Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thực trạng và giải pháp cho quan hệ thương mại Việt Nam với Nhật Bản - 1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.27 KB, 10 trang )

Lời nói đầu
vào những năm đầu những năm của thập kỷ 90 trở lại đây, việc mở rộng hội nhập
và hợp tác kinh tế đã và đang trở thành một xu thế tất yếu của quá trình phát triển
nền kinh tế. Những lợi ích kinh tế của việc hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại
cho mỗi thành viên tham gia, những lợi ích kinh tế mà không một quốc gia nào
có thể phủ nhận. Việt Nam cũng vậy, để đẩy mạnh quá trình Công nghiệp hoá
Hiện đại hoá, Đảng và nhà nước ta đã và đang thực hiện chính sách đối ngoại
rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, lấy mục tiêu vì
hoà bình và phát triển làm tiêu chuẩn cho mọi hoạt động đối ngoại. Đồng thời,
trong bối cảnh phân công lao động quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, việc hợp tác
kinh tế quốc tế… đã và đang trở thành cách tốt nhất để các quốc gia phát huy
được tối đa lợi thế của mình, cũng như khai thác triệt để những lợi ích của các
quốc gia khác để phục vụ cho nước mình.
Không nằm ngoài xu thế trên, cả Việt Nam và Nhật Bản đều đã tìm thấy ở
nhau những điều kiện thuận lợi, cũng như lợi ích kinh tế của bản thân mỗi nước
khi xây dựng, phát triển và củng cố mối quan hệ hợp tác song phương giữa hai
nước. Bên cạnh những kết quả khả quan đã đạt được, trong quan hệ buôn bán giữa
Việt Nam - Nhật Bản còn có một số hạn chế cần được khắc phục, loại bỏ nhằm
phát triển hơn nữa cho xứng với tiềm năng của hai nước, đưa mối quan hệ này
lên tầm cao mới. Việc nghiên cứu những thành tựu và những mặt tồn tại đó là rất
cần thiết. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Quan hệ Thương mai giữa Việt Nam và Nhật
Bản thực trạng và giải pháp”.
Với yêu cầu của khoá luận về mặt kiến thức tổng hợp, kiến thức am hiểu sâu rộng
về thực tế chính sách là rất cao. Nhưng do sự hạn chế về mặt thời gian, tài liệu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
cũng như năng lực nghiên cứu của mình nên trong đề tài em chỉ tập trung vào lĩnh
vực (quan hệ Thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn từ năm 1992 trở
lại đây). và em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cũng như bạn
đọc để cho đề tài được hoàn thiện hơn nữa.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy các cô
và đặc biệt là thầy giáo TS Nguyễn Xuân Thiên đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn


thành tốt khoá luận tốt nghiệp này.
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Nhật Bản
1.1 Cơ sở lý luận.
Có thể nói, chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu thập niên 90 của thế kỷ thứ 20, tạo
ra một diện mạo mới cho các quan hệ kinh tế quốc tế. Nó tác động lớn tới nhiều
quốc gia, làm thay đổi hẳn cục diện thế giới. Mở đầu, được đánh dấu bằng sự tan
rã của của chế độ chính trị ở đất nước Liên Xô và một loạt các nước Xã hội Chủ
nghĩa ở Đông Âu. Tình hình an ninh chính trị trên thế giới, về cơ bản đã ở trong
trạng thái ổn định. Nguy cơ của bùng nổ chiến tranh hạt nhân (thế chiến thứ 3) đã
bị đẩy lùi. Người ta đã cảm thấy yên tâm hơn, để tập trung vào đầu tư phát triển
kinh tế và củng cố đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề
bất cập, gây ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ ngoại giao giữa các nước như: hệ
thống tôn giáo của các nước rất phức tạp, quyền lợi các bên hay bị xung đột, gây
ra chiến tranh liên miên, làm cho nhiều khu vực trên thế giới không ổn định như:
khu vực Châu Phi, vùng Trung Cận Đông… mà điển hình là các lò lửa chiến tranh
ấn Độ – Pakistan; ixaren – Plestin, mà gần đây nhất là sự kiện ngày 11/09/2001
làm chấn động nước Mỹ. làm dấy lên làn sóng khủng bố khắp nơi trên thế giới;
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
rồi sự kiện chiến tranh irắc; vấn đề hạt nhân ở Bắc Triều Tiên…đã trở thành vấn
đề mà các quốc gia luôn phải cân nhắc. Các xu thế cạnh tranh đối địch giữa các
quốc gia, mâu thuẫn luôn luôn cùng tồn tại và phát triển. Nhưng nó không thể
nào, ngăn cản được xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Ngày nay, xu thế này đã trở thành một yêu cầu khách quan của nền kinh tế thế
giới. Thêm vào đó là, sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật – công nghệ,
đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển, cạnh tranh và hợp tác giữa các
nước trên thế giới mà nổi bật là vấn đề toàn cầu hoá. Vậy toàn cầu hoá là gì?
Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu đã được dự đoán từ lâu. Về logic, xu hướng này bắt
nguồn từ bản chất của hệ thống kinh tế thị trường là hệ thống “mở” không bị giới
hạn bởi các đường biên giới quốc gia. Đây là kết quả của quá trình phân công lao

