Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Hội chứng thắt lưng cục bộ potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.32 KB, 9 trang )

Hội chứng thắt lưng cục bộ


1. Đau thắt lưng cấp (lumbago).
1.1. Định nghĩa:
Đau thắt lưng cấp là thể đau cấp tính của hội chứng thắt lưng cục bộ (gọi là hội
chứng thắt lưng cục bộ cấp tính), chỉ khu trú ở vùng thắt lưng, không kèm theo
những dấu hiệu rễ và dây thần kinh, mà căn nguyên chính là do thoái hóa đĩa đệm
cột sống thắt lưng.
1.2. Triệu chứng:
- Khởi phát: thường sau những vận động với một tư thế bất lợi nào đó, xuất hiện
đau đột ngột vùng thắt lưng, gây cản trở vận động của cột sống và gây tư thế sai
lệch đặc trưng của cột sống. Sau đó để duy trì tư thế chống đau và do phản xạ, các
cơ vùng thắt lưng tăng cường trương lực và co cơ.
- Vị trí đau chủ yếu ở vùng cột sống thắt lưng và xương cùng, có thể ở chính giữa
hoặc ở hai bên của khu vực đó, đau có thể lan tỏa ra phía trước hoặc lên phía đầu,
hoặc có khi xuống dưới tới khối cơ đùi theo kiểu giả rễ thần kinh.
- Các điểm đau cột sống: khám ấn lên mỏm gai các đốt sống để tìm điểm đau cột
sống, các điểm này tương ứng với các đoạn vận động bệnh lý. Các điểm đau cạnh
sống nằm ở hai bên của điểm đau cột sống, cách khoảng 2-2,5cm, các điểm đau
này là điểm xuất chiếu đau của các rễ thần kinh tương ứng.
- Giảm tầm vận động của cột sống thắt lưng:
+ Giảm độ giãn cột sống khi cúi, nghiệm pháp Schoeber (+) (độ giãn cột sống
<14/10).
+ Bình thường động tác ngửa được 25-30
0
, nghiêng sang bên được 25-30
0
, quay
sang bên được 30
0


. Khi đau cột sống, các động tác cúi, ngửa, nghiêng, xoay đều
hạn chế. Nhất là trong các tổn thương bệnh lý có khóa cứng vận động như lao cột
sống, viêm cột sống dính khớp, hư cột sống biến dạng.
- X quang: thấy rõ sự lệch vẹo của cột sống, nhiều khi sẽ thấy cả hình ảnh thoái
hóa cột sống như gai xương, mỏ xương, gai đôi
1.3. Nguyên nhân:
Theo Nachemson và Morris thì nguyên nhân gây đau thắt lưng cấp là do biến đổi
áp lực nội đĩa đệm cột sống thắt lưng theo tư thế:
+ Khi nằm ngửa áp lực nội đĩa đệm là: 15kg lực.
+ Khi đứng thẳng là 100kg lực.
+ Khi cúi ra trước là 140kg lực, nhưng nếu đồng thời xách thêm 20kg thì áp lực
nội đĩa đệm tăng lên đột ngột tới 200kg lực.
Trong đau thắt lưng cấp, khi áp lực trọng tải theo trục cột sống, sự dịch chuyển
khối lượng (các thành phần trong đĩa đệm đột nhiên bị xáo trộn mạnh do áp lực
nội đĩa đệm tăng lên đột ngột và quá mức như tư thế cúi và nâng một vật) sẽ trực
tiếp kích thích vào dây chằng dọc sau nên gây xơ. Ngoài ra tính chất đau cấp tính
vùng thắt lưng còn do những khớp nhỏ đốt sống bị ép đột ngột hoặc giằng xé do
vận động cột sống thắt lưng ở tư thế bất lợi và do nhiễm lạnh, ẩm thấp gây ra.
2. Đau thắt lưng mạn tính tái phát (lombalgie).
2.1. Đại cương:
- Định nghĩa: Đau thắt lưng mạn tính tái phát có khi là một thể của hội chứng đau
thắt lưng cục bộ (gọi là hội chứng thắt lưng cục bộ mạn tính), cũng có thể cùng
nằm trong hội chứng thắt lưng hông (gọi là hội chứng cột sống), biểu hiện bằng
những đợt đau dài và hay tái phát, xuất hiện đau thường từ từ và lui bệnh chậm, có
bệnh cảnh lâm sàng không rõ nét đặc trưng.
- Đặc điểm: Thường xuất hiện ở độ tuổi từ 35-40, do liên quan với giai đoạn tiến
triển của thoái hóa đĩa đệm. Đau xuất hiện ở tư thế nhất định và dễ mất đi khi thay
đổi tư thế.
- Nguyên nhân: Chủ yếu là do sự biến đổi sức đàn hồi và thể tích đĩa đệm. Những
tác động có tính chất dây chuyền từ đĩa đệm đến các khớp nhỏ đốt sống.

