Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Về khái niệm Văn học pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.67 KB, 8 trang )

Về khái niệm Văn học
“Chủ nghĩa lãng mạn”, cũng như những khái niệm tương tự khác, phản ánh hiện thực của
nhiều tầng vỉa được hình thành trong thơ, trong văn học. Nhờ phản ánh được các sức mạnh
tác động lẫn nhau trong văn học và trong lịch sử, khái niệm ấy không để cho các nhà
nghiên cứu văn học sử dụng tuỳ tiện. Nó “gắn” chặt với lịch sử, với nhân dân trong lịch sử
của nó. Cần cố gắng nghiên cứu thật kĩ cái khái niệm lúc nào cũng mở ra quang cảnh hiện
thực của văn học, sự phát triển của nó, chỉ bằng cách nghiên cứu, suy ngẫm thật thấu đáo
về khái niệm ấy mới có thể làm sáng tỏ và hoàn thiện nó. Huống chi, đặc điểm nổi bật của
khái niệm “chủ nghĩa lãng mạn” như nó được tiếp nhận trong lịch sử văn hoá Đức là nó có
đủ các loại yếu tố không tương thích, nó chứa đựng nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn lộ ra bên
ngoài và mâu thuẫn tiềm ẩn. Một trong những sự không tương thích lúc nào cũng đập vào
mắt ta là sự phát triển so le của chủ nghĩa lãng mạn trong thơ và trong nhạc, một sự so le
khó có thể xem là thoả đáng. Nếu quả thật vở nhạc kịch “Xạ thủ thần kì” của Weber được
trình diễn vào năm 1821 là tác phẩm âm nhạc tràn trề sức sống đầu tiên của Đức, thế thì
làm gì đây với nhạc không lãng mạn của “nhà lãng mạn” Hoffman (nhiều người cho chẳng
có cơ sở xác đáng để bảo rằng ông là đại diện chủ yếu, là biểu tượng của toàn bộ chủ nghĩa
lãng mạn Đức)? Làm gì đây với một Beethoven hoàn toàn không lãng mạn, nhưng ông lại
được tất cả các nhà lãng mạn chúng khẩu đồng từ thừa nhận là nhà lãng mạn? Sẽ làm gì
đây với Richard Wagner, người đã sáng tạo hàng loạt tác phẩm khi chủ nghĩa lãng mạn
trong văn học đã trở thành tài sản của quá khứ?
Rõ ràng, chủ nghĩa lãng mạn và những khái niệm gần gũi với nó tuy cùng họ tộc mà
khác nhau cành nhánh, không đồng nhất. Ở đây không thể chỉ sử dụng một nguyên tắc lô
gíc hình thức để phân định phạm vi các khái niệm. Gộp tất cả các khái niệm ấy lại với
nhau cũng không sao thực hiện được một quy tắc tối ư đơn giản: sao cho biên giới quốc
gia không được chạy xuyên qua lãnh thổ nước láng giềng và chỉ giới đất đai không ăn léo
sang ruộng nhà hàng xóm. Những gì chẳng phải là thơ sẽ là văn xuôi, và ngược lại, những
gì không phải là văn xuôi, ắt sẽ là thơ. Nhưng không thể vận dụng cái bài học cũ mèm ấy
vào đây để nói: chẳng phải là chủ nghĩa lãng mạn thì chỉ có thể là chủ nghĩa cổ điển hoặc
chủ nghĩa hiện thực v.v… Ai cũng biết, nhiều hiện tượng nghệ thuật thường tồn tại ở nơi
mép giới và chúng chẳng thích thú gì khi bị đụng chạm tới. Tất cả khái niệm ta đang bàn
luận ở đây, khái niệm nào cũng là tên gọi của những tầng vỉa lịch sử văn học, khái niệm


nào cũng chỉ ra các tầng vỉa ấy, và từ chiều sâu của cấu trúc nội tại, nó xa lạ với mọi thứ lô
gíc hình thức.
