Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tục hóa - Quay về để tiến tới ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.81 KB, 10 trang )

Tục hóa - Quay về để tiến tới
Nhân vật Thị Điểm chỉ xuất hiện trong dăm truyện, nhưng thật độc đáo,
đặc sắc, đủ để dựng nên cả một chân dung. “Nàng” xinh đẹp, trắng trẻo (“da
trắng vỗ bì bạch”), táo tợn đến ngổ ngáo (chuyện tiếp sứ thần, đối đáp khiến
đến Quỳnh cũng phải “thua chạy” bẽ bàng), nhưng vốn lại là tiểu thư khuê các
(con quan Bảng nhãn!) và vì thế hay chữ đến mức mẫn tiệp và tinh quái. Cũng
như Hồ Xuân Hương, nàng hầu như không màng quan tâm đến chuyện lễ
nghĩa, nhưng khác với Hồ Xuân Hương, nàng dường như hoàn toàn chủ động
được với số phận mình. Có thể coi Thị Điểm là một nhân vật “tràn trề ánh
sáng”, loại nhân vật nữ hiếm hoi trong văn chương truyền thống, cả trong văn
học dân gian lẫn văn học viết.
Tổ hợp truyện Trạng Quỳnh là một “chuỗi cười dài”, chính thức mở đầu
cho dãy những “truyện các loại Trạng”, các nhân vật “ngỗ nghịch” khác,
như Truyện Trạng Lợn, Truyện Ông Ó, Truyện Xiển Bột, Thủ Thiệm, Ba Giai –
Tú Xuất và nhiều những “nhân vật” khác, làm hình thành nên một bộ phận
văn học nằm ở khâu trung gian giữa văn học dân gian và văn học bác học, xét
trên tất cả các tiêu chí định tính của từng bộ phận văn học ấy.
Thơ vốn được quan niệm trước hết là để nói chí. Mà chí của nhà Nho,
nếu không phải là “tu, tề trị, bình” thì cũng là “cày mây, cuốc nguyệt”, “giấu
hương sắc lánh chơi ngoài cõi tục”. Không chỉ thơ trong khoa cử và trong văn
học chức năng, mà thơ trong các thi tập của cá nhân, của cả các danh sĩ, đều
thấm đẫm tinh thần ấy. Thơ cũng có thể để “ngôn tình”, có thể bày tỏ những
cung bậc cảm xúc và nhận thức “hưng, quan, quần, oán”, nhưng dẫu gì đi nữa,
“nùng” vẫn cứ cần “nhã, đạm”, “mạch kỵ thẳng, ý kỵ lộ”, phải tuân phục tôn chỉ
“ôn nhu, đôn hậu”. Mỹ học ngôn từ của Nho gia, nhất là ở dạng khuôn mẫu, đòi
hỏi cao khả năng của người viết nói được “ý ở ngoài lời” (ý tại ngôn ngoại).
Đã vậy, thì ẩn dụ, ngụ ngôn sẽ là những “tuyệt kỹ văn chương” sớm
được lưu tâm khai thác. Thơ đề vịnh trở thành một trong những thể tài được
ưa chuộng, khi người viết muốn nói điều gì đó khác ngoài phần hiển ngôn
đương nhiên phải bảo đảm trăm phần trăm diễn đạt sự vật được vịnh. Và Hồ
Xuân Hương đã vung bút một cách hả hê để đề vịnh. Thơ đề vịnh của Hồ Xuân


Hương chiếm tới 2/3 trong tổng số những bài thơ Nôm truyền tụng. Này thì
vịnh người, này thì vịnh cảnh, này thì vịnh vật, này thì vịnh “sự kiện”. Vịnh
người thì vịnh thế này:
Chân dung thứ nhất:
Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn,
Tối tuy không mắt sáng hơn đèn.
Đầu đội nón da loe chóp đỏ,
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen.
(Vịnh ông cử võ)
Chân dung thứ hai:
Trưa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong
(Vịnh thiếu nữ ngủ
ngày)
Lại chân dung thứ ba:
Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc, áo không tà.
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Tu lâu có lẽ lên sư cụ,
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà.
(Sư hổ mang)

