Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tín dụng trung và dài hạn tại Sở Giao dịch ngân hàng BIDV - 5 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.22 KB, 10 trang )

Tín dụng trung và dài hạn chiếm đa phần và cũng liên tục tăng qua các năm từ năm
2000 chỉ là 4.945 tỷ đồng, đến năm 2001 tăng lên là 5.861 tỷ đồng bằng 118,5% so với
năm 2000, năm 2002 tăng lên là 7.791 tỷ đồng .
Nếu xét về cơ cấu tín dụng trung và dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng trung và dài
hạn và ngắn hạn ta cũng thấy tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn cũng chiếm phần lớn và
hàng năm đều tăng cụ thể: năm 2000 chiếm 60,26% còn lại 39,74% là tín dụng ngắn
hạn, năm 2001 tỷ lệ này lần lượt là 59,20% và 40,8%, đến năm 2002 là 60,61% và
39,39%. Điều đó chứng tỏ sở I NHĐT&PTVN có truyền thống trong cho vay trung và
dài hạn, mức độ phát triển nghiệp vụ ngày càng được nâng cao, mối quan hệ giữa ngân
hàng và khách hàng là tốt, uy tín ngân hàng ngày càng được nâng cao.
Bảng số liệu trên cho ta thấy dư nợ cho vay đối với thành phần kinh tế là khác nhau,
dư nợ tín dụng đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế quốc doanh luôn cao
và thường xuyên tăng trong giai đoạn này trong cả tín dụng ngắn hạn lẫn tín dụng trung
và dài hạn. Sau đây chúng ta phân tích cụ thể dựa trên số liệu thực tế:
Trong bảng ta nhận thấy rằng tỷ trọng tín dụng ngắn hạn dành cho các doanh nghiệp
thụôc thành phần kinh tế quốc doanh qua ba năm bị giảm sút chút ít từ 27,4% năm 2000
xuống 25,69 trong năm 2001 và còn 24,81 trong năm 2002. Còn tỷ trọng tín dụng ngắn
hạn dành cho các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh lại tăng dần
qua các năm từ 12,3% năm 2000 đã lên khoảng hơn 14% trong năm 2001, 2002. Điều
đó chứng tỏ các ngành kinh tế ngoài quốc doanh đang phát triển khá mạnh mẽ, cần
nhiều vốn.
Đối với tín dụng trung và dài hạn thì tình hình ngược lại, các số liệu thực tế cho
thấy khu vực kinh tế quốc doanh lại chiếm một tỷ trọng lớn tổng dư nợ tín dụng, cụ thể
là dư nợ tín dụng trung và dài hạn của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế quốc
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
doanh ngày càng tăng trong cả ba năm cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối, năm 2000 dư
nợ là 3.659 tỷ đồng chiếm 44,58% tổng dư nợ tín dụng, năm 2001 tăng lên là 4.513 tỷ
đồng chiếm 45,59% bằng 123,23% so với năm 2000, năm 2002 là 6.155 tỷ đồng, chiếm
47,88%, bằng 136,38% so với năm 2001.
Theo các phân tích nói trên thì vốn cho vay chủ yếu tập trung vào thành phần kinh tế
quốc doanh là chủ yếu, trong cả tín dụng ngắn hạn lẫn tín dụng trung và dài hạn. Đặc


biệt trong tín dụng trung và dài hạn thì xu hướng này càng trở nên ro nét hơn, vốn cho
vay trung và dài hạn thường chiếm tỷ lệ cao trong tổng dư nợ tín dụng nó thường xuyên
đạt khoảng 46% trong ba năm từ 2000 đến 2002. Những số liệu trên chứng tỏ vai trò và
ưu thế của sở I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam trong việc cung ứng vốn tín
dụng trung và dài hạn phục vụ phát triển kinh tế của đất nước. Ngoài ra qua phân tích
trên ta còn thấy rằng ngân hàng đã thực hiện tốt chính sách khách hàng, chính sách tín
dụng, ngân hàng đã chủ động tìm kiếm nhu cầu khách hàng, tìm kiếm các dự án và thậm
định cho vay, tạo ra quan hệ thân thiết, tạo uy tín với khách hàng, và đã được sự tín
nhiệm cao của khách hàng đánh dấu bước đầu thanh công trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng.