Các tầng vỉa của lịch sử văn học được quy định bởi lô gíc vận động sống động của
lịch sử, lí luận văn học đào sâu, nghiên cứu để nắm bắt lô gíc ấy. Không ai nghi ngờ, rằng
có một hạt nhân duy lí đang điều khiển lịch sử và lịch sử bao giờ cũng có lí lẽ riêng, nhưng
đó không phải là lí lẽ cho phép đưa ra những định nghĩa lô gíc hình thức theo kiểu “dựa
vào loại mà phân biệt thể”.
Không thể đưa ra định nghĩa về chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa cổ điển hay chủ
nghĩa barocco bằng lô gíc hình thức. Thế mà vẫn có một sai lầm hết sức phổ biến, đó là cái
yêu cầu thấy cứ lặp đi lặp lại, là đòi hỏi phải đưa ra cho bằng được một định nghĩa về chủ
nghĩa lãng mạn, hay chủ nghĩa barocco, v.v… Thông thường, những người yêu cầu đưa ra
định nghĩa về chủ nghĩa lãng mạn, về barocco, v.v… thường chỉ có thể hình dung trong
đầu một định nghĩa lô gíc hình thức, chẳng hạn: “Chủ nghĩa lãng mạn là một khuynh
hướng (trào lưu…) có những dấu hiệu khác biệt như thế này…, có những đặc điểm nổi bật
như thế kia…”. Mọi cố gắng tìm kiếm nhằm mục đích cuối cùng là đưa ra một định nghĩa
như thế đều chỉ có một kết cục, ấy là sự ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì mãi vẫn không rút ra
được định nghĩa nào cả. Mà có rút ra được thì còn ngạc nhiên hơn, bởi rất nhiều nhà lãng
mạn tiêu biểu sẽ chẳng muốn tuân phục cái định nghĩa “đúng đắn” ấy. Có một sự hẳn
nhiên mang theo những đặc điểm rất khác luôn luôn vận hành trong dòng chảy lịch sử. Nó
định trước cho ta phải hiểu các hiện tượng này hay hiện tượng kia của văn học như thế nào.
Nó đặt cơ sở cho ta nghiên cứu các hiện tượng văn học ấy. Những cách hiểu được định
trước ấy sẽ trở thành tư liệu cho nhận thức lí luận, một quá trình nhận thức chẳng bao giờ
dừng lại, ngày một lớn lên. Sự hẳn nhiên ấy vẫn thường làm cho những hiện tượng rất xa
nhau xích lại với nhau, chúng chỉ xa nhau vì được nhìn bằng đôi mắt của người đứng
ngoài, đôi mắt tĩnh tại chẳng bao giờ thấy được các hiện tượng trong dòng chảy lịch sử đầy
sức sống, nhưng các hiện tượng xa nhau trong con mắt tĩnh tại, con mắt của người đứng
ngoài, xa nhau vì được tiếp cận bằng lô gíc hình thức lại hoàn toàn có thể thống nhất với
nhau bởi những tuyến phát triển và kế thừa, tái tạo và biến đổi mang tính di truyền từ trong
bản chất, những tuyến ấy sau một vài thế kỉ muốn phát hiện thật không đơn giản và rất dễ
bị bỏ qua, nếu người ta không cân nhắc kĩ lưỡng trình tự nhận thức đối với các hiện tượng

ấy. Nhân tố tiền định lịch sử lúc nào cũng vận hành. Nó thuộc loại lô gíc cao hơn, phức tạp
hơn. Nó điều khiển toàn bộ lực lượng tự phát và đại dương lịch sử bao la.
Lạc vào giữa sức mạnh tự phát và đại dương mù mịt của các hiện tượng văn học
như thế, ta sẽ chẳng hiểu được gì cả, mọi sự sẽ rối tung rối mù, nếu lí luận chỉ có trong tay
một đống những dữ liệu trừu tượng, bị tách khỏi lí thuyết, nhưng chưa được sắp xếp theo
một trật tự nào cả. Và tiếp theo, nếu lí luận văn học không nắm được điểm khởi đầu của
các hiện tượng văn học, nếu nó không cắm được rễ sâu vào đó, và nếu như bản thân tác
phẩm văn học không phải là lí luận, không phải là sự ghi lại dấu ấn của tư duy, là sự kết
tinh của tư tưởng thường xuyên truy vấn bản thân, là hành vi nhận thức lịch sử. Bản thân
dòng chảy lịch sử sinh ra lí luận, chia tách tiến trình văn học thành các tầng vỉa, không cần
đến những thao tác, thủ pháp định nghĩa và phân loại theo lô gíc hình thức.
