Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Chất sử thi và chất tiểu thuyết trong "Dấu chân người lính" của Nguyễn Minh Châu ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.92 KB, 9 trang )

Chất sử thi và chất tiểu
thuyết trong "Dấu chân người
lính" của Nguyễn Minh Châu
Thể loại tiểu thuyết sử thi (Roman - épopée) hình thành ở Nga vào
thế kỷ XIX và sang thế kỷ XX thì phổ biến rộng rãi trong các nước XHCN.
Thể loại này mang trong mình một cấu trúc rất phức tạp, bởi có sự kết hợp
hai tính chất trái ngược nhau như lửa với nước, đó là “chất sử thi” và “chất
tiểu thuyết”. Trong lịch sử văn học thế giới, người ta đã chứng kiến sự hình
thành và phát triển của tiểu thuyết trên cơ sở phá bỏ phong cách cao cả và
tính khuôn mẫu của sử thi bằng tiếng cười Carnaval. Nhưng sự dung hoà
trở lại hai tính chất này đã tạo nên “bi kịch thể loại”. Trong đời sống văn học
Việt Nam thời chiến tranh, diễn ra nhiều vụ phê bình quy chụp, uốn nắn
làm cho nhiều tác phẩm bị thăng trầm cũng bắt đầu từ việc xử lý chưa hợp
thời mối tương quan giữa chất sử thi và chất tiểu thuyết của nhà văn.
Nguyễn Minh Châu là người tỏ ra nắm vững đặc điểm thể loại. Nhờ biết
cách dung hợp hai tính chất trái ngược này mà ông đã làm nên sự thành
công vang dội của cuốn tiểu thuyết sử thi Dấu chân người lính.
Trước hết, Dấu chân người lính có sự dung hợp giữa thể tài sử thi
(lịch sử dân tộc) và thể tài tiểu thuyết (thế sự, đời tư). Chủ đề cơ bản
của Dấu chân người lính là lịch sử dân tộc. Nội dung chủ yếu nói về cuộc
hành quân, vây đánh giặc ở núi rừng Quảng Trị. Đề tài chiến tranh chi phối
hầu hết tất cả mọi hoạt động của các nhân vật ở các vùng miền, dân tộc,
lứa tuổi, giới tính, thành phần xã hội. Lấy ví dụ như gia đình chính uỷ Kinh,
mỗi người đảm nhận một nhiệm vụ riêng. Hai cha con Kinh, Lữ ra trận đánh
giặc để thống nhất đất nước. Vợ ở nhà là chiến sĩ “ba đảm đang” trong sản
xuất để chi viện chiến trường. Cậu con trai thì đi du học để chuẩn bị kiến
thiết một đất nước giàu mạnh trong tương lai. Mọi quan hệ gia đình đều
được “quân sự hoá”. Các nhân vật khác cũng vậy, tất cả các làng quê ở
miền Bắc đều có mặt trong cuộc hành quân vĩ đại nhất trong lịch sử dân
tộc. Để dung chứa những sự kiện lớn lao ấy, tác giả đã tạo nên một không
gian chiến trường hoành tráng và giới thiệu khá đầy đủ những tri thức về


chiến tranh: các loại binh chủng, tổ chức quân đội, kinh nghiệm chiến
trường, tinh thần chiến đấu của hai phe, các loại vũ khí, khung cảnh chiến
trường Nói tóm lại, nó gần như một bộ tiểu thuyết lịch sử về chiến tranh
cách mạng.