Về nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tín dụng, đây là một trong số
những chỉ tiêu quan trọng làm căn cứ để xem xét chất lượng tín dụng của một ngân
hàng.
Sau đây chúng ta phân tích tình hình về nợ quá hạn của sở I NHĐT&PTVN trong giai
đoạn 2000-2002:
Nhìn vào bảng trên ta thấy rằng tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ và nợ quá hạn
trong tín dụng ngắn hạn lẫn tín dụng trung và dài hạn đều có xu hướng giảm theo thời
gian, với tổng dư nợ ta thấy từ 2,55% năm 2000, giảm xuống còn 2,53% và 2,51%
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trong năm 2001 và 2002. Với tín dụng ngắn hạn và trung hạn cũng có xu hướng tương
tự, đặc biệt là nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trong tín dụng trung và dài hạn cụ thể: Với
tín dụng trung và dài hạn thì năm 2000 tỷ lệ nợ quá hạn của sở là 2,32%, sau đó năm
2001 thì chỉ còn 2,29% sang năm 2002 thì tỷ lệ này chỉ còn 2,27%. Tuy nhiên chúng ta
cũng dễ dàng nhận thấy là trong ba năm mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn xét trên các khía cạnh
đều giảm song số tuyệt đối thì vẫn tăng điều này cũng không khó giải thích vì rằng
trong giai đoạn này dư nợ tín dụng thường xuyên tăng với tốc độ cao. Ta thấy rằng tỷ lệ
nợ quá hạn trên tổng dư nợ của ngân hàng thương xuyên giảm qua các năm cho thấy
rằng rủi ro của ngân hàng có xu hướng giảm rõ rệt, đây là một biểu hiện tốt thể hiện
chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng đang được nâng lên đáng kể, công tác thẩm định
dự án đã có nhiều tiến bộ.

Để chất lượng tín dụng nói trung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng
thực sự ngày càng được nâng cao hơn nữa, thì ngân hàng cần phỉ tiếp tục giảm tỷ lệ nợ
quá hạn xuống mức thấp hơn nữa, nhất là tỷ lệ nợ quá hạn đối với tín dụng trung và dài
hạn.
Điều đó cũng có nghĩa là trong công tác cho vay trung và dài hạn ngân hàng còn có
những tồn tại chưa tốt cần phải được khắc phục trong thời gian tới để chất lượng tín
dụng trung và dài ngày một nâng cao hơn nữa.
Ngoài ra khi xem xét chất lượng tín dụng trung và dài hạn chúng ta còn phân tich
đến nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi so với tổng dư nợ của ngân hàng.
Nợ khó đòi của sở I trong những năm vừa qua là khá thấp, cụ thể là tỷ lệ nợ khó đòi
trên tổng dư nợ thường thấp năm 2000 là 0,085%, số tuyệt đối khoảng 6.975 triệu đồng,
sau đó năm 2001 tăng lên là 0,086%, năm 2002 lại giảm xuống chỉ còn 0,084%. Qua đó
ta thấy rằng tỷ lệ nợ khó đòi của sở I khá thấp, tuy nhiên chưa ổn định đòi hỏi phải có
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
những giải pháp để giảm hơn nữa tỷ lệ nợ khó đòi trong thời gian tới. Đối với tín dụng
ngắn hạn thì tỷ lệ này cũng chưa ổn định , tuy nhiên vào năm 2002 thì nó có xu hướng
giảm mạnh chỉ còn 0,085% so với tổng dư nợ tín dụng ngắn hạn.
Điều chúng ta quan tâm nhất là tỷ lệ nợ khó đòi trong tín dụng trung và dài hạn so với
tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn và xu hướng biến động của nó trong thời gian qua.
