SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP
HỌC SINH KHIẾM
THÍNHVIẾT ĐÚNG PHÂN
MÔN CHÍNH TẢ TẠI LỚP 1B
2
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đã khẳng định “Chữ viết xuất hiện là
một bước ngoặt trong lịch sử văn minh của loài người”. Chữ viết là một công
cụ vô cùng quan trọng trong việc hình thành, phát triển văn hoá, văn minh của
từng dân tộc và chữ viết chính là một trong những hình thức biểu hiện kết quả
của quá trình nhận thức, tư duy của con người. Với học sinh tiểu học chữ viết
phản ánh chất lượng học tập, rèn luyện kĩ năng viết chữ của các em và cũng là
hành trang để các em bước vào bậc học cao hơn. Chính vì thế tất cả các trẻ
em trên thế giới khi đến tuổi đều được đưa đến trường để “ biết đọc, biết
viết”.
Cùng với quan điểm như trên thì tất cả trẻ em Việt Nam, khi được sáu
tuổi đều được cắp sách đến trường. Nhưng không phải trẻ nào cũng học tập và
phát triển giống trẻ nào. Những trẻ bình thường cũng có em học tập nhanh, có
em chậm, sự khác biệt đó càng thể hiện rõ hơn đối với các em học sinh khuyết
tật.
Ở lớp một các em bắt đầu làm quen với các kỹ năng: Nghe, nói, đọc,
viết. Đối với những trẻ em khiếm thính thì sự khiếm khuyết về khả năng nghe
ảnh hướng không nhỏ đến việc phát triển tư duy và tiếp nhận kiến thức của
các em. Do bị mất hoặc còn rất ít về khả năng nghe nên khi viết các em gặp
rất nhiều khó khăn và các em chỉ viết được khi nhìnvàosách, hình miệng, kí
hiệu ngôn ngữ, chữ cái ngón tay của giáo viên nhưng vẫn còn viết sai lỗi
chính tả rất nhiều. Do vậy viết như thế nào để cho đúng chính tả lại là một
việc hết sức khó khăn đối với trẻ khuyết tật nói chung và trẻ khiếm thính nói
riêng. Vấn đề giúp cho các em khiếm thính viết đúng chính tả là một vấn đề
hết sức quan trọng và cần thiết. Chính vì lẽ đó mà những người như tôi - đang
trực tiếp giảng dạy cho trẻ khuyết tật rất băn khoăn, vì vậy tôi đã đi sâu vào
tìm hiểu và nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp giúp học sinh khiếm
thính viết đúng phân môn Chính tả tại lớp 1B
2
”.Nhằm giúp các em khắc
phục lỗi viết sai, học tốt phân môn Chính tả, góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai.
Trong đề tài này tôi tập trung vào việc tìm ra cách thức để giúp học
sinh khiếm thính lớp 1B
2
viết đúng tiếng, từ, câu trong một đoạn văn, đoạn thơ
ngắn có trong yêu cầu của phân môn chính tả trong môn Tiếng việt lớp 1 tập 2
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Một số thuật ngữ
Học sinh khiếm thính:
Khiếm thính hiểu theo nghĩa dân gian là những người không nghe được
âm thanh hay còn gọi là “điếc”. Ngoài ra khiếm thính còn có nghĩa là khiếm
khuyết về mặt thính giác (theo tổ chức Y tế thế giới). Do cơ quan thính giác bị
phá hủy nên trẻ không tri giác được bằng thế giới âm thanh nên không nghe
được tiếng nói. Vì thế không hình thành được tiếng nói dẫn đến câm. Như vậy
điếc là nguyên nhân còn câm là hậu quả.
Chính tả:
Thuật ngữ chính tả hiểu theo nghĩa gốc là “ phép viết đúng” hoặc “ lối
viết hợp với chuẩn”. Cụ thể, chính tả là hệ thống các quy tắc về cách viết
thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ, cách viết hoa tên riêng, cách phiên
âm tên riêng nước ngoài. Nói cách khác, chính tả là những quy ước của xã hội
trong ngôn ngữ, mục đích của nó là làm phương tiện truyền đạt thông tin bằng
chữ viết, bảo đảm cho người viết và người đọc đều hiểu thống nhất nội dung
cơ bản. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, nó không cho
phép vận dụng qui tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân.
