trong
đó bộ phận khác biệt lớn nhất là những thể
loại chức năng, bởi như Đ.X. Likhatsôp đã chỉ
rõ những thể loại này nhằm đáp ứng đồng thời
nhiều nhu cầu xã hội, khác với hiện nay đã có
sự khu biệt về thuộc tính và chức năng của
các hình thái ý thức. Tìm hiểu những văn bản
loại này cần kết hợp linh động giữa tư duy
lịch đại và tư duy đồng đại. Hiển nhiên người
ngày nay tiếp nhận chúng không giống người



thời trung đại, nếu khơng có quan điểm lịch
sử cụ thể sẽ bỏ qua hoặc không đánh giá đúng
những giá trị đặc thù, mà đây lại là một trong
những nguyên cớ để chúng có mặt trong
chương trình dạy-học ngữ văn ngày nay.
Cáo là một thể của loại văn học chức năng,
loại trước tác có yêu cầu đầu tiên và cao nhất
là “từ nghiêm nghĩa chính” (ngơn từ chuẩn
mực, ý nghĩa chính đáng). Bình Ngơ đại cáo
là một tác phẩm đỉnh cao nên nó mang thuộc
tính phổ qt của các hiện tượng điển hình, là
nghiên cứu nó sẽ khơng chỉ biết về một cá thể
mà còn nhận thức được một phạm vi rộng hơn


thuộc cấp độ loại – ở đây là loại văn học chức
năng. Trước tác này ra đời cách đây đã năm
thế kỷ, khi ấy các thể loại văn học chức năng
cịn mang đậm tính chất ngun hợp, bởi vậy
bản đại cáo cịn tích hợp nhiều giá trị khác,
mà ở đây chúng ta quan tâm tìm hiểu là giá trị
văn chương. Với đặc điểm của tư duy người
đương thời, giá trị văn chương khơng ngăn
trở, chế ước giá trị hành chính của văn bản,
trái lại, như thực tế cho thấy, đã tạo thêm sức
sống cho văn bản quan phương này.
Giá trị của Bình Ngơ đại cáo trước hết là ở
phương diện một trước tác chính luận, loại



văn bản được đánh giá cao khi có hệ thống lập
luận chặt chẽ, thể hiện sâu sắc và sinh động
những vấn đề có ý nghĩa trọng đại của quốc
gia dân tộc. Với Bình Ngơ đại cáo, khơng
phải nhà chun mơn cũng dễ nhận ra được
lơgic lớn của tồn bài và sự thứ lớp trong lập
luận của từng phần. Tiêu biểu cho tầm khái
quát của văn bản là đoạn đầu (Nhân nghĩa chi
cử… quyết hữu minh trưng). Đoạn này như
một định nghĩa rất tiêu biểu về quốc gia
phong kiến, được đánh giá là cống hiến có ý
nghĩa thế giới, khiến cho các thế hệ sau thán
phục, tự hào. Đây là thành tựu đột xuất của


lịch sử tư tưởng Việt Nam thời ấy, nhưng với
Nguyễn Trãi, là thành tựu tất yếu vì tất cả mọi
ý niệm đó đều đã có trong Quân trung từ
mệnh tập, đây chỉ là tập đại thành. Thành quả
đó do ba nguyên nhân. Trước hết do tài năng
siêu việt của nhà trí thức-người anh hùng
Nguyễn Trãi vì chính ơng chứ khơng ai khác
đã từ tầm cao thời đại, khái quát những giá trị
to lớn của đất nước và đồng bào, của văn hoá
Việt. Nguyên nhân thứ hai thuộc thời đại đầy
biến động to lớn, khiến vấn đề dân tộc dân
chủ được đặt ra cực kỳ gay gắt. Người trí thức
Nguyễn Trãi đã được tơi luyện trong hồn



cảnh đó, ơng nhìn thấy giang sơn và dân nước
mình trong máu và nước mắt trước khi thấy
họ trong hào quang chiến thắng. Với một chút
hài hước có thể nói ngun nhân thứ ba thuộc
“cơng” của giặc Minh. Chính vì trong thời
gian dài phải thường xuyên đương đầu với kẻ
thù mạnh, thâm độc và gian xảo như giặc
Minh khiến tư duy Nguyễn Trãi thêm sắc sảo.
Chẳng hạn luận điểm vĩ đại của ông Nhân
nghĩa chi cử, yếu tại an dân chính là để phản
bác luận điệu xảo trá của quân Minh, vạch rõ
bộ mặt thật của chúng đằng sau chiêu bài
nhân nghĩa “hưng diệt kế tuyệt”, tư tưởng này