Nhìn trên bảng ta thấy rằng tỷ lệ nợ khó đòi của tín dụng trung và dài hạn năm 2000 là
0,0837% ứng với số tuyệt đối là 4.138 Triệu đồng, sang năm 2001 là 0,0846% ứng với
4.960 triệu đồng và đến năm 2002 nó giảm xuống còn 0,0834% với con số tuyệt đối là
6.494 triệu đồng. Phân tích trên cho thấy tỷ lệ nợ khó đòi trong tín dụng trung và dài
hạn trên tổng dư nợ trung và dài hạn là khá thấp, tuy nhiên vẫn chưa ổn định và về mặt
giảm rủi ro thì càng giảm tỷ lệ này càng tốt. Ngân hàng phải có biện pháp để giảm bớt
nợ khó đòi trong thời gian tới.
Tóm lại: Trong thời gian vừa qua hoạt động của sở I NHĐT&PTVN đã đạt được những
kết quả đáng khích lệ, tổng tài sản thường xuyên tăng trưởng qua các năm, hoạt động tín
dụng an toàn, chất lượng và hiệu quả, trong đó tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn luôn
chiếm tỷ lệ cao trong tổng dư nợ, chất lượng tín dụng đã từng bước được nâng cao và

dần khẳng định vị thế của sở trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên bên cạnh nhữnh kết
quả đã đạt được ngân hàng cần cố gắng hơn nữa, tìm ra các biện pháp hữu hiệu để giải
quyết các mặt còn hạn chế nhằm làm cho họat động nói chung của ngân hàng ngày một
tốt lên, và đặc biệt là nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn trong thời gian tới.
2.3.2. Những kết quả đạt được
Thực hiện chủ chương lớn của chính phủ là mọi dự án, mọi công trình đầu tư cho sản
xuất kinh doanh đều thực hiện theo cơ chế "vay trả", xóa hình thức đầu tư bao cấp dưới
dạng cấp phát cho các công trình sản xuất kinh doanh trước đây. Ngân hàng đầu tư và
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phát triển Việt Nam đã phát huy nỗ lực chủ quan, vượt qua những khó khăn thử thách
của giai đoạn chuyển đổi cơ chế, nhanh chóng hoà nhập vào thị trường để tồn tại, đứng
vững và ngày càng tăng trưởng, phục vụ có hiệu quả cho đầu tư phát triển, tăng trưởng
kinh tế của đất nước. Đặc biệt từ năm 2000, sở I thực hiện kinh doanh thương mại, sau
mấy năm hoạt động đổi mới ngân hàng đã đạt được kết quả nổi bật trong hoạt động kinh
doanh nói chung và trong hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng.
Trước tình hình kinh tế -xã hội của đất nước tăng trưởng và phát triển qua các năm,
những đổi mới trong cơ chế quản lý, điều hành của đất nước. Sở I NHĐT&PTVN đã có
định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn phù hợp với chính sách tiền tệ cuả Đảng và
nhà nước, về mọi mặt kinh doanh ngân hàng nói chung, công tác tín dụng trung dài hạn
nói riêng đáp ứng yêu cầu bức thiết của nền kinh tế và bản thân Ngân hàng.
Từ những định hướng đó, Ngân hàng không ngừng đổi mới mô hình tổ chức pháp lý,
quy chế nghiệp vụ tương đối kịp thời và đầy đủ, tạo lập được hành lang pháp lý để điều
hành chỉ đạo thực hiện công tác tín dụng có chất lượng hiệu quả.
Trong những năm qua tín dụng trung dài hạn đã thực hiện phương châm đổi mới cơ chế,
lĩnh vực đầu tư kinh tế theo chiều sâu. Tín dụng trung dài hạn nhằm cung ứng vốn cho
các doanh nghiệp có tiềm năng mở rộng phát triển sản xuất mà thiếu vốn cần vay vốn để
đầu tư mở rộng sản xuất trong thời gian ngắn mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất là trong
giai đoạn hiện nay các doanh nghiệp đang cần đổi mới thiết bị công nghệ, thì hình thức
tín dụng trung dài hạn là một giải pháp đúng đắn để chuyển hoạt động của các đơn vị
kinh tế quốc doanh từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh, góp

phần tháo gỡ khó khăn, thực sự trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho các
đơn vị kinh tế.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Sở I đã thực sự trở thành bạn hàng của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế,
với chính sách khách hàng: ngân hàng xác định mọi hoạt động của ngân hàng khởi đầu
từ khách hàng, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm mục tiêu hoạt động của mình.