Giả thử không có một thứ lí luận sống động như thế, giả thử tiến trình văn học sống
động không thường xuyên làm nẩy sinh lí luận, thì sẽ chẳng có một chuyên gia nào có thể
làm được một điều gì đó với lịch sử văn học, sẽ chẳng có một nhà nghiên cứu nào dẫu giỏi
giang đến đâu trong những kiến tạo lô gíc hình thức có thể phân tích thấu đáo các hiện
tượng văn học, dẫu nhà nghiên cứu có tài cầm cân nẩy mực đo cắt thế nào, thì trước mắt
anh ta, lịch sử văn học vẫn chỉ là một đống tư liệu chết cứng. Và nếu thế thì tất nhiên chỉ
còn mỗi việc là đem cỗ máy lô gíc hình thức ra mà sử dụng để sắp xếp, tổ chức thế nào đó
cái đống tư liệu chết cứng ấy. Và chẳng còn chút mảy may nghi ngờ rằng: ngay bây giờ,
nhiều nhà nghiên cứu văn học, nhất là ở phương Tây, đã tiến sát tới chỗ chỉ nhìn thấy trong
tư liệu của một nền văn học nào đó một đống vật liêu chết cứng - với họ, lịch sử đã mất hết
ý nghĩa, dồn lại thành một mớ hỗn độn, các mối liên hệ thời gian bị đứt tung, họ đầy hoài
nghi, coi thường hình thức truyền thống hữu cơ đã hình thành của lịch sử văn học, họ
muốn tổ chức tư liệu “thật sự khoa học”, muốn xây dựng bằng cách phá huỷ tất cả. Đúng
là đã có một thời gian rất dài, dễ đến mấy thế hệ, trong con mắt các nhà lí luận và nhà lịch
sử văn học lúc nào cũng chỉ chăm chắm nghĩ tới sự chính xác khoa học, thì đây rồi, khoa
học về văn học, rốt cuộc, chỉ còn tí tị nữa thôi là hoá thành khoa học đích thực. Cái giá mà
họ sẵn sàng trả cho điều đó là sự cắt đứt với gốc rễ sống động của văn học vốn dĩ có khả
năng tự nhận thức trong quá trình lịch sử của mình, là sự thay thế yếu tố tiền định lí luận
lúc nào cũng lộ ra từ chiều sâu sinh động của tư liệu văn học bằng những thao tác cơ giới,

bằng lô gíc hình thức vờn đuổi từ phía bên ngoài.