Bên cạnh đề tài lịch sử dân tộc, Dấu chân người lính còn có đề tài thế
sự, trước hết thể hiện ở sự phản ánh các bi kịch xã hội trong gia đình già
Phang. Cha tham gia cách mạng, làm chủ tịch uỷ ban xã nhưng thằng Kiếm
con ông là trung đội trưởng biệt kích ngụy, được đồng bọn xem như “anh
hùng”. Tuy nhiên, do quan hệ đạo lý ràng buộc mà Kiếm luôn lẩn tránh một
cuộc chạm trán với “chủ tịch uỷ ban xã”. Trong khi đó, già Phang lại mang
súng đi lùng sục đứa con trai duy nhất của mình: “Cuộc săn đuổi giữa hai
người thật đáng sợ”. Ông hứa với cách mạng: “Tôi sẽ giết nó! Tôi đã quyết
định rồi. Tôi vẫn để giành cho nó một viên đạn trong khẩu súng săn của tôi”.
Không chỉ có mâu thuẫn cha con mà còn có mâu thuẫn vợ chồng. Chị cán
bộ huyện kể: “Chính người chồng đã một lần phục kích bắn lén chị”. Hai vợ
chồng Kiếm và Xiêm cũng đứng về hai phe khác nhau. Kiếm bỏ vợ để lấy
con đĩ lai. Các sĩ quan Mỹ ngụy thay nhau ăn nằm với vợ hai của Kiếm. Và
con đĩ lai này trúng đạn pháo trong tư thế trần truồng. Kiếm bắn chết chỉ
huy và hiểu thêm về nhân tình thế thái ở đời. Ranh giới giữa hai phe cách
mạng và quốc gia nhiều khi không rạch ròi cho thấy, sự phức tạp của cuộc
chiến. Nhiều lính ngụy Vân Kiều bỏ phe địch về buôn làng trình diện cách
mạng nhưng vẫn ngang nhiên khoe những “anh hùng” của phe mình. Và đi
dân công nhưng vẫn “khoác áo lính ngụy đi nghễu nghện” trước mặt các
chiến sĩ giải phóng. Nhiều khi hai phe gặp nhau nhưng không bắn nhau:
“Có một lần các trinh sát viên chạm trán một toán địch, hai bên “gặp” nhau
trong một hoàn cảnh đặc biệt: anh em bên ta đi xác định bình độ phía nam
hàng rào, toán lính ngụy có khoảng chừng chục tên đi đặt thêm hàng rào.
Hai bên trông thấy nhau nhưng đều tránh nhau”. Trong tác phẩm, ta thấy
khi nào có cuộc đụng độ giữa quân giải phóng và lính Mỹ thì súng nổ rất
giòn giã. Bởi vì đó là hai dân tộc xa lạ nhau, nói như Hêghen “Khi các dân

tộc ấy nổi lên chống lại nhau thì không có mối quan hệ nào về đạo lý bị phá
vỡ hết”
(1)
. Còn khi có cuộc đụng độ giữa người Việt với người Việt thì súng
nổ ít giòn giã hơn. Lấy ví dụ trong lần đơn vị Lượng đánh vào đồn lính
ngụy, anh đã không dùng hoả lực mạnh và đặt thêm bộc phá để giết sạch
ngụy binh (như những lần đánh Mỹ) mà phát loa gọi hàng, gọi đích danh
thằng Kiếm. Hậu quả là anh bị thương nặng, và có thể đặt giả thiết rằng
trong rất nhiều đạn găm vào người Lượng, có đạn của thằng Kiếm. Tức là
giúp người, người trả oán. Cuộc xung đột chính trị trong nội bộ gia đình,
dân tộc thường có sự trả giá đau đớn. Hêghen cho rằng, những xung đột
trong nội bộ gia đình, dòng họ, các cuộc nội chiến là không thích hợp cho
sử thi mà chỉ thích hợp cho bi kịch
(2)
. Trong Dấu chân người lính, Nguyễn
Minh Châu đã giải quyết các bi kịch thế sự này theo hướng của sử thi, bằng
cách cho Kiếm quay trở về cuộc sống làm ăn lương thiện, kết thúc mâu
thuẫn cha con, vợ chồng cũng chấm dứt cảnh “đời riêng chẳng có gì vui vẻ”
của ông già Phang. Tác giả kết thúc trong sự chiến thắng của cách mạng,
cả một vùng rộng lớn được giải phóng, lòng người náo nức. Bởi vậy, tác
phẩm vẫn mang âm hưởng hùng ca.