Ngân hàng thực hiện tiếp cận doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ tín dụng
theo đúng quy định, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn thành sớm các thủ tục
xin vay được nhanh chóng, thuận lợi. Thực hiện phương thức giao dịch một cửa, tránh
gây phiền hà cho doanh nghiệp trong liên hệ vay vốn, xây dựng uy tín ngân hàng, tiếp
tục phát huy vị thế chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển. Ngân hàng đã nỗ lực
vượt bậc phục vụ đầu tư phát triển, thực hiện CNH, HĐH, hoàn thành nhiệm vụ kế
hoạch tín dụng đầu tư phát triển do nhà nước giao, tập trung vốn cho các công trình, dự
án trọng điểm của nhà nước. Đồng thời nâng cao vai trò chủ quản của ngân hàng đối với
những khoản vay nằm trong kế hoạch Nhà nước.
Đối với mọi dự án đầu tư, ngân hàng đều thực hiện nghiêm túc việc lập hồ sơ xét duyệt
cho vay theo quy định được ban hành của các cấp có thẩm quyền. Nâng cao hiệu quả
công tác thẩm định dự án, phân tích tín dụng, để tìm ra những rủi ro tiềm ẩn, loại trừ
những dự án kém hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn vốn cho
ngân hàng. Bên cạnh đó trong quá trình cho vay, ngân hàng tiến hành thực hiện kiểm
tra, gồm cả kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, mỗi khoản vay đều có người chịu
trách nhiệm từ cơ sở đến TW tuỳ từng mức độ khác nhau.
Ngân hàng đã lựa chọn được những cán bộ đủ đức, đủ tài, nhiệt tình công tác vào những
công trình trọng điểm, những khó khăn, tạo điều kiện giúp khách hàng, tư vấn cho
doanh nghiệp trong thời gian ngắn nhất để đưa các công trình vào sản xuất kinh doanh
có hiệu quả mang lại lợi ích cho cả hai bên, ngân hàng và khách hàng. Để tạo nguồn vốn
cho tín dụng trung dài hạn ngân hàng đã khai thác triệt để nguồn vốn huy động. Ngân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hàng coi chính sách nguồn vốn là một trong các chính sách quan trọng quyết định sự
thành công của ngân hàng, tạo vốn là khâu mở đường cho mọi hoạt động kinh doanh

nên đã nỗ lực tạo một mặt bằng vốn vững chắc, ngày càng tăng trưởng kể cả VNĐ và
ngoại tệ. Ngân hàng thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn bằng việc đa dạng hoá các hình
thức, biện pháp và các kênh huy động vốn trong và ngoài nước, chú trọng tăng tỷ trọng
vốn trung dài hạn thông qua việc phát hành kỳ phiếu , trái phiếu, tăng tiền gửi và tiền
tiết kiệm dài hạn trong dân cư, khai thác nhiều nguồn tài trợ trung dài hạn của các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế phục vụ cho đầu tư phát triển.
Ngân hàng tích cực thay đổi cơ cấu cho vay trung dài hạn các ngành kinh tế, chủ yếu
hướng vào các ngành công nghệ cao, các ngành mũi nhọn, các ngành chế biến nông sản
làm hàng xuất khẩu, phục vụ phát triển kinh tế.
Trong năm 2002 vừa qua, Ngân hàng giữ vững và phát huy tốt vai trò chủ đạo trong đầu
tư phát triển, chủ động khai thác vốn, tập trung vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm của
nhà nước, lựa chọn các dự án khả thi hiệu quả để đầu tư, đối với những dự án đầu tư mà
đang gặp khó khăn, Ngân hàng đã có những biện pháp tháo gỡ xử lý cụ thể, đồng thời
có đề xuất với chủ dự án, cơ quan chủ quản các cấp để giải quyết.