Tham vọng tìm ra cho chủ nghĩa lãng mạn hay chủ nghĩa barocco một định nghĩa
cứu nguy cũng giống với những thao tác như thế,- nhà nghiên cứu muốn có trong tay một
cái gì thật đơn giản cho phép anh ta khám phá những dữ liệu phức tạp, rối rắm của lịch sử
văn học một cách cơ giới, gần như tự động, chứ không cần phải bỏ một chút cố gắng nào
của cá nhân anh ta. Đều là con người với nhau, chuyện đó có gì khó hiểu đâu! Nhiều nhà
nghiên cứu lịch sử âm nhạc chẳng bao giờ thích nghe thứ âm nhạc mà họ nghiên cứu,- họ
chán ngấy thứ âm nhạc ấy, và để giải trí, họ có thể nghe một thứ âm nhạc nhẹ nhàng hơn,
đơn giản hơn; thứ âm nhạc mà họ có nhiệm vụ phải nghiên cứu, với họ, nó chỉ là một thứ
vật liệu khoa học khách quan, thế là trong họ có sự kết hợp tuyệt vời một học giả và một
thính giả xuề xoà. Cũng chẳng có gì trái tự nhiên khi người ta muốn đơn giản hoá tư liệu
nghiên cứu của mình, chẳng hạn, người ta muốn lấy thứ lô gíc đơn giản, lô gíc “học trò” ai
cũng biết từ trên ghế nhà trường để thay cho lô gíc lịch sử văn học rất phức tạp, còn chưa
được nghiên cứu. Trong đời sống khoa học, ý muốn đơn giản hoá, sơ đẳng hoá như thế
bao giờ cũng tồn tại cùng với những đam mê khác, mạnh hơn, và có lẽ cao hơn…
Ta còn biết một khuynh hướng ngược lại, ấy là sự ưa thích tính giản dị đầy hư tạo
trong định nghĩa mà hàng trăm chuyên gia nghiên cứu chủ nghĩa lãng mạn đã hiến tặng
cho thế giới để rồi bị chính họ lại bác bỏ, vì chúng (cứ như chơi khăm!) đều không đạt yêu
cầu. Khuynh hướng đối lập này nói lên sự mê đắm của những người thành tâm yêu văn
học đối với sự giàu có và đa dạng vô hạn của nó. Cách đây không lâu, một giáo sư văn học
người Mĩ rất yêu sách vở nói rằng, ông đã thu thập và đọc tài liệu về barocco suốt 50 năm
mà vẫn chưa biết barocco là cái gì. Lập trường như thế rất đáng trân trọng, nó thể hiện sự
kinh ngạc trước cái cây ăn quả barocco, cái cây mà bây giờ vẫn mang đến cho chúng ta
những trái ngọt rất mới, những trái chưa từng thấy hoặc bị bỏ quên. Nhưng nếu chỉ dừng
lại ở sự ngạc nhiên không thôi thì vẫn chưa đủ đối với lí luận khoa học - dẫu có thế nào thì
lí luận vẫn buộc phải trả lời câu hỏi: đó là cái gì?
Lí luận khoa học có thể làm được việc ấy bằng những con đường nào? Chắc chắn
là phức tạp chứ không thể đơn giản. Cần phải trông cậy vào sự chính xác của từ, chứ
không thể trông cậy vào sự đơn giản của định nghĩa. Phải dựa vào sự chính xác của từ có
khả năng miêu tả, đủ sức làm rõ đặc trưng, chứ không phải là sự đơn giản của định nghĩa

lô gíc hình thức. Chỉ có thể trông cậy vào sự chính xác của từ có đủ khả năng khám phá
sự độc đáo của mỗi hiện tượng, nắm bắt và chiếm lĩnh được bản chất của nó. Loại từ ngữ
chính xác ấy hấp thụ và bảo quản tính phức tạp vô tận có thật của các hiện tượng. Loại từ
ngữ ấy chuẩn xác và thiết thực, - nó không chạy theo cái màu mè chỉ cốt gây ấn tượng,
mà từ trong bản chất nó xích lại gần với ngôn từ thi ca,- cái ngôn từ thi ca tái tạo hiện
tượng bằng hình tượng, khôi phục bằng chính phương thức, phương tiện của mình, làm
cho hiện tượng như hiện lên trước mắt.
Đó mới chỉ là bước đầu tiên, chứ không phải là cái chính yếu. Nó mới chỉ là điều
kiện sơ bộ, chứ không phải bản chất. Đối với lô gic hình thức, sự thống nhất hữu cơ của
một tầng vỉa lịch sử văn học chẳng qua chỉ là thứ tạp chủng, thiếu vắng tính toàn vẹn.