đã được bộc lộ cụ thể hơn ở Hựu đáp Phương
Chính thư (số 5)(3), Tái phục Phương Chính
thư (số 8).
Giá trị văn chương của Bình Ngơ đại cáo
thấm nhuần ở tồn bộ tác phẩm do người viết
ln nhìn nhận sự vật, hiện tượng cùng với
một trí tuệ sắc sảo là một tâm hồn tinh nhạy,
con tim giàu cảm xúc. Điều này thể hiện kín
đáo nhưng mạnh mẽ ở ngay cả đoạn đầu, đoạn
chứa đựng những khái quát về lịch sử dài lâu
và quang vinh của đất nước, đoạn chứa đựng
những tư tưởng lớn của một bản tuyên ngôn
độc lập. Niềm tự hào to lớn, kiêu hãnh vì



được làm con dân của một dòng giống anh
hùng và văn hiến được tác giả thể hiện cô đúc
qua những phó từ ngắn gọn: thực (Ngã Đại
Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang =
Nước Đại Việt ta thật là nước văn hiến)(4), ký
(Sơn xuyên chi phong vực ký thù = Núi sông
bờ cõi đã chia), diệc (Nam Bắc chi phong tục
diệc dị = Phong tục Bắc Nam cũng khác). Ở
những đoạn sau, khi lên án tội ác quân xâm
lược, kể lại những khốn khó của nghĩa quân
buổi đầu dựng nghiệp, miêu tả những bước
đường thắng lợi của quân dân, đặc biệt đoạn
bố cáo kết thúc chiến tranh… thì cảm xúc


càng có điều kiện biểu lộ mạnh mẽ, phong
phú.
Giá trị văn chương cịn biểu hiện ở sự sáng
tạo hình tượng và hình ảnh, điều này liên
quan, hay nói đúng hơn là hệ quả của đặc
điểm trên. Từ những năm tuổi trẻ đến những
ngày tháng cuối đời, Nguyễn Trãi luôn biểu
hiện một cốt cách nghệ sĩ lớn, chỉ có những
điều kiện nào đó buộc ơng phải tiết chế phẩm
chất đẹp đẽ này, cịn khi tình huống cho phép,
ơng tự bộc lộ một cách tự nhiên sinh động.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân văn sâu
sắc của Bình Ngơ đại cáo có sức tác động



mạnh mẽ, có sự trường tồn một phần lớn là do
điều này. Nguyễn Trãi diễn tả tư tưởng bằng
những hình tượng sinh động, thật khó phân
định đâu là từ nguồn sách vở, đâu là sáng tạo
riêng. Biểu hiện sức mạnh to lớn của nghĩa
quân, ông không liệt kê số liệu mà dựng hình
ảnh Ẩm tượng nhi hà thuỷ can; Ma đao nhi
sơn thạch khuyết (Gươm mài đá, đá núi cũng
mòn; Voi uống nước, nước sông phải cạn).
Diễn tả sự đồng tâm nhất trí trong qn ngũ vì
nghĩa lớn, tác giả mô tả cảnh Đầu giao hưởng
sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm (Tướng sĩ một
lịng phụ tử, hồ nước sơng chén rượu ngọt


ngào). Chú dẫn câu này có người đưa ra điển
tích Trung Hoa thời Chiến Quốc, còn người đi
thực địa cho biết ngày nay ở miền tây Thanh
Hố cịn di tích hòn đá Khao và suối Rượu,
cũng là nêu những sự thực hiển nhiên.
Nguyễn Trãi vâng mệnh của đấng chí tơn,
soạn một văn bản hành chính, điều đó đã rõ
ràng, nhưng cũng không kém phần hiển nhiên
là trong tâm thế tác giả có cả hai mục đích đều
lớn và khơng mâu thuẫn: soạn một văn bản
hành chính và sáng tạo một cơng trình văn
chương. (Ăngghen, trong Thư gửi Stáckenbua
có viết rằng con người sáng tạo ra lịch sử của



mình, nhưng là sáng tạo trong những điều
kiện thực tế đương tồn tại và những quan hệ
mà người ta phải thích ứng). Điều này biểu
hiện ở chỗ ơng sử dụng nhiều thủ pháp tu từ,
nhiều chất liệu văn chương điển phạm và nhất
là rất có ý thức, có năng lực tạo nên tính nhạc
cho ngơn từ. Văn biền ngẫu chỉ yêu cầu cơ
bản là mỗi câu gồm hai vế cân xứng còn độ
dài câu văn, sự ngắt nhịp là do cảm quan của
từng người viết. Có người chỉ thấy thuận lợi
(do “có khn”) mà khơng thấy khó khăn đối
với tác giả xưa. Trong cái khuôn chung ấy mà
biểu lộ được thần thái riêng của từng nội dung


và từng cá tính là điều khó khăn, tài năng lớn
cộng với bản lĩnh cao mới tạo nên được.
Nguyễn Trãi rất linh hoạt chính ở chỗ đầy bó
buộc này. Nhạc tính của câu văn Bình Ngơ
đại cáo đa dạng, phù hợp với nội dung câu
văn tự sự, trữ tình hay nghị luận. Ơng tun
ngơn bằng câu súc tích, chắc nịch Ngã Đại
Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang. Miêu
tả tội ác quân thù, ông lại sử dụng thủ pháp
trùng điệp, như cố ghi hết tội ác to lớn, trời
không dung, đất không tha của chúng.
Chúng tôi quả rất băn khoăn trước nhận định:
“Cáo thường được viết bằng văn biền