1.2. Vị trí, tính chất, nhiệm vụ của phân môn Chính tả.
a. Vị trí:
Phân môn Chính tả trong nhà trường giúp học sinh hình thành năng lực
và thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết
đúng tiếng Việt văn hóa, tiếng Việt chuẩn mực. Vì vậy, phân môn Chính tả có
vị trí quan trọng trong cơ cấu chương trình môn Tiếng Việt nói riêng, các môn
học ở trường phổ thông nói chung.
Ở bậc tiểu học, phân môn Chính tả càng có vị trí quan trọng. Bởi vì,
giai đoạn tiểu học là giai đoạn then chốt trong quá trính hình thành kĩ năng
chính tả cho học sinh. Không phải ngẫu nhiên mà ở tiểu học, chính tả được bố
trí thành một phân môn độc lập (thuộc môn Tiếng Việt), có tiết dạy riêng.
Trong khi đó, ở trung học cơ sở và phổ thông trung học Chính tả chỉ được xen
kẽ trong các tiết thực hành ở phân môn Tập làm văn, chứ không tồn tại với tư
cách là một phân môn độc lập như ở tiểu học.
b. Tính chất:
Giống như các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, tính chất nổi bật
của phân môn Chính tả là thực hành. Bởi lẽ, chỉ có thể hình thành các kĩ năng,
kĩ xảo chính tả cho học sinh thông qua việc thực hành, luyện tập. Do đó, trong
phân môn này các quy tắc chính tả, các đơn vị kiến thức mang tính chất lí
thuyết không được bố trí trong tiết dạy riêng mà dạy lồng trong hệ thống bài
tập chính tả. Nội dung, cấu trúc của bài chính tả trong sách giáo khoa Tiếng
Việt tiểu học (phần chính tả) thể hiện rất rõ tính chất nói trên.
c. Nhiệm vụ:
Phân môn Chính tả trong nhà trường có nhiệm vụ giúp học sinh nắm
vững các quy tắc chính tả và hình thành kĩ năng chính tả; nói cách khác, giúp
học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả.
Ngoài ra phân môn Chính tả còn rèn cho học sinh một số phẩm chất
như tính cẩn thận, óc thẩm mỹ, bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý tiếng Việt
và chữ viết của tiếng Việt.
1.3. Việc học phân môn Chính tả của học sinh khiếm thính lớp 1B2
tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai.
Chương trình học của học sinh tiểu học khiếm thính tại Trung tâm Nuôi
dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai như sau: Các lớp học theo chương trình sách giáo
khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện hành trong 6 năm. Trong đó chương
trình lớp 1 học trong 2 năm, năm đầu là lớp 1A, năm sau là lớp 1B. Lớp 1A
học theo chương trình học kì I của lớp 1 theo quy định của Bộ, lớp 1B học
theo chương trình học kì II của lớp 1 theo quy định của Bộ. Do vậy mà ở lớp
1B có học phân môn chính tả. Còn các lớp từ lớp 2 đến lớp 5, mỗi lớp học 1
năm.
Như chúng ta đã biết, do bị hạn chế về khả năng nghe hoặc không còn
nghe thấy âm thanh mà ngôn ngữ của trẻ khiếm thính không giống với trẻ
bình thường. Để trao đổi, giao tiếp với xung quanh các em sử dụng rất nhiều
cách khác nhau. Như:Ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ tự nhiên, Ngôn ngữ kí hiệu,
Ngôn ngữ chữ cái ngón tay, Ngôn ngữ hình miệng, Ngôn ngữ viết, Ngôn ngữ
nói Những ngôn ngữ này xét về một mặt nào đó cũng chưa thể giúp học
sinh khiếm thính có thể hiểu hết những khái niệm, sự vật hiện tượng xung
quanh các em, cũng như diễn đạt ý nghĩ của mình cho người khác hiểu.
