Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nguyễn Huy Tưởng - Nhà chép sử bằng văn chương docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.88 KB, 7 trang )

Nguyễn Huy Tưởng - Nhà chép
sử bằng văn chương
Trong giai đoạn văn học 1930-1945, so với những nhà văn đã thành
danh như Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng
là người đến muộn. Nhưng ngay từ khi xuất hiện, Nguyễn Huy Tưởng đã lựa
chọn được một thế đứng vững chắc với tư thế của một nhà tiểu thuyết và viết
kịch trước những vấn đề của hôm qua và hôm nay, của lịch sử và dân tộc. Dễ
nhận ra trong các sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng: Đêm hội Long
Trì (1942), Vũ Như Tô (1943), An Tư (1944), Cột đồng Mã Viện (1944), ngay từ
nhan đề đến văn bản nghệ thuật đều không đi chệch ra khỏi quỹ đạo của đề tài
lịch sử. Cảm hứng lịch sử, chất liệu lịch sử đã trở thành cảm hứng bao trùm
trong các trang viết của nhà văn.
Sinh ra và lớn lên trên vùng đất phát tích những truyền thuyết, huyền
thoại lịch sử, vùng đất Dục Tú (phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh nay thuộc huyện
Đông Anh, Hà Nội) quê hương Nguyễn Huy Tưởng đã truyền cho ông niềm
say mê lịch sử và văn hóa dân tộc. Ngay khi đang học thành chung, Nguyễn
Huy Tưởng đã ý thức được vai trò của lịch sử trong đời sống nhân loại: “Người
không biết lịch sử nước mình là một con trâu đi cày ruộng. Cày với ai cũng
được mà cày ruộng nào cũng được” (Nhật ký tư tưởng 13-1-1932). Điều đó đã
lý giải vì sao trong các sáng tác của ông, ở bất cứ thể loại nào đều mang đậm
cảm quan lịch sử. Vào thời điểm những năm bốn mươi của thế kỷ XX, các tác
phẩm Đêm hội Long Trì, An Tư, Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện không chỉ
nhanh chóng xác lập vị trí của Nguyễn Huy Tưởng trên văn đàn Việt Nam mà
còn sớm định danh ông là một tiểu thuyết gia lịch sử, một cây bút chuyên sâu
về đề tài lịch sử.
Trong cảm quan sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng, ở Đêm hội Long
Trì và An Tư, lịch sử chỉ là cái cớ để nhà văn triển khai những băn khoăn, trăn
trở không thôi day dứt tâm thế của người cầm bút về thân phận con người, về
ý thức công dân và sứ mệnh của nghệ thuật. Với các tiểu thuyết Đêm hội Long
Trì, An Tư, Nguyễn Huy Tưởng đã tỏ ra sở trường trong tạo dựng bối cảnh,
tình thế, trong cách đặt vấn đề về sự lựa chọn và đụng độ sinh tử của con


người với cái ác, với kẻ thù. Nguyễn Mại coi thường cái chết, giết Đặng Lân
cứu rỗi cho muôn dân (Đêm hội Long Trì), An Tư vì nghiệp lớn, vì đại sự phải
hiến thân cho tướng giặc Thoát Hoan (An Tư). Trước những khúc quanh,
trước triều cường của lịch sử và hoàn cảnh, con người trong tiểu thuyết của
Nguyễn Huy Tưởng đã tự nguyện đặt vận mệnh của dân tộc, đặt cái thiện, lòng
nhân lên phía trước, đẩy lại phía sau những gấp khúc, quanh co, bất hạnh và
thân phận con người.