động quốc tế, được đẩy nhanh trong mấy thập niên thập niên gần đây. Phân công
lao động quốc tế đã đạt đến trình độ, không chỉ chuyên môn hoá chi tiết sản phẩm
cho nhà máy, từng vùng mà còn đến từng quốc gia, khu vực. Trên cơ sở đó, xuất
hiện hình thái quan hệ hợp tác, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau trong phân công
lao động giữa các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hiện nay, sản xuất của một nước phụ thuộc rất nhiều vào lao động của một nước
khác, bất kể nước đó phát triển hay kém phát triển. Không còn tình trạng, chỉ có
nước nhỏ, nước kém phát triển phụ thuộc một chiều, phụ thuộc tuyệt đối vào các
nước lớn, nước phát triển mà đã xuất hiện và gia tăng xu hướng ngược lại: các
nước lớn, nước phát triển cũng phụ thuộc vào nước nhỏ, nước lạc hậu.
Quá trình toàn cầu hoá, đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển theo một chiều
hướng mới. Với lực lượng sản xuất phát triển như vũ bão chưa từng có, trên cơ sở
của nền công nghệ mới hiện đại được thể hiện ở một số mặt sau:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thứ nhất, có thể nói, xu hướng toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế là nhân tố đầu
tiên tác động đến việc thiết lập các chiến lược kinh tế đối ngoại của các nước.
Nhằm thích ứng với một môi trường kinh tế quốc tế mới, đã và đang thay đổi.
Mục tiêu cuối cùng của các nhà kinh doanh là lợi nhuận, thị phần và những ảnh
hưởng quốc tế ngày càng sâu rộng của mình tới thị trường các nước. Để đạt được
mục đích này, các quốc gia phải bắt kịp, thích ứng và thậm chí phải đón đầu, đi
trước thời đại với những công nghệ mới hiện đại và cả những triển vọng phát triển
mới của nền kinh tế thế giới trong tương lai.
Thứ hai, trong quá trình toàn cầu hoá, tiến bộ công nghệ nói chung, đặc biệt là sự
bùng nổ của cách mạng tin học trong những năm gần đây, đã đẩy mạnh, đẩy
nhanh quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tin học
trong nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là nhân tố nổi bật, giúp cho việc điều hành
dễ dàng, các hoạt động kinh tế quốc tế phân tán ở nhiều nước khác nhau trên thế
giới. Bằng cách sử dụng rộng rãi các thiết bị tin học, viễn thông ở nhiều quốc gia.
Nhờ đó mà, các quốc gia phát triển và các nhà kinh doanh, doanh nghiệp… không
những có thể mở rộng các hoạt động kinh tế về quy mô ra nước ngoài, mà còn có