Chính vì thế khi học phân môn chính tả các em gặp rất nhiều khó khăn
và mắc rất nhiều lỗi. Để dạy các em viết một đoạn thơ hoặc đoạn văn có trong
sách giáo khoa thì giáo viên yêu cầu học sinh về nhà học thuộc lòng đoạn cần
viết. Việc học thuộc lòng của các em không giống các bạn bình thường, các
em học ở đây là học thuộc thứ tự các tiếng, từ có trong đoạn, rồi học thuộc kí
hiệu ngôn ngữ của các tiếng,từ đó. Việc học thuộc đó chính là học vẹt, không
giúp cho các em có được cách viết đúng hay nắm được các quy tắc viết đúng
chính tả.
Những em học sinh khiếm thính lớp 1 là đối tượng dễ viết sai chính tả
nhất. Các em lần đầu tiên làm quen với phân môn Chính tả, lần đầu tiên phải
viết một đoạn văn, đoạn thơ theo một quy tắc nhất định. Các em còn nhỏ nên
khả năng tập trung chú ý còn kém, vốn ngôn ngữ, vốn kí hiệu ngôn ngữ còn
hạn chế, việc hiểu một nội dung bài văn, bài thơ còn nhiều thiếu sót. Do vậy
các em thường mắc các lỗi sau khi viết chính tả:
- Viết thiếu hoặc sai dấu thanh. ví dụ như bạn bè thì viết thành ban
be,cá kho viết thành cà kho;
- Viết sai tiếng từ, nhầm lẫn giữa các tiếng từ có cấu trúc gần giống
nhau. Ví dụ như bàn viết thành bàng,và viết thành là;
- Viết thiếu tiếng có trong một câu. Ví dụ “Trong đầm gì đẹp bằng sen”
viết thành “Trong đầm đẹp bằng sen”.
- Viết sai một số lỗi chính tả thông thường như sử dụng các phụ âm đầu
đặc biệt như: n/l, c/k, d/gi/r, ch/tr,
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Xuất phát từ những lỗi sai mà các em khiếm thính lớp 1B2 thường mắc
phải, tôi đã đưa ra một số biện pháp sau để giúp các em viết đúng hơn.
2.1 Chuẩn bị của giáo viên.
Khi kết thúc phần học vần, sang phần chính tả, giáo viên cần tìm hiểu
kỹ về chất lượng viết chính tả của học sinh để có hướng uốn nắm và giúp đỡ
cho phù hợp với từng đối tượng vì ở lớp 1B2 ngoài học sinh bị khuyết tật
thính giác các em còn mắc phải một số bệnh khác kèm theo như: Mắt kém,
tim, yếu cơ tay….vv.Từ đó tìm ra nguyên nhân giúp các em học tốt hơn.
Đối với các em có vấn đề về mắt cần sắp xếp chỗ cho hợp lý, ngồi theo
hình vòng cung, ở giữa gần bảng nơi có ánh sáng tốt nhất.
Đối với những em bị yếu cơ tay thì thường xuyên luyện tập cầm nắm
các vật dụng mềm, dẻo.
Trước khi dạy bài mới giáo viên cần nắm vững kiến thức nội dung bài
chính tả để có phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm cung cấp kiến thức cho
học sinh giúp các em dễ ghi nhớ mà viết đúng chính tả.
Giáo viên cần đọc kỹ nội dung bài chính tả nhiều lần, dự kiến các từ
khó dễ viết sai nếu học sinh chưa phát hiện khi chuẩn bị bài ở nhà.
Chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi gợi ý cho phần bài viết và bài tập thực
hành.
2.2. Chuẩn bị của học sinh.
Đầu năm học giáo viên chuẩn bị cho học sinh trong lớp mỗi em 2
quyển vở học chính tả, một quyển ở lớp, một quyển ở nhà để ngày mai có tiết
chính tả thì hôm nay giáo viên yêu cầu học sinh về nhà viết trước bài vào vở ở
nhà.