Vịnh ai, thì Hồ Xuân Hương cũng tổ chức cái nhìn (vì thơ vịnh người,
vịnh cảnh, vịnh vật chủ yếu khai thác và khai quang những ấn tượng thị giác)
hướng vào “vùng nhạy cảm và điều nhạy cảm”. Hồ Xuân Hương nghiêng tai về
đâu, đưa mắt tới đâu, thì điều nghe thấy, nhìn thấy sớm nhất, rõ nhất là về “cái
ấy, chuyện ấy”, thậm chí lắm lúc cơ hồ chỉ nghe thấy, nhìn thấy “cái ấy, chuyện
ấy”. Đến tận chỗ tột cùng của tồn tại – cái chết – thức giác của người viết vẫn
cứ thở than trước hết “về chuyện ấy”:
Cán cân Tạo hóa rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
(Khóc ông phủ
Vĩnh Tường)
Thạch nhũ, trần bì sao để lại,
Quy nhân, liên nhục tẩm mang đi.
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ?
Sinh ký, chàng ơi, tử tắc quy.
(Bỡn bà lang khóc
chồng)
(Về những câu thơ, bài thơ này, do từ trước tới nay các nhà nghiên cứu,
phẩm bình thơ Hồ Xuân Hương ít bình giải nghĩa ngầm ẩn, tưởng nên dừng lại
nói qua đôi chút: người đàn ông chết đi, với người đàn bà, không chỉ cán cân,
mà cả quả cân Tạo hóa đã dành cho nàng, đương nhiên “rơi đâu mất”, khiến
“miệng túi càn khôn” (ở nàng!) cũng phải “thắt lại rồi”. Với đoạn thơ thứ hai, ẩn
đằng sau nghĩa tên các vị thuốc, thạch nhũ (nghĩa đen mặt chữ : vú đá), trần
bì (vỏ quả quýt, quả tắt) ngụ ý những bộ phận sinh dục của người vợ, vì vợ
còn sống, nên coi như người chồng “sao” (một công đoạn chế biến thuốc, đây
dùng cả nghĩa từ để hỏi) “để lại”, quy nhân (nghĩa của từ Hán Việt đồng âm:
dương vật đàn ông), liên nhục (nghĩa mặt chữ của từ Hán Việt đồng âm: liền
thịt) thuộc về chàng, nên chàng “tẩm” (cũng là một công đoạn chế biến thuốc)
rồi “mang đi” mất! Thêm nghĩa hàm ẩn, những động từ sao, tẩm được sử dụng
thật tài tình! Trao “dao cầu”, nghĩa trực tiếp là trao lại phương tiện hành nghề,

nhưng lại hàm ý tính toán chuyện tái giá để được tiếp tục chuyện hành nghề.
“Sinh ký, tử quy” (Sống gửi, thác về) vốn là một quan niệm triết học khẳng định
chuyện tạm bợ, lâm thời của đời sống, hiện diện ở ít nhất trong dăm ba triết
thuyết và tôn giáo lớn, nhưng ở đây còn mang nghĩa than tiếc người và vật cụ
thể. Từ cuối, “quy”, như đã nói, nếu là từ đồng âm, sẽ khiến câu thơ cuối cùng
không chỉ mang nghĩa triết lý đời sống).
Nhìn người, Hồ Xuân Hương nhìn bằng được ra những “con giống”, thì
nhìn vật, nhìn cảnh, nàng cũng nhìn thấy cơ man những “cái giống”.
Trong quỹ đạo cái hàng ngày, thì cái quạt, cái giếng, quả mít, con ốc nhồi,
cái trống thủng đành là có thể mang ra mà đùa giỡn. Nhưng cái “giếng ấy” ở
đầu “ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông” – một cách diễn đạt đồng dạng với giai
thoại về cuộc “đối thoại” của nhân vật “Thị Điểm”cùng viên Bắc sứ nào đó
(“Bắc quốc chư trượng phu, giai do thử đồ xuất”) - đã khiến cho thoạt kỳ thủy,
cái giếng trở thành “nghiêm trọng”, khiến người ta phải cảnh giác. Sự trong
sạch của cái giếng thơi đặt cạnh sự thanh tân của đời thiếu nữ khiến “cái
giếng” dù được đặc tả “cận cảnh, chân thực” mà không gợn lên cảm giác nhục
thể. Dẫu sao, thì đó cũng là một ngụ ngôn táo tợn:
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng
Không phải Hồ Xuân Hương đắc tội “vẽ bậy” lên các danh lam thắng
cảnh, nàng còn làm hơn thế nhiều: coi chính các danh lam thắng cảnh là
những “thứ ấy”.
Này thì hang Thánh Hóa:
Khen thay con Tạo khéo khôn phàm,
Một đố giương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp,
Lách khe nước rỉ mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,

Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am.
Đến đây mới biết hang Thánh Hóa,
Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham.
Còn hang Cắc Cớ, hơ hớ phía đối diện:
Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt ra đôi mảnh hõm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn tối om om.
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc,
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!
Hang đã vậy, động cũng “cùng cảnh ngộ”. Động Hương Tích là thứ này:
Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom!
Rõ là Hồ Xuân Hương đặt thế giới vào một lăng kính phồn thực tính
không giới hạn. Không chỉ Dệt cửi, Đánh đu là thực hiện hành vi tính giao, Tát
nước là hành vi bài tiết, Trống thủng là vì chuyện ấy, mà cả thằng Cuội, ả Hằng,
cho đến cả con Tạo cũng bị cuốn mải mê vào vòng sinh hóa:
Khéo khen ai, đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược
để đơm người đế bá
Gớm con Tạo, lừa cơ tem hẻm, rút nút xuôi cho lọt khách
cổ kim.
(Qua cửa đó)

Bởi vật vô tri mà cũng động tình (Đá ông chồng bà chồng) nên “có trách
chi” nếu người tu hành vẫn chưa ra khỏi vòng tục lụy:
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
(Kiếp tu hành)
Trở lên, theo quán tính của giới nghiên cứu trong truyền thống, tôi viết về
những sáng tác vốn được coi là của Hồ Xuân Hương như là những tác phẩm
của một tác giả cụ thể. Nhưng Hồ Xuân Hương, nhìn trong toàn thể, đặc biệt là
sau khi soi xét bộ phận thơ Nôm truyền tụng, đối chiếu với những gì đã được
văn bản hóa từ sớm một cách đáng tin cậy, cần được coi là một hiện tượng,
mà không nên, không thể chỉ là một tác giả.
Trước hết, phải khẳng định có một Hồ Xuân Hương với tư cách là một
tác giả cụ thể. Dù cho đến nay, tư liệu còn lại chưa cho phép tường trình rõ
ràng, chính xác hàng loạt điều còn tồn nghi trong thân phận và hành trạng của
con người này, thì với Lưu Hương ký mà Trần Thanh Mại đã công bố một phần,
với những bài thơ mà cố giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã phát hiện và chú giải,
với những văn liệu đó đây khi quy chiếu và tổng hợp lại, có thể khẳng định về
sự tồn tại của một nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Không chắc rằng sẽ có khả năng
làm rõ ai là Tổng Cóc, ai là ông phủ Vĩnh Tường (bởi đó chỉ là những “nhân
vật” trong thơ Nôm truyền tụng), nhưng lại hoàn toàn đủ điều kiện để xác định
về sự hiện hữu và gắn bó của một số cá thể - nhân vật lịch sử khác với nữ sĩ
này, trong đó có Nguyễn Du, Trần Phúc Hiển, Tốn Phong thị , và cả Chiêu Hổ
nữa. (Cứ như “linh cảm”, tôi cho rằng Chiêu Hổ chính là Nguyễn Du. Đó có lẽ
là một “nghi án” cần biện luận và giải thích dài dòng). Nhưng bằng vào tất cả
những sáng tác đã được xác định bằng văn bản, thì vẫn chưa nhìn thấy khả
năng đồng nhất hóa giữa tác giả Hồ Xuân Hương ấy với Hồ Xuân Hương tác
giả của bộ phận thơ Nôm truyền tụng.
Vấn đề còn phức tạp hơn: khối tác phẩm được gọi gộp là thơ Nôm truyền
tụng của Hồ Xuân Hương ấy lại không thể là sáng tác chỉ của một tác giả.
Nhiều nhà nghiên cứu từ trước tới nay đã lần lượt đưa một số bài trong khối