thể tăng cường các hoạt động kinh tế về chiều sâu, đổi mới về phương thức tổ
chức và quản lý.
Thứ ba, dưới tác động của toàn cầu hoá và cách mạng tin học, quá trình liên kết
khu vực cũng đang diễn ra mạnh mẽ giữa các nước, đòi hỏi các quốc gia phải sử
dụng tối ưu các nguồn lực để hội nhập có hiệu quả vào quá trình hợp tác và phân
công lao động quốc tế. Các tiến trình này sẽ làm nảy sinh nhu cầu kết hợp chặt
chẽ giữa các chính sách thương mại với đầu tư và viện trợ…, đẩy mạnh tự do hoá
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thị trường, bằng cách dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các
nước.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế như con dao hai lưỡi. Một mặt nó là cỗ xe có
động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, tạo cơ hội to lớn để cải thiện
điều kiện sống của người dân ở các nước giầu lẫn nước nghèo. Nhưng mặt khác,
nó cũng là cả một tiến trình đầy gian nan và thách thức. Nó sẽ tiến công vào chủ
quyền của mỗi quốc gia, có thể làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống của dân
tộc, dẫn tới nguy cơ phân hoá xã hội, tạo ra hố ngăn cách giữa các quốc gia cũng
như các tầng lớp trong xã hội và nó ngày càng trở nên mạnh mẽ và sâu sắc hơn.
Như vậy toàn cầu hoá là một xu hướng khách quan và xu hướng này đang trong
quá trình vận động không ngừng, tạo những cơ hội và cả những thách thức cho tất
cả các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia cần phải biết khai thác những ưu thế và hạn
chế những thách thức của toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, từ đó tạo ra cơ hội để tham
gia ngày càng có hiệu quả hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng đang diễn ra đặc biệt mạnh
mẽ. Xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư được thúc đẩy bởi sự gia tăng
mạnh mẽ các hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực hiện có cũng
như đang hình thành. Các khối, tổ chức kinh tế ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong những cuộc thương lượng, sắp xếp và giải quyết các vấn đề khu vực và quốc
tế, đặc biệt là trong việc thúc đẩy tự do hoá thương mại và giao lưu kinh tế quốc
tế. Bất kỳ một nước nào muốn phát triển được trong tương lai thì đều phải tìm
cách trở thành thành viên của ít nhất một trong những tổ chức kiểu như vậy. Quá

trình toàn cầu hoá đã dẫn đến việc hình thành các khối kinh tế – mậu dịch tự do
trong khu vực. Hiện nay, nền kinh tế thế giới có rất nhiều khối liên minh, liên kết
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
kinh tế hoặc mậu dịch tự do. Ví dụ như, liên minh Châu Âu (EU): được coi là một
tổ chức liên kết khu vực rất điển hình, đường biên giới giữa các quốc gia đã bị xóa
bỏ không còn hàng rào thuế quan. Mặc dù tiến trình này, diễn ra không hoàn toàn
suôn sẻ như mong muốn, song việc hình thành một thị trường thống nhất đang
ngày được hoàn thiện hơn. Mục tiêu của toàn cầu hoá kinh tế đó là, lưu thông tự
do hàng hoá; các yếu tố - công nghệ sản xuất cả những kinh nghiệm, kỹ năng
quản lý… trên phạm vi toàn cầu. Nhưng trong tương lai gần, mục tiêu này chưa
thể thực hiện được. Chính vì vậy, việc từng nhóm nước liên kết lại với nhau, cùng
đưa ra những ưu đãi cho nhau cao hơn những ưu huệ quốc tế hiện hành như: loại
bỏ những hàng rào ngăn cách, lưu thông hàng hoá và các yếu tố sản xuất… giữa
các nước. Đây là một khâu quan trọng, đặt nền móng cho quá trình toàn cầu hoá
về kinh tế được xúc tiến nhanh hơn. Từ đó có thể khẳng định rằng, khu vực hoá
và hợp tác kinh tế toàn cầu hoàn toàn không mâu thuẫn với nhau mà hỗ trợ cho
nhau, thúc đẩy lẫn nhau và bổ trợ cho nhau. Khu vực hoá chỉ nảy sinh trong bối
cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định nào đấy.
Nhưng, trong trình độ hợp tác của khu vực hoá lại cao hơn so với toàn cầu hoá
kinh tế và khu vực hoá phát triển rộng rãi trên thế giới sẽ lại giúp cho hợp tác kinh
tế toàn cầu phát triển ngày càng sâu sắc hơn.
Hai tổ chức khu vực có tác động và ảnh hưởng trực tiếp nhất, liên quan mật thiết
đến quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta, đặc biệt là quan hệ kinh tế Việt Nam –
Nhật Bản. Đó là, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á thái Bình Dương (APEC) và
Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN).
APEC được thành lập vào tháng 11 năm1989. Lúc đầu, chỉ có 18 nước thành viên.
Hiện nay, có 21 nước trong đó có Nhật Bản và Việt Nam. Đây là tổ chức hợp tác
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
kinh tế khu vực có quy mô lớn nhất thế giới. Dân số xấp xỉ 2165,5 triệu người
(bằng 45,6 % dân số thế giới); diện tích l•nh thổ 43.631,8 triệu km2 (chiếm