Sau đó học sinh đọc nhiều lần nội dung bài chính tả và tìm các từ khó
dễ viết sai trong bài, dùng bút chì gạch chân các từ khó và viết vào vở nháp.
Làm như vậy nhằm giúp cho học sinh hiểu nội dung bài chính tả, rèn
luyện chữ viết từ đó các em sẽ viết nhanh và ít sai lỗi chính tả hơn.
Ví dụ: Ngày mai học chính tả/ Trang 118/ Sách giáo khoa/ TV1 tập 2
Tập chép bài: “Hồ Gươm” đoạn từ “Cầu Thê Húc màu son … đến hết”
thì tối nay học sinh về nhà phải viết đoạn chính tả đó vào vở ở nhà và dùng
bút chì gạch chân những từ khó, dễ viết sai như: “con tôm”, “lấp ló”, xum
xuê”, “cổ kính”, “gò đất” và viết những từ trên vào vở nháp.
2.3. Luyện đọc thường xuyên:
Như chúng ta đã biết hầu như tất cả các bài chính tả đều được trích từ
bài tâp đọc vậy thì trước đó học sinh đã được giáo viên hướng dẫn cách đọc
hình miệng và kí hiệu ngôn ngữ trong quá trình luyện đọc nên các em đã phần
nào nắm được nội dung cũng như kí hiệu cơ bản của bài chính tả.
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thật kỹ một đoạn văn, hay đoạn thơ cần
phải chép chính tả; đọc nhiều lần và đọc trước ở nhà. Việc đọc nhiều lần giúp
các em ghi nhớ mặt chữ, ghi nhớ các kí hiệu ngôn ngữ, ghi nhớ ngôn ngữ
hình miệng, ghi nhớ nội dung của đoạn. Khi các em đã ghi nhớ được đoặn
văn thì lúc viết chính tả các em sẽ hạn chế được việc viết thiếu từ, viết sai
chữ, viết thiếu dấu thanh.
Ví dụ: Chính tả / Trang 66/ Sách giáo khoa / TV1 tập 2
Tập chép: Nhà bà ngoại.
Giáo viên cho học sinh về nhà đọc bài nhiều lần để các em nắm được
nội dung cũng như các từ ngữ có trong đoạn văn. Đặc biệt là những từ khó
như: lòa xòa, thoang thoảng, thoáng mát. Những từ này nếu các em không đọc
kỹ, nhớ kỹ thì sẽ rất dễ viết sai, viết thiếu khi trình bày bài chính tả.
2.4. Luyện viết nhiều lần:
Cho các em tập chép một đoạn văn, đoạn thơ nhiều lần hoặc chép nhiều
đoạn khác nhau nhằm rèn cho các em kĩ năng viết chính tả. Khi viết nhiều lần,
các em sẽ ghi nhớ được cấu trúc của các tiếng, từ có trong đoạn văn nó gồm
những con chữ nào ghép với nhau. Từ đó các em sẽ hạn chế việc viết sai
chính tả.
Ví dụ: Chính tả / Trang 57/ SGK Tiếng Việt 1 Tập 2
Tập chép bài: “Bàn tay mẹ” (từ “ Hằng ngày… đến Giặt một chậu tã lót
đầy” ).
Khi học tập đọc “ Bàn tay mẹ” các em cũng đã được yêu cầu viết bài
vào vở với mục đích giúp các em ghi nhớ mặt chữ. Sau đó khi tìm hiểu nội
dung bài các em sẽ ghi nhớ kí hiệu ngôn ngữ, ngôn ngữ hình miệng.
Khi viết chính tả, các em được viết thêm lần nữa đoạn cần viết. Ngoài
ra các em còn được viết các từ khó như: “Hằng ngày”, “biết bao nhiêu”,
“giặt” vào bảng con và được giáo viên chỉnh sửa lỗi trước khi chính thức viết
bài.