Song trong lịch sử tự nhiên, các tầng vỉa không bị chia cắt bởi biên giới quốc gia hay cột
mốc lãnh địa, tuy thế chúng vẫn tự giới hạn, chế định lẫn nhau, mỗi tầng vỉa có đặc điểm
riêng, bản chất riêng của mình. Các khái niệm kiểu như “chủ nghĩa lãng mạn”, “chủ nghĩa
cổ điển”, “barocco” đều mang tính ngẫu nhiên, ngẫu nhiên trước hết vì chúng không lệ
thuộc vào một lô gíc rõ ràng , dễ theo dõi nào cả. Ngẫu nhiên bởi vì chúng chứa đụng
nhiều căn cứ khác nhau, tựa hồ như trong tiến trình lịch sử khi thì chúng “vớ” lấy cái này,
lúc chúng lại “chộp” được cái kia. Ngẫu nhiên còn bởi vì chúng không thu hút vào mình
toàn bộ bản chất hẳn nhiên của hiện tượng, và chúng có đặc điểm nổi bật là thường gắn với
nghĩa của từ nguyên rất kỳ cục. Chúng vừa ngẫu nhiên, vừa đầy tính ước lệ. Chúng gìn giữ
tính “ước lệ” ấy, khắc sâu dấu ấn nguồn cội của mình và không biến thành những thuật
ngữ khoa học “thuần tuý”. Chúng không phải là những chiếc chìa khoá để mở ra các hiện
tượng văn học. Có thể xem chúng là những cặp mắt kính thì đúng hơn. Mỗi tầng vỉa của
lịch sử văn học cần có cặp mắt kính riêng phù hợp với nó, nhờ đó mà ta có thể nhìn rõ hơn,
hiểu biết được nhiều hơn. Mặt khác, tất cả các khái niệm ấy đều là tất yếu, cần thiết và
không thể thiếu. Chúng là con đẻ tự nhiên của quá trình phát triển văn học, một quá trình
thường xuyên tự ý thức, đồng thời cũng thường xuyên nhận thức bản thân trong lí luận -
trong lịch sử khoa học về văn học.
Nhiệm vụ của khoa học không phải là xác định từng khái niệm riêng lẻ mà là xác
định tất cả các khái niệm trong tổng thể của chúng, tức là trong chỉnh thể của tiến trình văn
học (với các tầng lớp, thớ vỉa của nó). Cái chỉnh thể ấy của văn học dân tộc là giới hạn để

qua đó cả chủ nghĩa barocco, cả chủ nghĩa lãng mạn, cả chủ nghĩa cổ điển và tất cả những
khái niệm như thế tìm thấy tính xác định, chứ không phải là những định nghĩa (nếu mà về
đại thể, đây là những nền văn học mà ta có thể vận dụng các khái niệm tương tự như ta
đang làm). Với nhà nghiên cứu lịch sử và lí luận văn học, các định nghĩa hình thức không
cần thiết bằng chỉnh thể quá trình văn học, bằng trực giác và cái nhìn thấu tỏ sự phát triển,
sự đổi thay và tồn tại của văn học trong các tầng vỉa lịch sử của nó. Trực giác mà chúng ta
đang nói ở đây không phải là cái gì đó phi lí tính hay là tính chủ quan - tuỳ hứng. Ngược
lại, trực giác ở đây, trong trường hợp này là điều kiện cần thiết để hiện thực hoá nguyên tắc
lô gíc, nguyên tắc hợp lí của lịch sử văn học. Đó là trực giác của nhà nghiên cứu am hiểu
tinh tường lịch sử văn học và gắn liền với nó là lịch sử nghiên cứu văn học. Với một nhà
nghiên cứu như thế, các tầng vỉa của lịch sử văn học hiện ra không giống một cái gì đó có
tính cơ giới, bị chia nhỏ từ phía bên ngoài, hoàn toàn mang tính ước lệ, mà giống như một
hiện thực đầy trương lực, một sự cộng sinh của các bản chất được tích điện bởi năng lượng
bên trong, có hạt nhân ý nghĩa được hiển lộ trong lịch sử.