Dấu chân người lính còn khai thác cả đề tài đời tư, xoay quanh các
mối tình bộ ba: Lữ - Hiền - Moan và Xiêm - Lượng - Nết. Lữ thầm yêu trộm
nhớ cô văn công Hiền trong khi cô này lại cảm tình với Moan (bạn thân Lữ).
Nết thầm yêu trộm nhớ Lượng, được Khuê (em Nết) và các y bác sĩ làm
xúc tác, nhưng Lượng lại hướng về Xiêm. Lượng đã “gây ra trong tâm hồn
Xiêm một niềm hy vọng và một tình yêu hết sức mãnh liệt”. “Đôi mắt Xiêm
bao giờ cũng cháy rực. Đôi mắt cầu khẩn tình yêu và khao khát đòi giải
phóng. Cho nên mối tình của Lượng đối với Xiêm mỗi ngày càng trở nên
tha thiết và ngang trái”. Điều gay cấn ở đây là Xiêm đã có chồng - thằng

Kiếm, kẻ thù của Lượng. Vậy, Kiếm sẽ giết Lượng hay Lượng sẽ giết Kiếm
để chiếm đoạt “vị nữ thần của núi rừng ấy”? Điều đáng ngạc nhiên là già
Phang biết rõ mối tình vụng trộm của con dâu mình và người đồng chí của
mình nhưng làm ngơ để cho Xiêm tự lựa chọn. Xiêm rơi vào tình trạng bi
kịch. Đó là một chuyện tình “rất tiểu thuyết” nhưng lại được xử lý theo cách
của sử thi. Nghĩa là, Lượng vẫn đặt lợi ích của cách mạng lên trên lợi ích
cá nhân. Anh không muốn người ta đồn rằng: “một cán bộ giải phóng đã
cướp vợ một tên lính ngụy”. Điều bất ngờ hơn là trong một lần đánh đồn
giặc, Lượng có chủ ý tìm kẻ tình địch của mình để đem về cho người yêu
của mình. Một hành động vừa công vừa tư, vừa sử thi nhưng cũng vừa tiểu
thuyết. Và cách giải quyết bi kịch cũng phù hợp với quan điểm cộng đồng.
Nhân vật sử thi là những con người đẹp đẽ, rất đáng để chiêm
ngưỡng. Trong Dấu chân người lính, ta gặp rất nhiều nhân vật đáng kính
trọng như chính uỷ Kinh, Nhẫn, Lượng, Lữ, Hiền, Nết, già Phang, v.v Về
cơ bản, họ là con người sử thi nhưng một số trong họ cũng mang ít nhiều
chất tiểu thuyết. Mức độ đậm nhạt của chất tiểu thuyết tuỳ vào địa vị xã hội
(chức vụ cao hay thấp), và vai trò của nhân vật trong tác phẩm (nhân vật
chính hay phụ, chính diện hay phản diện). Cũng như L. Tônxtôi, Nguyễn
Minh Châu đã tô vẽ nhân vật có chức vụ cao nhất trong tác phẩm của mình
một chút sắc màu tiểu thuyết. Chính uỷ Kinh có nhiều nét giống Cutudốp; cả
hai đều bị chột một mắt (“độc nhỡn”), và đều có tác phong giản dị, bình dân,
không oai nghiêm lẫm liệt như các vị tướng trong sử thi cổ. Chính uỷ Kinh
ăn mặc dân dã, quê mùa đến mức có lần thấy ông lùa bò, chiến sĩ Khuê
tưởng ông là “nông dân”. Vị chính uỷ trung đoàn này ăn nói “xuề xoà”, gọi
lính đáng tuổi con mình là “ông”. Thấy lính chê thơ mình cũng nổi tự ái:
“Ông mô nói thơ mình cổ?”. “Câu nói của Kinh đầy tiếng địa phương, rất
nặng” (giọng Nghệ Tĩnh). Giữa chỉ huy và chiến sĩ có quan hệ rất thân mật,
cởi mở, bình đẳng, dường như không có sự cách biệt nào, đó là tinh thần
dân chủ của tiểu thuyết. Khi gặp chính uỷ trên đường hành quân, đám lính
trẻ la tướng lên: “A, thầy Đường Tăng!”, “Chào thầy Đường Tăng sang

nước Việt Nam lấy đầu Mỹ, anh em ơi!”, “Thầy có chú tiểu đồng kháu ra
kháu!”. Tiếng cười đã “làm gần gũi và thân mật hoá” các nhân vật, nó phá