Sau khi viết xong, nếu viết sai giáo viên yêu cầu các em viết lại để sửa
những lỗi đã sai trước đó.
Như vậy các em được viết rất nhiều lần, từ đó các em sẽ có kĩ năng viết
đúng chính tả những từ, tiếng dễ sai.
2.5. Sử dụng đồ dùng trực quan, minh họa, mô phỏng:
Khi viết chính tả ở lớp 1 thì các bài viết thường lấy từ các bài tập đọc
có trước đó. Đối với các bài tập đọc, để hiểu nội dung thì thường có những
tranh vẽ miêu tả nội dung của bài, ở trong sách giáo khoa cũng có, hoặc có
những bài miêu tả về một đồ vật, con vật, sự vật, thì chúng ta nên có những
đồ dùng dạy học phù hợp. Điều đó giúp các em hình dung rõ hơn về nội dung
bài và sẽ khắc sâu được một số cụm từ chính có trong bài. Như vậy học sinh
sẽ nắm được một phần nào đó về cấu tạo các tiếng, từ, để khi viết chính tả các
em sẽ không bị hiểu sai các kí hiệu ngôn ngữ, ngôn ngữ hình miệng của một
số từ, cụm từ chính và khi nghe viết các em có thể viết đúng từ theo kí hiệu
ngôn ngữ, ngôn ngữ hình miệng.
Ví dụ: Chính tả / Trang 93 / SGK Tiếng Việt 1 tập 2
Tập chép: “ Hoa sen”
Trong bài này khi dạy giáo viên sử dụng một bông sen thật yêu cầu học
sinh quan sát thì sẽ thấy được: Lá sen màu xanh, bông sen màu trắng, nhị sen
màu vàng từ những quan sát trực tiếp đó sẽ giúp các em hiểu nội dung và viết
đúng từ hơn.
2.6. Thảo luận, trao đổi:
Giáo viên có thể hỏi học sinh về kí hiệu ngôn ngữ, ngôn ngữ hình
miệng của từ nào đó để các em trả lời; hoặc yêu cầu các em viết các từ, cụm
từ sau khi giáo viên thể hiện bằng kí hiệu ngôn ngữ, ngôn ngữ hình
miệng,trước khi giáo viên cho các em viết chính tả. Hoặc giáo viên đưa ra
một số tình huống cụ thể cho học sinh phân biệt các từ đồng âm khác nghĩa,
các từ đồng nghĩa khác âm, các từ có kí hiệu ngôn ngữ giống nhau,… Có thể
thảo luận theo nhóm đôi, nhóm ba, sau đó các nhóm nêu ý kiến bổ sung cho
nhau.
Hình 1: Hoạt động thảo luận nhóm.
2.7. Sử dụng các câu hỏi trắc nghiệm:
Giáo viên cho học sinh những câu hỏi lựa chọn để điền đúng chữ hoặc
vần đối với những chữ, vần đặc biệt như: x/s, ch/tr, g/gh, c/k, r/d/gi, an/ang,
iên/ iêng, ươm/ươn,
Ví dụ: Phần luyện tập / SGK/ Trang 69/ TV1 tập 2
Điền chữ: tr hay ch?
Khoanh tròn chữ cái đặt trước đáp án đúng.
1. Thi ….ạy.
a. ch
b. tr
2. … anh bóng.
a. ch
b. tr
Như vậy học sinh sẽ có nhiều cơ hội được thử và lựa chọn những đáp
áp mà mình cho là đúng nhất để khoanh vào.
2.8.Tạo hứng thú học tập cho học sinh:
Đối với học sinh tiểu học thì việc tạo hứng thú học tập cho các em đóng một
vai trò rất quan trọng nhất là các em học sinh lớp 1 và càng cần thiết hơn với
các em học sinh khiếm thính bởi vì sự tập trung chú ý của các em rất hạn chế
so với học sinh bình thường.