Hoạt động kinh doanh tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng, thực hiện chính sách huy
động vốn tích cực, tăng đáng kể tỷ trọng huy động tiền gửi trong tổng tài sản nợ, hoạt
động tín dụng, trong đó tín dụng trung dài hạn được củng cố chấn chỉnh, đảm bảo an
toàn hơn, giảm đi phần nào tỉ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi. Các hoạt động kinh doanh khác
tiếp tục được củng cố mở rộng và mức sinh lời từ các hoạt động này được tăng lên.
Từng bước tạo lập nền tảng trên tất cả các lĩnh vực (nguồn vốn tín dụng, dịch vụ và
công nghệ, quản trị điều hành) tạo thế và lực mới để sở tiến tới hội nhập quốc tế, theo
yêu cầu và tiêu chuẩn của một ngân hàng hiện đại, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, trong hoạt động của ngân hàng vẫn còn
nhiều khó khăn, tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục trong đó hoạt động tín dụng trung
dài hạn còn tồn tại những vấn đề liên quan đến chất lượng tín dụng cần phải giải quyết.
2.3.3. Những vấn đề còn tồn tại
Trong thời gian vừa qua, các hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng trung và dài
hạn nói riêng đã được sở I hết sức qua tâm và thường xuyên đưa ra các giải pháp để xử
lý song trong quá trình hoạt động vẫn có những khó khăn tồn tại cần phải được giải

quyết trong thời gian tới, những khó khăn này có thể xuất phát từ nguyên nhân chủ
quan hoặc nguyên nhân khách quan nhưng dù từ nguyên nhân nào thì chúng đều gây
khó khăn trở ngại cho ngân hàng.
a. Khó khăn trong huy động vốn:
Hiện nay, tăng trưởng nguồn vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn huy động từ dân
cư, từ các tổ chức kinh tế được ngân hàng coi là nhiệm vụ hàng đầu, là vấn đề cấp bách
trước mắt và là chiến lược lâu dài cần phải được giải quyết. Công tác đó có ý nghĩa vô
cùng quan trọng và được ngân hàng coi là khâu mở đầu cho hoạt động kinh doanh của
mình. Để huy động được vốn thì phải đảm bảo lợi ích của người gửi tiền, lãi suất huy
động cao nhưng cho vay đầu tư cuùng với lãi suất cao thì các doanh nghiệp không chấp
nhận được. Đây là vấn đề khó khăn , tạo ra sức ép lớn đối với sở I NHĐT&PTVN trong
khi phải giữ vững và phát huy vai trò của một ngân hàng chủ đạo trong phục vụ đầu tư,
phát triển.
Tuy nhiên về thu hút vốn đó còn một số khó khăn cần khắc phục:
+ Cơ cấu vốn theo thời gian chưa hợp lý: Hiện nay nguồn vốn để sở I huy động đẻ cho
vay chủ yếu là vốn thu hút từ dân cư, các tổ chức kinh tế và các nguồn tài trợ uỷ thác
của nước ngoài, nhưng tỷ trọng vốn trung và dài hạn huy động được so với tổng nguồn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
vốn huy động còn thấp, do vậy chưa đáp ứng được kế hoạch vốn cho vay trung và dài
hạn của ngân hàng, khiến ngân hàng thường xuyên phải sử dụng các khoản vốn ngắn
hạn để cho vay trung và dài hạn, tình hình này ít nhiều đã gây ra những khó khăn trở
ngại cho hoạt động của ngân hàng trong qúa trình thực hiện các kế hoạch về tín dụng,
đồng thời cũng gây khó khăn cho khả năng thanh toán của ngân hàng.
+ Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn trung và dài hạn còn chưa cao điều này gây ra tình
trạng mất cân đối trong nguồn vốn trung và dài hạn so với tổng nguồn vốn huy động
vẫn còn kéo dài trong thời gia tới, vì vậy các khó khăn về vốn truung và dài hạn có thể
sẽ là vấn đề trong nhiều năm sau của ngân hàng.