Trong quá trình sáng tác, Nguyễn Huy Tưởng đã có ý thức tìm hiểu
nghiên cứu những tài liệu lịch sử, những tác phẩm về đề tài lịch sử của các
nhà văn tiền bối và soi chiếu chúng qua lăng kính của mình. Ông không nệ cổ,
không kể lại lịch sử, không “lịch sử hóa” tiểu thuyết mà đã hư cấu, tưởng
tượng, “tiểu thuyết hóa” lịch sử, phát huy khả năng sáng tạo của mình, phục
hiện một thời đại đã lùi sâu trong ký ức dân tộc. Tiểu thuyết của Nguyễn Huy
Tưởng vừa tạo sự sát gần lại vừa tạo khoảng cách với lịch sử. Nghĩa là nó đã
đáp ứng được yêu cầu và đặc trưng nghệ thuật của thể loại, làm nên dáng vẻ
và thế giới nghệ thuật khác hẳn với tiểu thuyết lịch sử của những người đi
trước và của những cây bút cùng thời.
Tiểu thuyết Hoàng Lê Nhất thống chí của Ngô Gia văn phái đã mô tả một
cách hệ thống và khá đầy đủ bộ mặt lịch sử thập niên tám mươi của thế kỷ
XVIII khi Tây Sơn ra Bắc và họ Trịnh mất nghiệp chúa. Tác giả đã phản ánh
sinh động, sắc nét xã hội nhiễu nhương, hỗn loạn của thời kỳ phong kiến suy
tàn. Hoàng Lê Nhất thống chí được kết cấu theo lối biên niên, mang tính chất
lịch sử, nghiêng về sự kiện hơn là khắc hoạ tính cách nhân vật. Những người
đi sau như Nguyễn Triệu Luật đã dựa vào Hoàng Lê Nhất thống chí để xây
dựng tác phẩm của mình. Bà chúa chè, Loạn kiêu binh (1938), Chúa Trịnh
Khải (1940) của Nguyễn Triệu Luật được sáng tác theo quan điểm chú trọng
sự thật và đã dựng lại khá chân xác không khí lịch sử bằng ngôn ngữ tiểu
thuyết. Ở một phương diện khác, Lan Khai với Cái hột mận, Ai lên phố
Cát (1937), Khái Hưng với Tiêu Sơn tráng sỹ (1937) lại thiên về lãng mạn hoá,
lý tưởng hoá hiện thực, lịch sử qua những truyện tình éo le hay những hành

động phiêu lưu, thoả chí anh hùng cá nhân. Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn
Huy Tưởng bạt ngã theo một lộ trình khác. Ông dựa vào một dữ kiện lịch sử
được ghi vài dòng trong chính sử tạo dựng nên tác phẩm với những nhân vật
và sự kiện có thật và hư cấu bằng một văn phong trang đài, lịch lãm, kết hợp
hài hoà giữa sự kiện và nhân vật, lịch sử và tiểu thuyết, đưa tác phẩm lên tầm
cao của tư tưởng và nghệ thuật, thấm đẫm tinh thần nhân văn, đạt tới sự hoàn
thiện của thể loại.
Nguyễn Huy Tưởng đã ký thác tâm trạng người nghệ sỹ qua các tiểu
thuyết lịch sử Đêm hội Long Trì và An Tư. ở các tiểu thuyết này, nhà văn
không chỉ muốn diễn đạt tri thức của ông về lịch sử mà điều quan trọng hơn là
muốn gieo vào lòng độc giả những câu hỏi, đặt ra những vấn đề đối thoại trong
các trang viết để họ cùng nghiền ngẫm, liên tưởng, tìm mối thông cảm và chia
sẻ với những con người trong câu chuyện xưa, nay chỉ còn là vài dòng khắc
trên bia đá, tượng đài.
Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì dựa trên sự kiện lịch sử xảy ra dưới thời
Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1739-1782). Trịnh Sâm say mê sắc đẹp đầy quyến
rũ, ma mị của Đặng Thị Huệ, bao che dung túng những việc phi nhân, vô đạo
của Đặng Lân, được gọi là Cậu Trời, em trai tuyên phi họ Đặng. Trên nền cốt
truyện ấy, Đêm hội Long Trì đã đặt ra những vấn đề bức xúc không chỉ với
đương thời mà với cả hôm nay. Vấn đề về quyền uy và nữ sắc (Trịnh Sâm và
Đặng Thị Huệ), về cái đẹp, cái thiện và cái ác (Quỳnh Hoa, Bảo Kim, Nguyễn
Mại và Đặng Lân), về sự nhập thế của kẻ sĩ, về công lý và thần quyền (Nguyễn
Mại và Trịnh Sâm). Khi khép lại trang cuối cùng của cuốn tiểu thuyết, các vấn
đề trên đã được giải quyết, với kết cục có hậu: Đặng Lân bị giết và không có
hậu: cái chết của Quỳnh Hoa. Nhưng đằng sau tiết tấu, biến cố của các sự
kiện và nhân vật vẫn ẩn náu một tiếng thở dài, một nỗi xót đau về thân phận
con người ở cả phía thần quyền, nữ sắc, công lý và cái đẹp.
Tuyên phi Đặng Thị Huệ là biểu tượng của nữ sắc. Được sở hữu vẻ đẹp
trời cho, Đặng Thị Huệ đã bộc lộ triệt để sự “chuyên quyền” của sắc đẹp. Sự
chuyên quyền đầy sức cám dỗ này vô hiệu hoá và huỷ hoại quyền lực tối

thượng của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Một chúa thượng uy nghi, đường bệ
luôn bị ngả nghiêng, chao đảo giữa uy quyền, phép nước và tình phụ tử với nữ
sắc. Nguyễn Huy Tưởng đã thành công khi xây dựng nhân vật Trịnh Sâm. Một
nhân vật mang tính nước đôi, đa diện khác với tính cách bất biến của Đặng
Lân. Nhà văn đã có cái nhìn tiểu thuyết khi miêu tả nhân vật lịch sử này. Trịnh
Sâm dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng là con người bình thường với tất
cả các khía cạnh phức tạp của nó. Khi Đặng Lân, em trai tuyên phi ỷ vào thế
chị lộng quyền, chuyên làm những việc dâm ác, loạn kỷ cương, khinh phép
nước, bị Nguyễn Mại, một võ tướng vì công lý và cái thiện giết chết. Đặng Thị
Huệ đã khóc than và xin chúa trị tội Nguyễn Mại, kẻ đã dám phạm đến một vị
quốc thích. Chúa Trịnh đứng trước hai sự lựa chọn. Nghe tuyên phi hay giết
Nguyễn Mại? Quỳnh Hoa con gái yêu của chúa cũng vì Đặng Lân mà chết yểu.
Nguyễn Mại vì trọng phép nước, quên cả bản thân mình, dám trừng phạt cả
con rể chúa. Nhưng là bậc quân vương, chúa phải để thiên hạ biết cái lẽ “Đại
nghĩa diệt thân”. Tĩnh Đô Vương vốn là người anh minh, có tinh thần gia tộc
mạnh mẽ, đứng trước ranh giới của sự lựa chọn đã “không còn là một gã si
tình nữa, chúa là một vị quốc trưởng biết lo đến vương nghiệp và đặt quốc gia
lên mọi sự”
(1)
. Bên cạnh đó, chúa còn là hiện thân của một người cha: “Lòng
thương Quỳnh Hoa chiếm cả tâm hồn chúa Tĩnh Đô, và đồng thời tất cả lòng
chán ghét Đặng Lân cũng nổi dậy. Chúa căm giận Lân đến nỗi lúc ấy, nếu em
trai tuyên phi còn sống, chúa cũng chính tay giết chết. Chúa thất thểu ra ngoài
nghị sự, lên ngồi trên sập. Đèn nến sáng trưng. Mặt chúa uy nghiêm nhưng vẻ
buồn nặng trĩu. Các quan văn võ đứng hầu hai bên. Đao phủ dẫn Nguyễn Mại
vào chàng mặc áo tội nhân, cổ đeo một thanh kiếm. Trông chàng vẫn một vẻ
ngang tàng. Chúa thầm cảm phục”
(2)
.