tan những cái gì cứng đờ, nghiêm nghị làm cho nhân vật anh hùng bớt lên
gân. Nhà thơ Thái Văn vốn có “phong độ tỏ ra một con người thư thái và
điềm đạm” và có vẻ đạo mạo nhờ “đôi kính trắng”. Nhưng phong cách trang
nghiêm của ông cũng bị cánh lính trẻ hạ bệ: “Đồng chí cán bộ sư đoàn này
kể một cách hào hứng giữa cuộc họp ở mặt trận bộ rằng chính mình có gặp
“cu cậu” đang cọ dép ở quãng suối dưới chân đèo “chót thì bóp” ( ) cánh
lính trẻ nghịch ngợm tán vung lên: “Tao thấy ông ấy tắm truồng mà đeo
kính”. Chi tiết này kết hợp cả cái nghiêm nghị của sử thi (đeo kính) và cái
khôi hài của tiểu thuyết (tắm truồng). Nói như Bakhtin: “Người ta phá vỡ đối
tượng, lột trần nó (lột bộ cánh đẳng cấp của nó): đối tượng trần truồng trở
nên nực cười”
(3)
.
Có thể nói, Dấu chân người lính là một rừng cười, cứ vài trang, ta lại
nghe rộ lên tiếng cười của các chàng lính trẻ. Hình như đối tượng nào cũng
bị đem ra cười. Không chỉ có tiếng cười mỉa mai châm biếm phe địch mà
còn có cả tiếng cười bông đùa vui nhộn hướng vào phe ta như: chính uỷ
Kinh, Thái Văn, bác Đảo cấp dưỡng, mẹ vợ của Đàm, các cô văn công và
giữa lính với nhau. Chức năng của tiếng cười hài hước ở đây rất đa dạng.
Trước hết, nó rút ngắn khoảng cách sử thi giữa các nhân vật và giữa nhân
với với tác giả, độc giả. “Chính tiếng cười đã phá bỏ khoảng cách sử thi và
nói chung là mọi khoảng cách ngôi thứ - giá trị - ngăn chia” (Bakhtin). Tiếng
cười giúp cho các cấp chỉ huy xích lại gần chiến sĩ nhưng không có nghĩa là
các chiến sĩ không tôn trọng chỉ huy. Tiếng cười còn có tác dụng xoá tan
những khắc nghiệt của chiến tranh, nó thổi ngọn gió tiểu thuyết mát mẻ vào
cái lò sử thi nóng nực. Tạo cho con người có thêm sảng khoái và nghị lực
để vươn tới. Giọng “sang sảng” của sử thi đã kiềm chế bớt giọng vui nhộn
của tiểu thuyết. Tiếng cười cợt đã chấm dứt đúng chỗ để trả lại không khí

trang nghiêm của sử thi. Tinh thần của văn hoá lễ hội Carnaval còn có tác
dụng lột trần sự không tương hợp giữa lời nói và việc làm, giữa bản chất và
ngoại hình của nhân vật. Chẳng hạn, nó lột trần “mặt nạ nhân cách” của
một chàng lính đa tình, yêu lăng nhăng: “Cứ mỗi tuần lễ, hắn viết về cho
mỗi cô trong làng một lá thư. Các cô bé làng tớ đem tất cả những bức thư
của hắn đóng lại thành một tập, thỉnh thoảng đem ra đồng ngồi chụm đầu
lại đọc”. Người ta cho rằng con người sử thi “ruột để ngoài da”, nghĩ sao nói
vậy, không bịa đặt. Nhưng một số nhân vật trong Dấu chân người lính nói
láo đại tài. “Cậu bịa đến khiếp đi được! Các cậu ngồi với thằng Đàm một lúc
mà xem, nó có thể bịa hàng “lô” chuyện không hề có sự thật ( ) Cũng cóc
có chuyện nào là sự thực cả. Hắn bịa tuốt”. Sử thi tôn trọng sự thật, không
thích bịa. Nhưng tiểu thuyết có quyền bịa và có tiếng cười giễu nhại sự giả
tạo. Dấu chân người lính đã dùng tiếng cười trào lộng tống tiễn những thói
xấu để làm cho con người hoàn thiện hơn, đó là tinh thần của tiểu thuyết sử
thi.
