Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

i mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây bút văn xuôi pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.68 KB, 13 trang )

Đổi mới tư duy văn học và đóng góp
của một số cây bút văn xuôi

Chiến thắng năm 1975 là một dấu mốc lớn trong lịch sử dân tộc. Tuy
không thật trùng khít với những mốc lịch sử, nhưng mỗi bước chuyển lớn
của lịch sử đều tạo nên những chuyển động, đều để lại những dấu ấn trong
đời sống văn học. Do vậy, có thể thấy, từ sau 1975, văn học đã có những
chuyển đổi mang ý nghĩa một sự chuẩn bị, một giai đoạn “bản lề” để đi tới
công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc đồng bộ với sự đổi mới của đất nước
từ sau 1986. Tuy nhiên, để có được tư duy văn học mới là cả một hành
trình với nhiều “vấp váp và trả giá” (Nguyên Ngọc) với những đóng góp âm
thầm nhưng “quả quyết” của nhiều thế hệ nhà văn. Trong bài viết nhỏ này,
chúng tôi muốn nhìn lại và khẳng định đóng góp đáng trân trọng của một số
cây bút văn xuôi vào sự đổi mới tư duy văn học ở chặng đầu đổi mới văn
học.

Ngay từ trước 1975, bằng sự mẫn cảm và tài năng, một số cây bút đã
sớm nhận ra sự bất cập và khoảng cách của văn học với đời sống. Biết đó
là khoảng cách khó tránh và khó vượt trong hoàn cảnh chiến tranh, khi mà
mọi nỗ lực của văn học đang phải dồn vào mục tiêu gần như duy nhất
“chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc”, nhưng các nhà văn vẫn âm
thầm nuôi khát vọng, âm thầm dự cảm về một sự đổi mới tất yếu của văn
học. Nguyễn Minh Châu là một trong số ít cây bút mẫn cảm có bản lĩnh và
tài năng đó. Ngay khi đang viết những trangDấu chân người lính hào sảng,
ông đã cảm nhận khá sâu sắc sự “bất lực” của văn học. Trong hình dung
của ông hiện thực đời sống như “một cánh rừng già chưa khai phá” với biết
bao “những vấn đề còn ẩn náu”. Vậy nhưng văn học, người cầm bút lại quá
“non trẻ” và vụng dại. Ngay từ thời điểm đó, Nguyễn Minh Châu đã lặng lẽ
suy ngẫm và đúc kết được những điều sau này đã trở thành những vấn đề
thiết cốt của đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới văn học. Theo ông, người
cầm bút không những không được phép biến những “cánh rừng già của đời


sống” thành những vuờn cây cảnh, biến những “trái núi” cuộc đời thành
những hòn “non bộ” xinh xẻo mà cao sâu hơn, văn học phải “là cái điều
chiêm nghiệm có tính triết học của cả một đời người viết văn”; văn học phải
thâm nhập sâu vào “vương quốc của tình đời”, phải “đào sâu cho đến cùng
đáy cái thật chứa đầy bí ẩn, đầy nỗi niềm nguồn cơn của con người”… Nói
theo Bakhtin là “đi tìm con người bên trong con người”. Tất nhiên, trong
hoàn cảnh chiến tranh, những ý tưởng, những khắc khoải đó vẫn mới chỉ
được âm thầm ấp ủ trong suy ngẫm của nhà văn. Tuy nhiên, ý thức ấy ít
nhiều đã để lại dấu ấn trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu với những
“âm trầm nốt lặng”, có gì như “lạc giọng” với văn học một thời.

Sau 1975, hoàn cảnh đất nước thay đổi. “Từ cuộc chiến đấu cho
quyền sống của cả dân tộc”, văn học phải tham gia vào “cuộc chiến đấu
cho quyền sống của từng con người” – một cuộc chiến cam go và gian khổ,
một cuộc giao tranh, nói như Nguyễn Minh Châu “không có gì ồn ào nhưng
xảy ra từng giờ, từng ngày khắp mọi lĩnh vực đời sống”. Văn học phải có
sự chuyển đổi thực sự để đáp ứng nhu cầu mới của đời sống, của công
chúng. Theo dõi văn học từ 1975 đến nay, có thể nhận thấy sự chuyển đổi
này diễn ra theo hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, văn học chủ yếu chuyển đổi
về chất liệu, về hướng tiếp cận hiện thực đời sống và giai đoạn sau là
những chuyển đổi trong chiều sâu, trong ý thức nghệ thuật của nhà văn. Ở
giai đoạn thứ nhất, văn học chuyển từ hiện thực chiến tranh, sang hiện
thực đời sống thường nhật với tất cả mối quan hệ phong phú, ngổn ngang,
phức tạp và luôn vận động. Đây quả là bước chuyển không đơn giản đối
với một nền văn học từng nhiều thập kỷ gắn bó với hiện thực chiến tranh.
Chính Nguyễn Khải, cây bút già dặn, có nhiều thành tựu và cũng rất nhạy
cảm trong việc nắm bắt những vấn đề cập nhật, gai góc của đời sống cũng
đã phải cảm nhận: “chiến tranh ồn ào náo động mà lại có cái yên tĩnh, giản
dị của nó, hòa bình mà lại chứa chất những sóng ngầm, những gió xoáy ở
bên trong”