Trong Đêm hội Long Trì, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được những

cặp nhân vật đồng đẳng: Như mối tình giữa quận chúa Quỳnh Hoa và Bảo Kim,
như tình bạn giữa Bảo Kim và Nguyễn Mại. Đây là những nhân vật tượng
trưng cho cái đẹp thuần khiết, thanh cao, cho tài hoa và nghĩa khí. Mối tình
Quỳnh Hoa và Bảo Kim, vai trò của Nguyễn Mại là những sáng tạo đáng ghi
nhận của tác giả làm tăng thêm ý nghĩa của cuốn tiểu thuyết vào thời điểm mà
nó xuất hiện. Đã có người đề cập đến vai trò của kẻ sĩ, của từ chương trong
bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Dường như phải có sự cộng lực giữa văn tài, đại
diện là Bảo Kim, võ tài, đại diện là Nguyễn Mại mới có thể đối diện với bạo tàn
và cái ác. Cặp nhân vật tượng trưng cho sắc đẹp ở thế đối cực như Tuyên phi
Đặng Thị Huệ và quận chúa Quỳnh Hoa là một nỗ lực của ngòi bút Nguyễn
Huy Tưởng khi thể hiện hai mặt ánh sáng và bóng tối, thiên thần và ác quỷ
tiềm ẩn đằng sau cái đẹp mong manh như Quỳnh Hoa, dầy dặn như Đặng Thị
Huệ. Nếu không biết tự chống đỡ và hướng tới nhân bản, cả hai cấp độ của
sắc đẹp hoặc sẽ tạm thời thất bại vì thụ động như cái chết của Quỳnh Hoa và
đi đến bại vong vì chủ động và lộng quyền như Đặng Thị Huệ. Những vấn đề
đặt ra trong Đêm hội Long Trì đã vượt ra phạm vi đề tài, không chỉ có ý nghĩa
đương thời mà với cả hiện tại. Đó là những vấn đề của nhân sinh, thế sự, của
cái thiện và cái ác, khởi nguồn từ triều chính, từ “bão táp cung đình”.
Nếu như ở Đêm hội Long Trì là những câu chuyện xảy ra trong cung vua
phủ chúa, trong nội bộ quốc gia thì ở An Tư, biên độ phản ánh mở rộng hơn,
từ cung vàng điện ngọc đến phạm vi cả nước, từ vua quan nhà Trần đến quân
tướng của Trấn Nam Vương Thoát Hoan. Tất cả đan xen và diễn biến trong bối
cảnh kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân dân Đại Việt ở thế kỷ
XIII. Nổi bật trên nền cảnh ấy là câu chuyện về mối tình giữa công chúa An Tư
với Chiêu Thành Vương Trần Thông. Trong quá trình sống và viết của mình, từ
những năm đầu đời cho tới sau này, Nguyễn Huy Tưởng luôn bộc lộ tâm huyết
và tâm đắc với lịch sử Nhà Trần. Đây là triều đại tập trung nhiều bậc hiền tài,
vua sáng tôi trung đồng thời là triều đại huy hoàng và oanh liệt nhất trong lịch
sử dân tộc. Ông đã thổ lộ nỗi niềm khát khao viết về triều đại này ngay từ khi
mới bước vào nghề: “Tôi vẩn vơ nghĩ đến quyển anh hùng ca mà tôi định đem

hết tâm trí tôi mà cống hiến quốc gia tôi. Quyển ấy là quyển Thái Bình diên yến.