+ Trong vốn huy động bằng ngoại tệ lại chủ yếu là USD, do vậy khi ngân hàng cho vay
vốn bằng ngoại tệ để thực hiện kế hoạch đầu tư trong nước nhằm tạo ra các sản phẩm
thay thế hàng nhập khẩu, trong khi tỷ giá thường xuyên thay đổi lớn (tỷ giá hiện nay có

xu hướng tăng lên) làm cho các rủi ro về tỷ giá tăng lên đối với ngân hàng và khách
hàng. Khi đó khách sẽ khó khăn để trả vốn bằng USD cho ngân hàng. Tình trạng này
xuất phát từ yếu tố sùng đôla của người dân Việt nam, và tâm lý sợ đồng việt nam sẽ
mất giá trong thời gian tới nên nhiều người đã tăng cường mua đôla để tích trữ dẫn đến
giá đôla tăng lên gây bất lợi cho ngân hàng trong thực hiện các khoản tín dụng.
b. Về công tác tín dụng của ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn trong thời gian qua đã có
những thành công bước đầu song vẫn gặp phải một số trở ngại sau đây.
Hiện nay hầu hết các ngân hàng đều có xu thế tập trung các khoản tín dụng trung
và dài hạn vào các tổng công ty lớn do vậy xẩy ra tình trạng cạnh tranh nhau rất khốc
liệt về lãi suất, khả năng thông thoáng về mặt giấy tờ thủ tục trong hoạt động xét duyệt
cho vay, đơn giản hoá việc thẩm định tình hình các doanh nghiệp và các dự án xin vay
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
vốn nhằm dành dật khách hàng về mình, tình trạng này diễn ra đặc biệt nhiều trong
khi xây dựng các dự án lớn, các dự án mới, dẫn đến tình trạng rủi ro của các khoản tín
dụng tăng lên đây là khó khăn thử thách cho ngân hàng.
Kết quả thực thi chính sách tín dụng, chính sách khách hàng mới chỉ là bước đầu.
Công tác tiếp thị tìm kiếm khách hàng tốt, tìm kiếm dự án hiệu quả, khai thác thị trường
ở trong nước còn nhiều khó khăn, nhất là đòi hỏi của hoạt động ngân hàng trong cơ chế
thị trường. Những định hướng chính sách đề ra chưa triển khai được còn nhiều bất cập,
các hình thức tín dụng còn nghèo nàn, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn bỏ ngỏ,
chưa được ngân hàng khai thác đầu tư, chưa kết hợp chặt chẽ giữa tín dụng với các dịch
vụ ngân hàng.
Sự thiếu thông tin trong đầu tư đặc biệt là sự gắn kết cân đối giữa quy hoạch ngành
và lãnh thổ , tao ra sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu dẫn tới hiệu quả kinh tế hiệu
quả đầu tư thấp. Đây là lý do khiến nhiều dự án đầu tư trung và dài hạn ở nhiều khu vực
lãnh thổ không đạt hiệu quả như dự kiến, sản phẩm tiêu thu kém, giá thành còn cao gây
khó khăn cho các dự án trong sản xuất kinh doanh.
Về yếu tố pháp lý, hành lang pháp lý , chính sách chế độ ban hành chưa kịp thời
chưa phù hợp với điều kiện hiện tại. Nhiều chính sách của nhà nước trong đầu tư xây

dựng cơ bản còn chậm được ban hành hướng dẫn, chậm được sửa đổi, bổ sung gây khó
khăn cho doanh nghiệp. Nhiều chính sách còn thiếu đồng bộ nhất là những chính sách
về thuế, chính sách xuất nhập khẩu, đấu thầu, chọn thầu cũng gây khó khăn cho việc
thực hiện các dự án đầu tư hay quá trình chuẩn bị đầu tư bị chậm trễ. Ngoài ra những
văn bản hướng dẫn quy chế , quy trình tín dụng của ngân hàng đầu tư trung ương chưa
đầy đủ, thiếu chặt chẽ, còn nhiều bất cấp giữa văn bản chế độ và thực tế phát sinh gây ra
những khó khăn cho sở trong quá trình xử lý các nghiệp vụ phát sinh.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×