khoảng 46,7 % diện tích lãnh thổ của toàn thế giới); GDP 15.526,23 tỷ USD
(chiếm khoảng 55,8 % GDP của toàn thế giới); và kim ngạch xuất khẩu 2.255,6 tỷ
USD (chiếm khoảng 43,8 % tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn thế giới). Chính
vì vậy, mô hình hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương và tiềm năng to lớn của
sự hợp tác kinh tế - kỹ thuật của APEC, đã và đang cuốn hút sự chú ý của toàn thế
giới. Thế kỷ 21 này, chắc chắn sẽ là thế kỷ phát triển đầy năng động của khu vực
Châu á Thái Bình Dương mà APEC là tổ chức hạt nhân. Việt Nam và Nhật bản
đều là thành viên chính thức của APEC. Do đó, các quan hệ kinh tế song phương
giữa hai nước cũng chịu sự ràng buộc, chi phối của những nguyên tắc mà tổ chức
này đ• đề ra.
Cùng với APEC, tổ chức kinh tế khu vực thứ hai có vai trò quan trọng, ảnh hưởng
trực tiếp đến các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam và Nhật Bản là hiệp hội
các nước Đông Nam á (ASEAN).
ASEAN được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967, lúc đầu thành lập mới có 5
nước thành viên. Hiện nay, đ• phát triển và mở rộng ra toàn bộ các nước Đông
Nam á. Bao gồm 11 nước, trong đó có Việt Nam. Ngay trong ngày đầu thành lập,
ASEAN đ• long trọng tuyên bố mục tiêu hàng đầu của hiệp hội là: “thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá trong khu vực thông qua
các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng, hợp tác nhằm tăng cường cơ sở vật chất
cho một cộng đồng các nước Đông Nam á hoà bình, hợp tác và thịnh vượng”. Kể
từ đó cho đến nay, các nước này luôn coi hợp tác kinh tế là một trong những nội
dung chủ yếu trong các hoạt động của mình. Là một nước thành viên của ASEAN,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
các quan hệ kinh tế của Việt Nam với Nhật Bản, nhất là trong quan hệ của
ASEAN cộng 3 gồm (Trung Quốc; Nhật Bản; Hàn Quốc) vừa chịu sự chi phối
của những nguyên tắc chung trong hợp tác kinh tế của hiệp hội với các nước trong
khu vực và các khu vực khác, vừa nằm trong bối cảnh chung quốc tế, chịu sự chi
phối của các chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản với các nước trong khu
vực này.
Mặc dù có sự thành công không giống nhau, song thực tiễn hoạt động của các

hình thức liên kết khu vực như trên cho thấy, quá trình khu vực hoá giúp các quốc
gia trong khu vực có cùng những điều kiện nhất định hỗ trợ nhau cùng phát triển,
tạo ra lợi thế cạnh tranh chung (lợi thế so sánh khu vực) trên pham vi toàn cầu.
Đồng thời, tạo điều kiện để có được quan hệ giao lưu kinh tế phát triển rộng rãi,
không chỉ giữa các quốc gia trong khu vực với nhau mà giữa khu vực với khu vực
và giữa các quốc gia trong khu vực với các quốc gia khác trên thế giới.
Cùng với sự phát triển không ngừng của xu thế này, sự dựa vào nhau, hỗ trợ nhau,
tác động và ảnh hưởng lẫn nhau của kinh tế các nước ngày càng sâu sắc. Trách
nhiệm của chính phủ các nước, phải dựa trên cơ sở của tinh thần: cùng nhau gánh
chịu trách nhiệm và sự rủi ro (nếu có) để tiến hành hợp tác, phối hợp quốc tế rộng
rãi và có hiệu quả trong việc tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Tóm lại, toàn cầu hoá và khu vực hóa luôn gắn liền với nhau, tạo động lực thúc
đẩy nhau làm cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Trong xu thế
ngày nay, mỗi dân tộc (quốc gia), đều tìm cố gắng tìm cho mình một chỗ đứng để
nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Vị thế chính trị của mỗi nước, phụ
thuộc rất nhiều vào sức mạnh kinh tế của nước đó. Vì vậy, mỗi nước đều phải cố
gắng thích nghi với luật chơi chung của các nước trong khối, thế giới. đồng thời
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phải cố gắng bảo vệ lợi ích dân tộc mình, giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống
của dân tộc.
1.2 Cơ sở thực tiễn
Bao gồm các nhân tố cả chủ quan cũng như thực tiễn khách quan của hai phía
Việt nam và Nhật Bản.
1.2.1 Các nhân tố từ phía Nhật Bản.
Sự sụp đổ của Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào đầu
những năm 1990, làm cho chiến tranh lạnh kết thúc. Không còn sự chạy đua vũ
trang giữa hai cực nữa. người ta coi cuộc chiến tranh lạnh mà thực chất là sự đối
đầu về tư tưởng, chính trị quân sự giữa Liên Xô và Hoa Kỳ đã chấm dứt. Tình
hình thế giới đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển, ở đó hợp tác và cạnh
tranh trở thành hai mối quan tâm lớn của các quốc gia. Cơ cấu hai cực chấm dứt