Trong giờ học chính tả, để cho học sinh hứng thú khi học sinh phát biểu đúng,
làm đúng các bài tập giáo viên cần động viên, khuyến khích, khen thưởng kịp
thời bằng cách vỗ tay, món quà nhỏ,hay bông hoa điểm 10…, tùy vào sư tiến
bộ của từng em mà áp dụng cho phù hợp với tiết dạy.
Phần luyện tập trong môn Chính tả cũng rất quan trọng, để học sinh làm tốt
phần luyện tập giáo viên cần sử dụng nhiều phương pháp thích hợp tùy theo
nội dung bài tập để gây hứng thú cho học sinh có thể tổ chức cho học sinh
làm theo cá nhân, tổ, nhóm hoặc tạo thành những trò chơi vui học có ích.
Ví dụ: Chính tả/ trang/102/ SGK/ TV1- tập 2
Bài: “Chuyện ở lớp”
Phần bài tập: Điền chữ c hay k?
Túi …ẹo; Quả ….am; Qua ….ầu; Thước…ẻ; lá…ọ; Nụ …ười;
Giáo viên cho học sinh chơi trò chơi “tiếp sức”, trước tiên giáo viên nêu yêu
cầu bài tập, hướng dẫn học sinh cách chơi, quy định thời gian, chia lớp thành
2 nhóm mỗi nhóm 4 em, chia bảng thành 2 cột ghi sẵn bài điền, mời 2 nhóm
lên thi đua nhóm nào điền đúng và nhanh nhất. Mỗi em chỉ được điền 1 chữ
rồi chuyển phấn cho bạn. Hết thời quy định các nhóm ngừng viết. Giáo viên
yêu cầu các nhóm nhận xét lẫn nhau sau đó giáo viên nhận xét chung, tuyên
dương nhóm nào làm đúng và nhanh nhất.
Hình 2 + 3: Hoạt động trò chơi tiếp sức.
Qua những trò chơi như vậy không chỉ tạo hứng thú trong học tập cho
học sinh mà còn tạo được mối quan hệ tình cảm thân thiết giáo viên và học
sinh nhằm giúpcác em có tinh thần thoái mái, vui tươi khi học môn Chính tả
cũng như các môn học khác.
2.9. Kết hợp với phụ huynh:
Việc phối hợp với phụ huynh rất quan trọng, giúp cho giáo viên và cả
người chăm sóc trẻ nắm được tình hình học tập và sự tiến bộ của trẻ, từ đó có
kế hoạch cụ thể để giúp các em có những tiến bộ trong việc viết đúng. Ngoài
ra, thời gian học cũng không nhiều bằng việc trẻ ở gia đình, cha mẹ, người
chăm sóc trẻ có thể kèm thêm cho trẻ.
Hướng dẫn phụ huynh cách học cùng conmình ở nhà vì đa số phụ
huynh đều hạn chế trong vấn đề giao tiếp bằng kí hiệu ngôn ngữ với con bị
khuyết tật thính giác của mình.
Phối hợp với giáo viên bộ môn để nhắc nhở, uốn nắn nhằm giúp các em
học tập tốt hơn.
Trên đây chỉ là một số biện pháp được sử dụng phổ biến để giúp các
em khiếm thính viết đúng khi học phân môn Chính tả ở lớp 1B2 tại Trung tâm
Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai. Để rèn cho các em kĩ năng viết đúng thì
không nhất thiết phải áp dụng theo một biện pháp nào cụ thể mà có thể kết
hợp nhiều biện pháp với nhau để đem lại hiệu quả tốt nhất. Điều quan trọng
khi rèn kĩ năng là phải kiên trì và được rèn luyện thực hành trong một thời
gian dài.
III.HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
1. Thực trạng viết chính tả tại lớp 1B
2
Trung tâm Nuôi dạy trẻ
khuyết tật Đồng Nai đầu năm học 2011 – 2012.
Sĩ số: 9/3 nữ
Chương trình phân môn chính tả lớp 1B
2
: 1bài x 2tiết/ tuần.