Tính cách của nhân vật sử thi là bất biến và được “ngoại hoá” hoàn
toàn. “Quan niệm của nó về bản thân mình hoàn toàn trùng hợp với quan
niệm của những người khác về nó” (Bakhtin)
(4)
. Nhưng con người trong tiểu
thuyết phức tạp hơn, vì nhiều lý do: không có sự tương hợp giữa tư tưởng
và hành động, tính cách nhân vật cũng không ổn định, lúc thế này, lúc thế
khác. Và cách đánh giá của các nhân vật khác về nó cũng không giống
nhau, “xuất hiện sự lệch kênh đặc thù giữa hai bình diện: con người đối với
bản thân mình và con người dưới mắt người khác ( ) Trong tiểu thuyết,
con người được giao cho tính chủ động về tư tưởng và ngôn ngữ, tính chủ
động này sẽ làm biến đổi tính chất của hình tượng con người” (Bakhtin)
(5)
.
Ta có thể thấy điều đó trong Dấu chân người lính. Bên cạnh những nhân

vật có sự thống nhất cao trong cách đánh giá, ta cũng thấy có những nhân
vật gây nhiều cách đánh giá khác nhau. Nhân vật Khuê có lúc bị coi là có
tính cách con nít (tiểu thuyết) nhưng cũng có lúc được coi là có tính cách
người lớn (sử thi). Bác Đảo gọi anh là “thằng nhóc”. Các chiến sĩ khác cũng
rất khó hiểu về tính cách anh chàng này: “Lúc nào Khuê cũng vui vẻ, ăn nói
lúc như thằng trẻ con, lúc đĩnh đạc như một người đứng tuổi, có lúc hắn ta
nhận xét mọi việc như người đã từng trải hết sự đời”. Cách nhìn của đồng
đội về anh chàng tiểu đội trưởng này cũng thay đổi theo thời gian chứ
không bất biến như sử thi. “Đại đội trưởng Lượng bắt đầu thấy Khuê chơi
đuổi bắt với hai đứa trẻ nhà mình đóng quân, anh tự phàn nàn: “Cán bộ thế
ấy, y như một thằng con nít”. Hôm sau, anh ngồi trong nhà nghe Khuê tán
chuyện với cô gái lớn của chủ nhà ở ngoài sân, anh giật mình bảo: “Thằng
này chẳng trẻ con chút nào đâu!”. Đến những ngày đơn vị bắt đầu diễn tập,
nhiều buổi Lượng đi theo Khuê, xem cách cậu ta huấn luyện tiểu đội, anh
bất giác nghĩ: “Thằng này thử cho nó một đại đội, nó nắm quân đánh nhau
được!”. Dần dần mọi người nhận ra Khuê là nhà chiến lược có tài. Một trận
đánh nổi tiếng do trung đội trưởng Khuê chỉ huy “về sau được tường thuật
trên một tờ báo nghiên cứu quân sự, xem như một sáng tạo về chiến thuật