Những người am hiểu lịch sử văn học Đức cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX đều
biết các lớp ý nghĩa của thời đại trong thế mâu thuẫn và đối nghịch của chúng, trong tác
động qua lại và sự chuyển tiếp lẫn nhau đã có một sức mạnh sống động, bền bỉ như thế nào:
chúng chèn ép lẫn nhau, đấu tranh với nhau để giành giật phần ý nghĩa của mình. Chính
trong cuộc đấu tranh giành giật phần ý nghĩa thi ca - đời sống đầy mới mẻ này, cái tầng vỉa
văn học mà sau đó muộn hơn một chút được gọi là “chủ nghĩa lãng mạn” đã hình thành
như chúng ta thấy, trong cục diện ấy, Hölderlin chẳng hạn đã không xuất hiện trên văn đàn
trong tư cách một nhà lãng mạn chủ nghĩa, mà là nhà cổ điển chủ nghĩa; cố nhiên, hoàn
toàn có thể và cần thiết phải khảo sát và xác định cặn kẽ bản chất sáng tác của Hölderlin,
phải nghiên cứu sự tác động qua lại của ông với chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng mạn,
chứ không thể dừng lại ở việc gắn nhà thơ với một tầng vỉa nào đó như thế (vì đó mới chỉ
là sự “đóng mác” thôi). Trong văn học, các lực lượng sống động của lịch sử bao giờ cũng
tự nói về mình, chúng tìm thấy ở đấy sự thức nhận đặc biệt về bản thân; các tầng vỉa của
lịch sử văn học đang hình thành như thế nào, đọng lại thành cái gì - trong chuyện đó cũng
có ngôn ngữ của bản thân lịch sử, mà ngôn ngữ của lịch sử thì rất đáng phải nghiên cứu
như nó vốn có; các thuật ngữ - nhãn mác, các khái niệm được kiến tạo một cách thô sơ,

những đồng tiền đổi chác của loại nghiên cứu văn học tư duy theo kiểu giáo điều, nguỵ lí
thuyết chẳng thể đánh tráo vào vị trí các từ ngữ của bản thân lịch sử, tức là các từ ngữ đã
được phản ánh vào sự tự nhận thức của văn học và vào lịch sử của khoa học về văn học.
Trực giác dựa trên nền tảng tri thức về hành trình toàn vẹn của lịch sử văn học
không đơn giản chỉ là sự hiểu biết về các bình diện xác thực của các quá trình, mà là năng
lực nhìn chúng thấu vào tận bên trong ở một mức độ nào đó, là sự cảm nhận năng lượng
của lịch sử. Tầm nhìn lí thuyết bao quát cái chỉnh thể bao giờ cũng thấu triệt lô gíc của
lịch sử và lô gíc của khoa học, thu hút chúng vào bản thân, nhờ thế nó tìm cách cân đối,
định giới, minh định các tầng vỉa lịch sử văn học. Chỉ khi đó chủ nghĩa lãng mạn, chủ
nghĩa cổ điển và bất kì một tầng vỉa nào khác của lịch sử văn học mới hy vọng tìm được
tính xác định đích thực phù hợp với lô gíc phát triển của cái chỉnh thể. Dẫu trong thực tế,
tri thức của chúng ta mang tính cục bộ, và câu chuyện có thể bàn chỉ là khả năng đến gần
với chân lí lịch sử, chứ không phải là sự “xét đoán” chân lí một cách trực tiếp. Tuy nhiên,
nếu nói thuần tuý phủ định, thì nhận thức trực giác đối với sự phát triển sống động của văn
học có nghĩa là không thể nào hiểu được tính cụ thể của sự phát triển lịch sử bằng những
khái niệm có sẵn, được diễn biến một cách trừu tượng, cũng như, không thể lấy các khái
niệm trừu tượng để thay thế lí luận đích thực - lí luận theo ý nghĩa cổ xưa và ý của Goethe.
Lí luận văn học không thể và không có quyền đưa ra một câu trả lời đơn giản cho
câu hỏi “đó là cái gì?” (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực, v.v…).