Trong đó, tôi kể chuyện bậc đại anh hùng nước ta là ông Hưng Đạo, là cái
gương nghị lực, kiên nhẫn, ái quốc trung quân, là biểu hiện của cả tinh thần
của dân tộc” “Câu nói của Trần Hưng Đạo, lá cờ của Trần Quốc Toản, định
chí của Ngũ Lão, khẳng khái của Khánh Dư, kể đại khái vài đoạn đã thấy rằng
đời bấy giờ nhân vật thật là kỳ khôi xuất chúng, hình như là tướng lĩnh đầu thai
ở một nguồn trong sạch để giúp giập cõi Việt bang, hình như linh khí non sông
hun đúc lại được bao nhiêu đoá hoa thơm để phù trợ đất đai. Những nhân vật
ly kỳ như là dòng nước trong chảy qua con sông đục, nghìn thu vẫn còn dương
danh”
(3)
. Bên cạnh thái độ chiêm bái, ngợi ca sử bình nguyên và ca ngợi tiền
nhân, Nguyễn Huy Tưởng cũng thể hiện cái nhìn tỉnh táo, ôn hoà với kẻ đã
hơn một lần nghênh chiến với nhà Trần: “Còn như bên địch cũng nhiều tướng
ly kỳ. Thoát Hoan kiêu ngạo, dùng binh cực giỏi. Ô Mã Nhi tàn bạo giết người
không tiếc tay, thực là kẻ tiêu biểu cho dòng Mông Cổ và những kẻ đi chinh
phục người. Lại còn Toa Đô. Tôi không biết lai lịch và tâm tính vị này ra sao,
nhưng tôi xem Đô là người dũng cảm, võ nghệ siêu quần, binh lính nghiêm
trang, đi đến đâu không tàn phá, một người tướng tâm linh sáng suốt, ngay
thẳng, hết lòng báo đỡ nước non”
(4)
. Với cái nhìn dân chủ và độ lượng trên
toàn cục như vậy, Nguyễn Huy Tưởng đã tỏ rõ thế mạnh của ngòi bút khi
hướng vào thế giới bên trong đầy giông bão và phức tạp của các nhân vật đại
diện cho nhà họ Trần: vua Thiệu Bảo, quốc công Trần Hưng Đạo, Chiêu Thành
Vương Trần Thông, An Tư, và Thoát Hoan, đại diện cho quân xâm lược
Nguyên Mông. Những nhân vật này, cho dù là những nhân vật kịch sử, họ
cũng không được đắp nặn theo một khuôn khổ, kích thước có sẵn của nhà văn
mà đã được tái tạo với chất người tự nhiên của nó. Một Hưng Đạo Vương vừa
uy nghi, quyết liệt, tàn nhẫn lại vừa bao dung, giầu tình cảm và tài hoa, một

vua Thiệu Bảo thương dân muốn cầu hoà để bách tính đỡ lầm than cơ cực, có
những lúc không khỏi thẹn với ba quân vì ý nghĩ hèn nhát của mình, một Chiêu
Thành Vương diệu nghệ gươm đao cũng là một chàng trai si tình, đau đớn khi
người mình yêu phải hiến cống cho tướng giặc để cứu mười vạn sinh linh Đại
Việt. Một An Tư nghiêng nước nghiêng thành, dòng dõi hoàng tộc, vừa chấp
thuận, vừa oán trách triều đình đã đem mình dâng cho Thoát Hoan làm kế hưu
chiến. Một Thoát Hoan, là kẻ thù của nước Việt, khi đã có An Tư, một thiên
hương quốc sắc trong tay, hắn có thể vì đại sự giết An Tư bất cứ lúc nào.
Nhưng Trấn Nam Vương còn là một đàn ông, một người vẫn “có lòng tôn thờ
cái đẹp”. Ý định giết An Tư của Thoát Hoan không thể lớn hơn sự ái mộ cái
đẹp. Trong con người Thoát Hoan đã diễn ra bao nhiêu lần sự lựa chọn giữa
sắc đẹp và quốc gia, đại sự. Cuối cùng vẻ đẹp và tâm hồn thuần khiết, thanh
cao của An Tư đã khiến lưỡi gươm của kẻ mạnh như Thoát Hoan không thể
vung lên. Viên tướng trẻ này khác hẳn Đặng Lân trong Đêm Hội Long Trì, kẻ
đã mất hết tính người, không những không biết nâng niu cái đẹp mà còn tàn
phũ và huỷ hoại cái đẹp.

×