ngẫu”(5). Nhận định này có thể làm cho người
dạy- học Bình Ngơ đại cáo ở trường phổ
thơng trung học hình dung theo hai hướng.
Một là cho rằng ở nước ta, ngồi “thiên cổ
hùng văn” này cịn có những bản cáo khác
nữa, thực ra, trong những bộ quốc sử hiện còn
đều khơng nói tới các bản đại cáo nào khác.
Đọc sử sách cũ đôi khi chúng ta gặp cụm từ
“đại cáo thiên hạ” thì chỉ với ý nghĩa là nhà
vua hoặc triều đình, hoặc người đứng đầu một
phong trào ban bố rộng rãi điều gì đó, cịn
khơng dễ mà có được những bản đại cáo như
thời kỳ đầu của nhà Hậu Lê. Phải có điều kiện


song hành, bên cạnh một chiến cơng chính
nghĩa lừng lẫy cịn phải có một thiên tài văn
chính luận. Ngồi thời Lê Lợi và Nguyễn
Trãi, chúng ta thấy cịn có thời Quang Trung
Nguyễn Huệ và Ngơ Thì Nhậm. Biết đâu vị
hồng đế anh hùng và thiên tài họ Ngô từng
nghĩ đến điều này, nhưng đứng trước Bình
Ngơ đại cáo các vị lại có cảm nghĩ như Lý
Bạch xưa lên lầu Hồng Hạc cảm xúc dồi dào
mà ngần ngại không đề thơ vì có thơ Thơi
Hiệu trên đầu! Ngồi ra người dạy- học Ngữ
văn ở phổ thơng trung học có thể sẽ hình dung
rằng trước Bình Ngơ đại cáo, ở Trung Quốc



thể văn này đã được viết bằng văn biền ngẫu
và cùng với nó, đã có hình thức hồn chỉnh,
và theo cách ứng xử của văn chương thời
trung đại, Nguyễn Trãi chỉ cịn “lắp” câu chữ
của mình vào.
Thực ra, cho đến nay khi nói về thể cáo, ngồi
Bình Ngơ đại cáo các chuyên gia văn học
trung đại Việt Nam cũng chỉ nhắc đến các bài
cáo trong Thượng Thư. Các văn bản trong
Thượng Thư ra đời trước cơng ngun nhiều
thế kỷ(6) cịn văn biền ngẫu xuất hiện thời
Hán, Ngụy và thịnh hành thời Lục triều. GS.
Mai Quốc Liên cho rằng: “Nguyễn Trãi đã với


tay ra hàng hai mươi thế kỷ để dùng lại một
thể loại cổ xưa hầu như đã chết trong văn học
Trung Quốc- cáo- và đưa vào đó một nội dung
hồn tồn mới”(7). Thật vinh dự cho Nguyễn
Trãi và Bình Ngơ đại cáo vì đã làm nên sự
độc đáo trong văn học trung đại Việt Nam là
chỉ một tác phẩm làm nên một thể loại, và
nhìn trong sự liên thơng thể loại văn học ViệtTrung thời trung đại, đã làm nên đỉnh cao của
một thể loại. Với những gì chúng ta đã biết,
có thể nói rằng Nguyễn Trãi chỉ kế thừa tên
gọi và chức năng thể loại của thể cáo Trung
Hoa.



Bình Ngơ đại cáo được viết để bố cáo việc
hồn tất một chiến công vệ quốc vĩ đại, bởi
vậy đương nhiên phần lớn ngôn từ sẽ dành
cho việc ghi chép lại quá trình chiến đấu gian
khổ và chiến thắng của quân dân ta và quá
trình thất bại dẫn đến thảm bại hoàn toàn của
quân Minh. Giá trị sử học của đoạn văn này
rất nổi bật thể hiện ở sự ghi chép trung thực
nhiều sự kiện lịch sử và khái quát sâu sắc
nhiều chân lý lớn của thời đại. Bên cạnh đó
nghệ thuật sáng tạo văn chương của tác giả
cũng hết sức xuất sắc. Những chặng đường
chính của q trình chinh chiến hàng chục


năm được kể lại tường tận mà khơng bề bộn
vì bút pháp của tác giả rất linh hoạt: vừa kể lại
những chiến thắng của quân ta, vừa đúc kết
những nguyên lý quân sự và những chân lý
nhân sinh; vừa tự sự về những thất bại liên
tiếp của quân giặc vừa kết hợp luận tội chúng,
đặt chúng trong sự tương phản với quân ta. Sự
lúng túng, thất bại của quân xâm lược khơng
chỉ thấy qua những sự kiện mà cịn thể hiện
bằng những bức biếm họa từ vua quan đến
tướng sĩ phương Bắc.
Cho đến gần đây quả là vẫn cịn có vấn đề
trong cách ứng xử với một câu văn của Bình



×