đánh quân đổ bộ đường không”. Các cấp chỉ huy tranh giành kéo Khuê về
đơn vị mình. Sở dĩ nhân vật này tạo ra nhiều ngộ nhận là do tính tình vui
vẻ, hay đùa giỡn. Thực ra đó chỉ là “mặt nạ” che giấu một nỗi đau xé lòng là
nhà anh bị ném bom, mẹ và em bị chết. Khuôn mặt đã không thể hiện đúng
nội tâm và tài năng nhân vật. “Nom hắn vẫn như một thằng bé con” nên
nhiều người tưởng lầm Khuê nông cạn, ngây thơ. Lý do thứ ba, tính cách
của Khuê chuyển biến theo thời gian, lớn dần theo sự từng trải trong chiến
đấu. Lượng nhận xét “Hắn tiến bộ nhanh lắm”. Càng ngày Khuê càng
chững chạc, càng dũng cảm. Như vậy ở nhân vật này có sự chuyển biến từ
con người tiểu thuyết sang con người sử thi.
Về mặt ngoại hình, nhân vật sử thi thường được miêu tả rất đẹp
nhưng trong tiểu thuyết không nhất thiết phải như vậy. Trong Dấu chân

người lính, bên cạnh những nhân vật có ngoại hình đẹp như Lượng, Lữ,
Xiêm ta cũng gặp nhiều nhân vật không có gì là đẹp. Chính uỷ Kinh thì
đầu trọc giống “Đường Tăng” nhưng chỉ khác ở chỗ có con mắt chột. Cán
bộ Khuê thì có khuôn mặt giống con nít và “con mắt ti hí và đen láy của nó
chính là mắt chết gái”. Chiến sĩ Đàm, từng là giáo viên bị học trò nữ phán
trước mặt là “thằng như con nít”. Ông bác sĩ quân y có nước da “đen thui”.
“Lính cũng đủ loại: có anh cao lớn lộc ngộc, có anh lùn như một cái nấm”.
Còn đây là chân dung của nhân vật Phán: “Hắn ta xuất hiện trước mắt các
chiến sĩ trinh sát già dặn của Lượng với một mái tóc “cua” dựng ngược nom
đến là ngạo mạn. Về ngôn ngữ, các anh hùng của chúng ta cũng biết văng
tục: “Tiên sư cái thằng Mỹ này”, “Trông thấy cái mẹ mày”, “Chuyện ấy kệ
thây mẹ nó ” Bên cạnh cách xưng hô trang trọng của sử thi như: đồng
chí, thủ trưởng, anh, chị, gọi tên riêng các nhân vật cũng dùng cách xưng
hô thân mật: mày, tao, thằng, hắn, nó Ngay cả cách xưng hô của tác giả
cũng suồng sã: “Rõ ràng cu cậu đang cố hết sức làm ra vẻ mặt tự nhiên,
bình thản”. Cách xưng hô như vậy là thiếu trang trọng nhưng mật độ không
nhiều, bởi vậy không ảnh hưởng đáng kể đến phong cách cao cả của sử
thi.