tác phẩm này vào diện “tồn nghi”: Đồng tiền hoẻn, Cảnh thu, Chơi đền Khán
Xuân, Chơi chợ trời chùa Thầy Cũng có những bài thơ khác trước đây đã
được đề danh tác giả là Hồ Xuân Hương, nhưng rồi bị loại sớm, như Đánh cờ
người chẳng hạn. Nhưng sự thể là qua khối những tác phẩm còn lại, độc giả
“có nghề” vẫn nhận ra sự hiện hữu của nhiều khuôn mặt tác giả khác nhau.
Trong khuôn khổ ngắn gọn của bài viết này, mà trọng tâm lại không phải là việc
nghiên cứu sâu về tác giả, tác phẩm thơ Hồ Xuân Hương, nhưng lại rất cần
làm rõ một số tiền đề để lập luận tiếp tục, tôi xin đưa ra một số kiến giải vắn tắt
qua việc xử lý những chứng cứ tiêu biểu.
Một nhà thơ lớn vẫn có thể có những bài thơ bình thường, không đáng
nhớ. Nhưng đã là một tác giả ở tầm đặc sắc, độc đáo thì không thể có sự
chênh lệch quá đáng trong những biểu hiện “tay nghề” giữa các bài thơ. Vậy
nhưng trong khối các bài thơ Nôm truyền tụng, cũng có những bài xét một
cách nghiêm khắc là lỏng lẻo, non tay, và khoảng cách giữa những bài xuất
sắc nhất, đặc sắc nhất với những bài mà tôi gọi là non tay ấy, là rất lớn. So
sánh giữa những bài thơ được các nhà nghiên cứu sắp xếp vào cùng một mục
sẽ thấy rõ hơn điều vừa nói. Các bài thơ vịnh vật như Cái giếng, Cái quạt làm
thành một “đẳng cấp”, cao hơn rõ ràng so với Bánh trôi nước, Chiếc bách. Và
những bài này lại giữ một khoảng cách còn xa hơn nữa với những bài
như Ốc nhồi hay Đồng tiền hoẻn. Trong số các bài vịnh cảnh người đọc có thể
nhận ra là có hai cụm tác phẩm thuộc hai giọng điệu khác nhau, một cụm là
các bài Đèo Ba Dội, Kẽm Trống, Hang Cắc Cớ, Hang Thánh Hóa, Động Hương
Tích, Quán Khánh, Chùa Quán Sứ, Đá Ông chồng Bà chồng, với cụm kia là
các bài Chợ trời chùa Thầy, Một cảnh chùa, Cảnh thu, Chơi đền Khán Xuân.
Trong cụm bài Cảm hoài, ba bài thơ Tự tình khác xa về phong cách so với
những bài còn lại Sự đa dạng của phong cách dĩ nhiên là điều hoàn toàn có
thể có ở một tác giả, nhưng đó phải là sự đa dạng trong một sự thống nhất
chung hơn, và sự đa dạng phong cách thường được bắt gặp ở những tác giả
có số lượng tác phẩm lớn, số lượng thể loại được huy động phong phú.
Một loại hiện tượng khác bộc lộ qua bộ phận thơ Nôm truyền tụng này,