Về nguyên tắc, muốn trả lời câu hỏi đơn giản ấy, lí luận không thể không mời gọi người
cật vấn tham gia một chuyến du hành đại dương vòng quanh thế giới (nếu so sánh tổng thể
quá trình phát triển của văn học dân tộc với toàn bộ “thế giới”). Tò mò thì phải trả giá,
chẳng lẽ không đúng vậy sao đối với mỗi lĩnh vực khoa học? Một người vừa học tính một
cách dễ dàng có thể phải rất nhiều năm sau mới ngộ ra, rằng khái niệm “số” khó thế nào
và định nghĩa “số” phức tạp ra sao. Nhưng khó khăn ấy không thể là lí lẽ để có thể xem kĩ
năng tính toán là chính lí thuyết số.
Sự hiểu biết mang tính tương đối của chúng ta về những quy luật của quá trình phát
triển lịch sử văn học là nguyên nhân và cũng là kết quả của một thực tế thế này: bản thân
“quá trình phát triển” không bao giờ có thể được khách thể hoá trước mắt chúng ta như
một cái gì đó hoàn kết, không bao giờ trở thành một đối tượng thuận tiện cho việc xem xét

và nghiên cứu,- nó mãi mãi vận động và biến đổi. Tính tương đối của sự hiểu biết còn là lí
do giải thích, vì sao chúng ta chỉ có thể tiến lại gần, chứ không thể nào đạt tới sự hiểu biết
chính xác, vì sao chúng ta phải thường xuyên sửa đổi, tu chính. Tính tương đối trong hiểu
biết còn có nguyên nhân ở sự thiếu hoàn kết của quá trình phát triển. Sự phát triển không
thể kết thúc chẳng phải là vì nó còn chưa tiến tới điểm tận cùng, mà chỉ bởi vì mỗi giai
đoạn vừa qua của nó đều là điểm khởi đầu của một quá trình nhận thức, giác ngộ, suy
ngẫm chẳng bao giờ chấm dứt. Lịch sử quá khứ chẳng bao giờ tự kết thúc trong bản thân,
nó là cái từ lâu đã qua, đã trải nghiệm, nhưng không bao giờ biến mất vô tăm tích. Lịch sử
thường xuyên được sống lại, được nhận thức lại, nó luôn luôn được tìm hiểu và đánh giá.
Trong lí luận văn học cũng như trong các khoa học khác, người quan sát thường xuyên có
mặt và giữ một vai trò quan trọng. Nhưng so với khoa học tự nhiên thực nghiệm, trong
khoa học lịch sử, vai trò của người quan sát vẫn có một điểm khác. Trong lịch sử văn hoá,
người quan sát là một bộ phận không thể tách rời của quá trình được quan sát, là một mắt
xích của quá trình chiếm lĩnh và nhận thức lịch sử. Người quan sát như thế là điều kiện
thiết yếu cho sự tồn tại của lịch sử văn hoá: lịch sử sẽ chấm dứt đột ngột nếu như quá trình
phản chiếu lẫn nhau giữa các lớp nghĩa bị ngưng lại, tức là ngưng lại cái quá trình miên
viễn của nhận thức và chiếm lĩnh, của suy ngẫm và khám phá. Nhà lí luận quan sát lịch sử
văn học, thông qua việc nhận thức và đánh giá các tiến trình văn học đã qua và tiến trình
đương đại, anh ta đối sánh sự hiểu biết và kết quả thu được của mình với tiến trình phát
triển của văn học dân tộc trong cái tổng thể mà anh ta đã biết, anh ta đối sánh tiến trình ấy
với quan điểm chủ quan của mình để gạt bỏ phần tuỳ tiện và sai lầm chủ quan. Lí luận văn
học thường xuyên, liên tục đổi mới cách gắn kết quá khứ với hiện tại, cái cổ xưa và cái
đang sinh thành, cái đã biết với cái chưa thật rõ, nhờ đó nó tạo nên sự thống nhất, sự liên
tục, liền mạch của truyền thống ngay trong chất liệu của mình. Lí luận văn học được phó
thác cho cả một tiến trình rất hoành tráng về quy mô - liên kết quá khứ với hiện tại trong
lĩnh vực văn học, lĩnh vực sáng tạo văn chương, làm sáng tỏ lô gíc lịch sử của nó.

×