Tiết 1:
- Đọc bài chính tả
- Viết từ khó
- Viết bài chính tả
Tiết 2:
- Luyện viết lại (những em viết sai nhiều)
- Luyện tập, thực hành
Bảng thống kê việc viết chính tả của học sinh lớp 1B
2
đầu năm học 2011 - 2012
Nội dung
Đạt Chưa đạt
Số lượng
% Số lượng
%
Viết đúng từ 3 33,3 6 66,7
Viết đúng, đủ từ trong câu 2 22,2 7 77,8
Viết đúng, đủ các câu trong đoạn 1 11,1 8 88,9
Nguyên nhân:
- Do học sinh còn nhỏ tuổi, việc tập trung chú ý trong giờ học còn kém
cho nên khi viết các em còn viết sai nhiều, đặc biệt là viết thiếu từ và sai dấu
thanh.
- Vốn ngôn ngữ kí hiệu, ngôn ngữ hình miệng của các em còn hạn hẹp
dẫn đến vốn từ của các em còn ít. Do vậy mà khi viết các em không nắm vững
được nội dung bài viết cũng như không nắm bắt kịp các kí hiệu ngôn ngữ và
ngôn ngữ hình miệng cho nên các em còn viết sai, viết thiếu từ.
- Lần đầu tiên các em làm quen với phân môn Chính tả nên còn nhiều
bỡ ngỡ. Các em chưa nhớ hết được các mặt chữ do việc học vần của các em là
học từ rồi rút ra tiếng rồi rút ra âm vần mới. Do vậy các em không có kỹ năng
đánh vần khi nghe đọc để viết.
Do những nguyên nhân trên dẫn đến học sinh khiếm thính lớp 1B
2
viết
sai nhiều lỗi chính tả. Để khắc phục được những lỗi này cần những giải pháp
tối ưu, phù hợp với đặc điểm của các em.
2. Kết quả viết chính tả tại lớp 1B
2
Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết
tật Đồng Nai cuối năm học 2011 – 2012
Áp dụng các biện pháp đã đề ra, khảo sát lớp1B
2
tại Trung tâm Nuôi
dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai, sau một thời gian tôi nhận thấy những kết quả
sau:
Nội dung
Đạt Chưa đạt
Số lượng
% Số lượng
%
Viết đúng từ 9 100 0 0,0
Viết đúng, đủ từ trong câu 7 77,8 2 22,2
Viết đúng, đủ các câu trong đoạn 7 77,8 2 22,2
Có kết quả trên là do học sinh khiếm thính nắm bắt kí hiệu ngôn ngữ rất
nhanh, nhưng hiểu nghĩa của từ còn hạn chế. Thường học sinh hay nhầm các
từ cóâm, vần giống nhau nhưng dấu thanh khác nhau. Chính vì vậy mà còn có
học sinh hiểu sai nghĩa từ dẫn đến việc viết sai từ. Ngoài ra việc học vần của
học sinh khiếm thính không giống với học sinh bình thường. Các em không
học theo quy trình là học vần trước, sau đó ghép vần để tạo ra các tiếng và từ,
mà các em học từ, tiếng trước sau đó mới phân tích để tìm vần cần học. Do
vậy mà các em không có kỹ năng đánh vần khi viết, các em chỉ có thể nhớ
được từ do học thuộc, và được sử dụng nhiều lần.
Thông qua những kết quả trên cho thấy việcgiúp học sinh khiếm thính
viết đúng chính tả là rất quan trọng. Chúng ta phải luôn đổi mới phương pháp
và linh động cho phù hợp với trình độ, lứa tuổi, khiếm khuyết của các em. Có
như vậy mớiđem lại những hiệu quả tốiưu trong dạy và học.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Để việc giáo dục trẻ khuyết tật nói chung và trẻ khiếm thính nói riêng
đạt kết quả cao, tôi có một số đề xuất, khuyến nghị như sau:
Đối với Giáo viên:
- Cần điều chỉnh nội dung chương trình học tập cho phù hợp với từng
trình độ và sự khiếm khuyết của học sinh.