có tầm quan trọng hơn nữa giúp củng cố nhận định rằng bộ phận này không
thể là sáng tác của chỉ một tác giả. Đó là hiện tượng lặp lại bút pháp và kỹ
thuật ở các bài thơ, làm nên những chùm thơ đồng dạng về mặt thi pháp học.
Dễ dàng nhận ra sự trùng lắp hầu như hoàn toàn về kỹ xảo (thậm chí là trùng
lặp câu chữ) giữa Hang Cắc Cớ và Động Hương Tích, giữa vịnh Ốc nhồi và
vịnh Quả mít, sự trùng lặp bộ phận giữa Quán Khánh và Đèo Ba Dội, giữa các
bài vịnh hang, đèo, động với nhau, giữa Đánh đu và Dệt cửi, giữa các bài thơ
vịnh Tố nữ và Vịnh nữ vô âm Về nguyên tắc, không thể có sự giễu nhại
(parodie, patiche) của một tác giả đối với sáng tác của chính mình, nhưng lại
có thể thường xuyên bắt gặp sự mô phỏng, phóng tác giữa những sáng tác
của những tác giả khác nhau. Và hoàn toàn có thể xảy ra việc sáng tác mô
phỏng không thua kém so với tác phẩm được mô phỏng. Những cụm tác phẩm
(đều có thể được đánh giá là xuất sắc) gần gũi nhau ấy hoàn toàn có thể là tác
phẩm của những tác giả khác nhau. Những cuộc thi “ra đề, hạn vận”, những
cuộc xướng họa cho phép ta thu về những tác phẩm “vừa giống vừa khác” như
thế.
Rất có thể Hồ Xuân Hương là tác giả của một bộ phận thơ Nôm truyền
tụng, nhưng tỷ lệ là bao nhiêu, gồm những tác phẩm cụ thể nào, thì chưa thể
tìm được câu trả lời.
Trong sự kiềm tỏa, kiểm soát ngặt nghèo của đạo lý, của dư luận và của
cả chính thể nữa, chắc chắn nhiều tác giả nhà Nho đã phải chấp nhận hy sinh
nhiều dự đồ sáng tạo của mình. Có một Hồ Xuân Hương châm ngòi và đi tiên
phong, có một Hồ Xuân Hương đã tung ra những câu chữ “động trời”, nên
cũng chính Hồ Xuân Hương ấy hứng chịu những hậu quả của dư luận. Việc
duy nhất mà các nhà Nho mang nỗi ấm ách kia phải làm, là viết ra cái mình
muốn, càng tung tẩy (nghĩa là đầy cảm hứng) thì càng tốt. Họ chỉ cần quên đi
tác quyền (cho đến nay còn khối người vẫn sẵn sàng viết ra được để rồi quên
mình đi như thế!), vả đương thời cũng có bao nhiêu người đã từ bỏ tác quyền:
hàng loạt truyện Nôm khuyết danh còn lại (trong đó không ít truyện đáng được
đánh giá cao và được lưu hành khá rộng rãi!) là bằng chứng rõ ràng của tình

trạng đó. Hồ Xuân Hương trở thành tác giả đại diện dẫu chẳng ai ủy quyền,
thành “người cho mượn tên”, bởi dẫu sao mặc lòng, đến một lúc nào đó cái tên
Hồ Xuân Hương đã trở nên một chứng từ bảo lãnh! Bằng con đường đó, trong
bản chất của sự việc, Hồ Xuân Hương tác gia và tác phẩm như ngày nay ta có
là một hiện tượng, chứ không chỉ là một tác giả đơn thuần như những tác giả
khác.
Và như thế, trên nhiều góc độ, Hồ Xuân Hương và Trạng Quỳnh là
những hiện tượng đồng dạng. Nói một cách khái quát nhất, đó là loại hiện
tượng giao thoa giữa văn học viết và văn học dân gian, giữa phương thức tồn
tại hữu danh và phưong thức nặc danh, ẩn danh, khuyết danh.
Tôi muốn coi đó là một đặc điểm mang tính quy luật trong tiến trình vận
động của văn học Việt Nam và cũng là một phương thức tồn tại của mối quan
hệ giữa văn học viết và văn học dân gian trong tiến trình văn học dân tộc. Hình
như đó cũng là một biểu hiện mang tính cụ thể - lịch sử của quy luật vận động
và phát triển của văn học thế giới nói chung. Việc so sánh lịch sử giữa các nền
văn học sẽ cho phép ta chính xác hóa hơn giả thiết làm việc này

×