(1)
. Bởi thế, giai đoạn này phần lớn nhà văn vẫn tiếp tục khai thác
đề tài chiến tranh
(2)
. Dẫu đã có đôi cuốn có những sắc thái mới ví như Đất
trắng (tập 1) của Nguyễn Trọng Oánh khi phản ánh những sự nghiệt ngã,
mất mát của chiến tranh, nhưng hầu hết những sáng tác này vẫn trượt theo
“quán tính”, vẫn chủ yếu ghi lại “những ấn tượng còn nóng hổi trong những
diễn biến và từng trải được trình bày chưa kịp qua suy ngẫm và sàng lọc,
có thể còn chưa đủ độ lắng nhưng lại mang tính chất sinh động kịp thời”
(3)
.
Trong khi nhiều cây bút vẫn lúng túng trong hướng tiếp cận những phạm vi
hiện thực mới của đời sống, bằng sự nhạy cảm của mình Nguyễn Khải, đặc
biệt Nguyễn Mạnh Tuấn đã kịp thời hòa nhập vào dòng chảy của đời sống,
kịp thời nắm bắt những mảng hiện thực mới “tươi ròng” của miền Nam sau
ngày giải phóng, thống nhất đất nước. Nếu như trong Gặp gỡ cuối năm,
Nguyễn Khải đi sâu vào vấn đề sự lựa chọn của mỗi cá nhân để hòa nhập
và thích ứng với thời thế, với cuộc sống hiện tại thì ở Cha và con và… nhà
văn lại chú tâm tới vấn đề tôn giáo và dân tộc, tôn giáo và chủ nghĩa xã hội,
tôn giáo và sự vận động để tồn tại và sự hiện hữu với ý nghĩa tích cực nhất
trong đời sống tinh thần của dân tộc. Ở giai đoạn này, Nguyễn Mạnh Tuấn
là cây bút văn xuôi thu hút được sự chú ý của người đọc. Những vấn đề
nhà văn quan tâm khai thác thực sự là những vấn đề cấp thiết của đời
sống, nó quan hệ đến hàng vạn, hàng triệu người dân miền Nam sau chiến
tranh. Xoay quanh xung đột của một gia đình nửa thành viên là cách mạng,
nửa kia là tư sản sau giải phóng, Những khoảng cách còn lại đã đề cập đến
một vấn đề nhức nhối của đời sống dân tộc – bi kịch và nỗi đau mới của
mỗi gia đình, của đất nước sau chiến tranh. Vừa ngất ngây hạnh phúc
trong niềm vui đoàn tụ ngắn ngủi, con người lại lập tức rơi vào những xung

đột mới không kém phần nghiệt ngã - xung đột về chính kiến, nếp sống,
suy nghĩ, tình cảm – căn cốt của nó vẫn là xung đột của hai hệ ý thức của
những con người từng nhiều năm dai dẳng sống ở hai chiến tuyến đối lập.
Những xung đột này không chỉ diễn ra ở phạm vi xã hội mà ở ngay trong
một gia đình, ngay giữa những người ruột thịt. Mỗi người dù theo chính
kiến nào, tư sản hay cách mạng đều không tránh được phải trả giá.
Sau Những khoảng cách còn lại, Nguyễn Mạnh Tuấn lại “sáp” ngay vào một
mảng hiện thực có phần gai góc, cấn cái hơn của đời sống. Từ bối cảnh
một nhà máy đánh cá đã “quá nát”, quá bê bối về mọi phương diện, Đứng
trước biển không ngần ngại phản ánh tình trạng yếu kém trong quản lý kinh
tế một thời và dự báo về một sự chuyển đổi từ nền kinh tế quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường. Với Cù lao Tràm, thêm một lần nữa
Nguyễn Mạnh Tuấn lại thu hút được sự quan tâm của đông đảo công
chúng. Thông qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa một Bí thư xã
có tri thức, năng động, có trình độ tổ chức, đoàn kết quần chúng với một Bí
thư huyện ủy vừa kém cỏi về tài năng, vừa thiếu nhân cách, bản lĩnh, ưa xu
nịnh luồn lọt Cù lao Tràm đã phản ánh chân thực và đặt ra những nhu
cầu cấp thiết cho công cuộc cải tạo nông thôn Nam Bộ sau chiến tranh. Với
những tác phẩm rất cập nhật này Nguyễn Mạnh Tuấn được công luận
đánh giá là nhà văn tiêu biểu đầu những năm 80. Bằng việc năng động,
nhạy cảm kịp thời nắm bắt và đưa vào văn học những chất liệu mới của đời
sống, những “cái hôm nay ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu
đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động bất ngờ…” Nguyễn Mạnh Tuấn
đã góp phần tạo nên một tư duy văn học năng động hơn, có khả năng hòa
nhập vào dòng chảy của đời sống, xích gần lại khoảng cách giữa văn học
và đời sống và dân chủ hơn ở khả năng tranh luận, đối thoại. Theo Nguyên
Ngọc những sáng tác này của Nguyễn Mạnh Tuấn đã “kéo văn học đang
thánh thót ở bè cao xuống cái trần tục đời thường và nhờ đó bắt một cái
vòi có lưu lượng mạnh của hiện thực ngổn ngang mới ùa tràn vào văn học,
đem lại sinh khí mới mạnh mẽ cho văn học”.