- Phân loại: có 4 thể:
+ Đau thắt lưng mạn tính tái phát do trọng tải.
+ Đau thắt lưng mạn tính tái phát do trút bỏ trọng tải.
+ Đau thắt lưng mạn tính tái phát do gù, ngồi lâu, đứng ở tư thế khom mình nâng
một vật nặng.
+ Đau thắt lưng mạn tính tái phát do ưỡn cột sống.
2.2. Đau thắt lưng mạn tính tái phát do trọng tải:
- Nguyên nhân:
Bình thường đĩa đệm cần có một áp lực trọng tải dọc trục cột sống ở mức độ nhất
định để tăng cường chuyển hóa trong đĩa đệm. Nhưng nếu cột sống phải chịu áp
lực trọng tải quá mức do những tư thế bất lợi sẽ gây nên đau cột sống. Các tư thế
đó có thể là:
+ Ngồi lâu, đi đứng ở tư thế khom mình hay nâng, mang vác vật nặng. Nhưng nếu
sau đó cột sống được chuyển sang tư thế nằm ngang thì trạng thái đau sẽ mất.
+ Đi bộ đường dài, đứng lâu, đặc biệt là đi giầy cao gót làm cho khung chậu phải
ngả ra trước và cột sống thắt lưng phải ở tư thế ưỡn. Nếu cột sống thắt lưng được
chuyển về tư thế ngả về phía trước thì sẽ đỡ đau.
+ Đi xuống dốc, đi xuống núi, và các nghề nghiệp buộc phải thường xuyên làm
việc ở tư thế ngả lưng ra sau hay với cao quá đầu, từ đó xuất hiện đau do ưỡn thắt
lưng.
+ Các cơ giữ tư thế thân quá mệt mỏi, kiệt sức sau nhiều giờ làm việc liên tục
trong ngày.
- Triệu chứng:
+ Khởi phát: thường khởi phát từ từ, hay tái phát thành nhiều đợt. Đau thường
xuyên liên quan đến tư thế sai lệch của cột sống, thời tiết khí hậu ẩm thấp, lạnh
hay khi thay đổi thời tiết nhưng chủ yếu là liên quan đến tư thế và tải trọng mà cột
sống phải gánh chịu.
+ Vị trí và lan xuyên: Đau lưng cục bộ chỉ khu trú ở cột sống và cạnh sống thắt
lưng, đau xuất phát từ các cấu trúc nhạy cảm của đoạn vận động như: gân, cơ, dây
chằng, khớp đốt sống, màng cứng… Đau thắt lưng hông là đau thắt lưng lan