- Luôn tìm tòi, sáng tạo, kết hợp linh hoạt các phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học làm cho bài giảng phong phú và lôi cuốn học sinh, phát huy
tối đa tính tích cực chủđộng của học sinh vào quá trình học tập.
- Tạo không khí học tập vui tươi,thoải mái, khuyến khích tinh thần tự
học của học sinh.
- Đầu tư, sáng tạo, tích cực trong việc làm đồ dùng dạy học phục vụ
cho công tác giảng dạy.
- Không ngừng học hỏi để nâng cao kiến thức, kĩ năng dạy trẻ khiếm
thính.
Đối với học sinh:
- Cần ý thức được việc học tập của mình.
- Có tinh thần học tập tự giác cao.
- Ngoan ngoãn vâng lời thầy, cô giáo và người chăm sóc.
Đối với Ban Giám đốc Trung tâm:
- Đầu tư thêm về cơ sở vật chất, các phòng hỗ trợ phục hồi chức năng
cho học sinh khuyết tật nói chung, các phòng học phù hợp với đặc điểm học
sinh khiếm thính nói riêng.
- Tăng cường phương tiện dạy học.
- Tổ chức các cuộc giao lưu, trao đổi học tập kinh nghiệm với các
trường bạn.
Đối với gia đình và cộng đồng:
- Phát hiện sớm và cho các em học sinh khiếm thính được tham gia
can thiệp sớm đúng độ tuổi.
- Hỗ trợ máy trợ thính đầy đủ, chất lượng.
- Kết hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm, nhà trường trong việc
giáo dục.
- Quan tâm, hỗ trợđúng mức về mọi mặt cho sự tiến bộ của học sinh.
Kết luận:
Hiện nay, chúng ta đang cố gắng nâng cao chất lượng dạy và học nhất
là trong việc giáo dục trẻ khuyết tật có thể hòa nhập với xã hội sau này.
Việc giúp các em khiếm thính viết đúng chính tả là rất quan trọng,
không chỉ trong phân môn chính tả mà còn trong các môn học khác.
Ngoài việc giúp các em có vốn kiến thức để phục vụ cuộc sống, viết
đúng còn là một phương tiện giúp các em giao tiếp với xã hội tốt hơn.
Bởi không phải ai cũng biết ngôn ngữ kí hiệu để giao tiếp với các em,
trong khi chữ viết là một dạng ngôn ngữ phổ biến, giúp cho cộng đồng có thể
giao tiếp với nhau dễ dàng hơn.
Để đạt được điều này trước hết là có sự quan tâm của Ban Giám đốc về
cơ sở vật chất, sự chỉ đạo sâu sát của tổ chuyên môn. Hơn hết là tinh thần
trách nhiệm cao của người giáo viên, có tâm với nghề, tận tụy yêu thương trẻ
khuyết tật cũng như không ngại khó khăn trong việc áp dụng các phương
pháp làm thế nào cho trẻ khiếm thính có thể tiếp thu bài học một cách hiệu
quả nhất. Quan trọng nhất là bản thân các em có sự nỗ lực phấn đấu, vượt qua
chính mình để hòa nhập với cuộc sống.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nâng cao khả năng dạy học trẻ Khiếm thính (Viện Chiến lược và
phát triển).
2. Các phương pháp dạy trẻ Khuyết tật.(Viện Chiến lược và phát triển).
3. Sách giáo viên, giáo khoa lớp 1 tập 2( Bộ Giáo dục và Đào tạo) Nhà
xuất bản năm 2003.
4. Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1: PGS.TS. Lê Phương
Nga- PGS.TS. Lê A, TS. Lê Hữu Tỉnh, TS. Đỗ Xuân Thảo, TS. Đặng Kim
Nga. (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2006.
Biên Hòa, ngày 10 tháng 5 năm 2012.
Người viết
Nguyễn Thị Thúy Hằng