và phát triển, xu hướng tiến tới đa cực. Trước sự biến chuyển tình hình kinh tế thế
giới, chủ yếu dựa vào sức mạnh kinh tế của mình, các nhà hoạch định chính sách
kinh tế Nhật Bản đã xây dựng chiến lược kinh tế, với mục tiêu vươn lên trở thành
một cường quốc cả về kinh tế lẫn chính trị.
Mục tiêu của Nhật Bản trong những năm tiếp tới đây là, vươn lên vị trí trở thành
một cường quốc chính trị, kinh tế. Mục tiêu này được thể hiện rất rõ trong chiến
lược kinh tế nói chung và trong chiến lược kinh tế đối ngoại nói riêng của Nhật
Bản. Nhật Bản từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào Mỹ, vươn lên vị trí ngang
hàng với Mỹ (Nhật Bản có thể trả lời “không” trong đàm phán với Mỹ). Để thực
hiện được chiến lược đó, Nhật Bản ra sức phát triển quan hệ với các khu vực kinh
tế thông qua hoạt động thương mại, đầu tư trực tiếp và các khoản viện trợ cho các
nước. Bên cạnh đó, trước sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của các quốc gia khu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
vực Châu á trong vài thập kỷ qua và với những lợi thế gần gũi về mặt địa lý, văn
hoá xã hội, Nhật Bản đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với các nước. Họ đã
có một chiến lược kinh tế đối với các khu vực Châu á. Đây được coi là chiến lược
trọng tâm để phát triển chiến lược kinh tế đối ngoại của Chính phủ Nhật Bản
trong thời gian tới.
Thay đổi chiến lược của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh lạnh là, chú trọng vào
khu vực Châu á - Thái Bình Dương, phát triển các quan hệ phụ thuộc lẫn nhau
cùng nhau phát triển trong khu vực; phát huy vai trò toàn diện của các tổ chức hợp
tác khu vực. Hợp tác với các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc và tổ chức mậu
dịch thế giới Điều này, thể hiện trong chính sách áp dụng vào Châu á của Nhật
Bản, nhằm phát huy tối đa vai trò của mình ở Châu á và sử dụng Châu á làm căn
cứ để Nhật Bản vươn lên trở thành một cường quốc. Nhật Bản tranh thủ sự phát
triển kinh tế của ở Đông á để đối phó với những chính sách bảo hộ mậu dịch của
Mỹ và bảo vệ lợi ích của Nhật Bản ở Châu á - Thái Bình Dương bằng các cơ chế
kinh tế. đồng thời đóng vai trò chủ đạo trong công cuộc xây dựng trật tự mới ở
Châu á. Thông qua cuộc họp thượng đỉnh APEC ở Seattle, Nhật Bản cảm thấy Mỹ
đang chuyển chính sách hướng về Châu á. Sợ rằng, vai trò lãnh đạo Châu á - Thái

Bình Dương sẽ có thể rơi vào tay Mỹ sẽ làm mất đi vai trò ảnh hưởng của mình.
Hơn nữa, trước việc Mỹ, Canada, Mêhicô tăng cường bảo hộ mậu dịch với việc
thành lập khu vực mậu dịch tự do của ba nước và sự lớn mạnh của cộng đồng
kinh tế Châu á đã buộc Nhật Bản phải có chính sách phát triển hợp lý trong trong
nội bộ nước mình và đối với các nước Châu á.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, Nhật Bản luôn giữ vai trò là đại diện ở khu vực
Châu á. Nhưng quan hệ với các nước khu vực Châu á thì Nhật Bản lại đóng vai
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×