xuống chân theo các rễ thần kinh thắt lưng cùng, đau rễ chỉ xuất hiện ở giai đoạn
mà quá trình tổn thương xâm phạm đến các rễ thần kinh. Vị trí và hướng lan tỏa
của đau tương ứng với khu vực phân bố của rễ thần kinh bị tổn thương.
+ Cường độ và tính chất:
* Thường đau mức độ nhẹ và vừa. Đau ê ẩm, nhức mỏi, đau tăng khi đứng lâu,
ngồi lâu, khi đi lại, làm việc trong tư thế gò bó không đổi. Kiểu đau này đặc trưng
cho hư đĩa đệm cột sống thắt lưng.
* Đau thắt lưng cường độ mạnh, đau sâu liên tục nằm nghỉ không đỡ, các biện
pháp chống đau thông thường không có hiệu quả là kiểu đau đặc trưng của bệnh lý
có tổn thương phá hủy ở đĩa đệm và đốt sống như lao đốt sống, u ác tính, viêm do
vi khuẩn không đặc hiệu.
* Đau thắt lưng mạn tính, hạn chế vận động cột sống thắt lưng, đau khớp cùng
chậu có khi đau các rễ thần kinh hông to cả 2 bên, đau tăng về đêm, thường gặp
trong bệnh viêm cột sống dính khớp.
+ Các biến dạng cột sống:
* Mất ưỡn cong sinh lý: thường kèm theo co cứng phản xạ các cơ cạnh sống thắt
lưng.
* Ưỡn quá mức: rất ít gặp trong thoát vị đĩa đệm, nhưng thường gặp trong chấn
thương, lao…
* Gù: có thể gặp gù nhọn hoặc gù tròn:
Gù nhọn: gặp trong tổn thương cục bộ ở 1-2 đoạn vận động do chấn thương, viêm
đốt sống - đĩa đệm do lao, xẹp đốt sống do ung thư
Gù tròn: gặp ở người già do hư đĩa đệm lâu năm, loãng xương; ở người trẻ gặp
trong bệnh Scheuerman thể thắt lưng, một số trường hợp viêm cột sống dính khớp.
* Vẹo cột sống: thường gặp trong đau thắt lưng hông do đĩa đệm. Trong hư đĩa
đệm, vẹo cột sống thắt lưng phát triển từ từ trên nền đau lưng mạn tái phát. Trong
thoát vị đĩa đệm, vẹo cột sống là biểu hiện của tư thế chống đau do co cứng các cơ
cạnh sống.
+ ấn, gõ lên gai sống thấy đau, có khi dấu hiệu này thấy cả ở vùng xương cùng hay
khớp cùng chậu.

+ Vận động cột sống bị hạn chế: cả các động tác cúi (Schoeber +), ngửa, sang bên
và xoay.
+ X quang: có thể thấy hình ảnh thoái hóa cột sống thắt lưng như: hẹp khe khớp,
đặc xương dưới sụn, mọc gai xương, gai đôi cột sống, thắt lưng hóa S1, cùng hóa
L5, viêm khớp cùng chậu, loãng xương.
- Tiến triển: Trong trường hợp nặng có thể xuất hiện những triệu chứng đau rễ
thần kinh kèm theo, chứng tỏ đã có biến chứng kích thích hay chèn ép rễ.
2.3. Đau thắt lưng mạn tính tái phát do trút bỏ trọng tải:
- Là chứng đau thắt lưng do tư thế nằm ngang bất động quá lâu làm mất áp lực tải
trọng bình thường trong đĩa đệm.
- Triệu chứng:
+ Thường xuất hiện đau thắt lưng vào sáng sớm ở những bệnh nhân phải nằm
ngang ở tư thế không đổi, sau khi tỉnh dậy bệnh nhân thấy rất mệt mỏi và đau
vùng thắt lưng với cường độ cao.
+ Đau hạn chế vận động cột sống thắt lưng về các phía tạo nên tư thế sai lệch đặc
biệt.
+ Co cứng cơ lưng không thể cúi được.
+ Đau tăng khi ho, hắt hơi, rặn. ở tư thế nằm ngang, đau thắt lưng còn xuất hiện
khi người bệnh phải đổi chiều nằm không theo ý muốn.
+ Sau những động tác nhẹ nhàng trong một thời gian ngắn khoảng 1/2 giờ, tất cả
những triệu chứng trên sẽ biến mất, người bệnh có thể vận động cột sống thắt lưng
như trạng thái cũ.
- Nguyên nhân và cơ chế:
Khi người bệnh phải nằm bất động lâu thì áp lực keo trong đĩa đệm tăng lên, làm
cho dịch thể ở khoang ngoài đĩa đệm sẽ bị thấm qua màng bao đĩa đệm vào
khoang trong đĩa đệm. Do cột sống không vận động làm lượng dịch này không bị
chuyển hóa nên bị ứ trệ dẫn đến khoang tròn đĩa đệm chứa căng dịch thể, phình
lên và chèn ép vào dây chằng dọc sau vốn mang tính dễ nhậy cảm đau. Đến khi
người bệnh đứng dậy, thì áp lực thủy tĩnh nội đĩa đệm bị tăng lên do tác động của
trọng tải dọc trục cột sống, nên dịch thể trong đĩa đệm lại dần dần được chuyển

thấm ra khoang ngoài đĩa đệm lập lại sự cân bằng bình thường áp lực giữa hai
khoang trong và ngoài đĩa đệm, do đó đau sẽ bị giảm nhanh chóng.

×