Bakhtin nói: “Trong thế giới sử thi, không có chỗ cho bất cứ một sự
dang dở, một sự chưa quyết đoán, một sự “có vấn đề” nào hết ( ) Tính
hoàn tất tuyệt đối và khép kín là một thuộc tính rất đặc sắc của quá khứ sử
thi ( ) Tiểu thuyết tiếp xúc với môi trường cái hiện đại chưa hoàn thành,
chính đặc điểm này không cho phép thể loại ấy bị đông cứng lại. Người viết
tiểu thuyết thiên về tất cả những gì còn chưa xong xuôi”
(6)
. Để minh hoạ
điều ấy, ta hãy trở lại với các mối tình bộ ba. Sau khi kết thúc tác phẩm, độc
giả vẫn còn thắc mắc: Sau khi Lữ chết, liệu Hiền và Moan có đến với nhau
không? Còn Lượng và Xiêm từng nhiều lần gặp nhau trong đêm khuya, vậy
họ đã “có gì” với nhau chưa? Nếu có, thì Lượng có phải là một cán bộ mẫu

mực, còn Xiêm có phải là người đàn bà chung thuỷ với chồng? Sau khi
thằng Kiếm trở về, hai vợ chồng vẫn duy trì tình trạng “chiến tranh lạnh”,
liệu Xiêm có đồng ý cho Kiếm “làm chồng” của mình không? Hay vẫn còn
đứng trước ngã ba đường, và sẽ rẽ về hướng nào? Nỗi lòng của Lượng ra
sao và liệu anh có trở thành người yêu của Nết? Mọi vấn đề vẫn còn bỏ
ngỏ để bạn đọc suy đoán, tranh luận và câu trả lời của mỗi độc giả có thể
không giống nhau. Tác giả đã tạo ra một không khí dân chủ của tiểu thuyết.
Cuối tác phẩm, chiến dịch Khe Sanh kết thúc trong sự chiến thắng của
quân giải phóng. Đối với sử thi thì đến đây cuộc chiến được chấm dứt hoàn
toàn, mỹ mãn. Nhưng Dấu chân người lính lại có lối kết thúc nửa khép nửa
mở của tiểu thuyết sử thi. Sau khi chiến thắng Khe Sanh, các chiến sĩ lại
tiếp tục lên đường đi đánh trận mới. Và trong trận đánh tiếp theo, ai còn, ai
mất? Họ sẽ thắng hay thua? Và cuộc chiến sẽ kéo dài đến bao giờ? Tác giả
không nói rõ (vì khi tác giả viết, cuộc chiến vẫn còn và các nhân vật đang đi
đi lại lại bên cạnh tác giả). Vậy, Dấu chân người lính mang thời hiện tại
chưa hoàn thành. Và đây cũng là hạt nhân cơ bản làm nên “chất tiểu
thuyết” của tác phẩm.
Sự thành công của Dấu chân người lính đã gợi ý nhiều vấn đề lý luận
quan trọng về bản chất của thể loại tiểu thuyết sử thi. Trước hết, Nguyễn
Minh Châu đã làm được cái điều mà Giáo sư Phan Cự Đệ vẫn thường nhắc
đến trong bộ Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại và các bài viết khác: Tiểu thuyết
của ta cần phải có khả năng tổng hợp những yếu tố sử thi, kịch, trữ tình
(trên cơ sở sử thi)
(7)
. Tác phẩm đã kết hợp tất cả những sắc màu thẩm mỹ:
cái đẹp, cái cao cả, cái thấp hèn, cái bi, cái hài Nó dung nạp cả “chất văn
xuôi” lẫn “chất thơ”. Nó chứa trong mình nhiều giọng điệu nhưng chủ âm
vẫn là giọng hùng ca. Nói cách khác, bên cạnh chất sử thi là chủ đạo, nó
còn dung nạp một cách chừng mực “chất tiểu thuyết”. Điều đó là cần thiết
cho các tác phẩm sử thi hiện đại Việt Nam. Vì nói như Lại Nguyên Ân “Nếu

không có sự dung hợp và chứa đựng các thủ pháp “ngoài sử thi” thì nền
văn học này sẽ kém hấp dẫn, lôi cuốn”
(8)
. Chính vì ý thức được điều đó mà
ngay trong thời kỳ độc diễn của sử thi, Nguyễn Minh Châu đã mạnh dạn
đưa vào chất tiểu thuyết. Và vì vậy, có thể nói, những dấu hiệu đổi mới của
Nguyễn Minh Châu đã manh nha từ Dấu chân người lính (1972)./.

×