Nếu như trên bề nổi có thể dễ dàng nhận thấy những chuyển đổi của
văn học trong việc chiếm lĩnh những chất liệu hiện thực mới thì từ trong
chiều sâu của nó cũng có thể nhận thấy những dấu hiệu chuyển động đáng
kể. Năm 1978 với bài Viết về chiến tranh
(4)
, Nguyễn Minh Châu là người
đầu tiên đã mạnh dạn “khuấy động” không khí tĩnh lặng của văn học viết về
chiến tranh trong suốt nhiều thập kỷ. Nhìn lại văn học viết về chiến tranh
ông không khỏi băn khoăn và đặt câu hỏi: phải viết về chiến tranh như thế
nào khi mà “tất cả những vấn đề quy luật của chiến tranh đã phát triển trọn
vẹn, những số phận và tính cách nhân vật cũng đã phơi bày trọn vẹn” và
câu trả lời của ông là: “phải viết về con người”, viết về con người với tất cả
những mặt tính cách đa dạng bấy lâu vẫn phải “tạm thời giấu mình trên
trang sách”. Thật tâm huyết ông đặt câu hỏi: “hình như trong ý niệm sâu xa
của người Việt Nam chúng ta, hiện thực văn học có khi không phải là cái
hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực mọi người đang hy vọng, đang
mơ ước… Những người cầm bút chúng ta vô cùng cảm thông với dân tộc
mình nhưng chẳng lẽ chúng ta có thể làm yên tâm mọi người bằng cách
mô tả cái hiện thực ước mơ?”. Từ ý tưởng sâu sắc trong bài viết này của
Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến đã phát triển thành luận điểm về một
“chủ nghĩa hiện thực phải đạo” từng làm xôn xao dư luận một thời đồng
thời cũng mở đầu và kích thích những suy nghĩ tìm tòi cho những người
cầm bút tìm cách đổi mới tư duy văn học. Cùng với suy ngẫm, Nguyễn
Minh Châu lặng lẽ sáng tác, gửi gắm qua mỗi tác phẩm những ý tưởng đổi
mới của mình. Từ những truyện ngắn Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành
(5)
, càng ngày Nguyễn Minh Châu càng cảm nhận rõ hơn nhu
cầu và sự chuyển động tất yếu của cuộc sống và của nền văn học. Ông đã

mạnh dạn tự phủ định mình, lặng lẽ “tự thay máu”, đổi mới cách viết, lấy
con người làm tâm điểm, đổi mới cách nhìn về con người. “Điềm đạm và
dũng cảm” (chữ dùng của Nguyên Ngọc), trong bài viết Hãy đọc lời ai điếu
cho một giai đoạn văn nghệ minh họa
(6)
từng được coi như một hiện tượng
chấn động đời sống văn học, Nguyễn Minh Châu kiên quyết giã từ “tấm
chăn mịn màng minh họa một chiều”, giã từ lối viết minh họa chỉ quen với
việc “cài hoa, kết lá, vờn mây” cho những khuôn khổ đã có sẵn. Ông luôn
trăn trở giằng xé trong bi kịch đánh mất mình của những nhà văn trung
thực, tài năng, tâm huyết và đau nỗi đau của cả thế hệ, nỗi đau về sự thất
thiệt to lớn của cả nền văn nghệ minh họa “nhà văn đánh mất cái đầu và
những tác phẩm văn học đánh mất tính tư tưởng”. Nguyễn Minh Châu
khẳng định, chúng ta phải “quyết tâm làm mới lại mình với thái độ chân
thành, xởi lởi, cởi mở để cùng nhau xây dựng một giai đoạn văn học và văn
nghệ mới”. Thực tế, những sáng tác của Nguyễn Minh Châu từ những năm
80: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bức tranh, Cơn giông đặc
biệt sáng tác ở giai đoạn cuối: Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam, Phiên chợ
Giát đã có sự chuyển đổi rõ rệt. Thay vì chiến tranh, bom đạn, nhà văn đi
sâu vào “vương quốc của tình đời”. Thay vì phản ánh số phận cá nhân
khuất chìm trong số phận của cả cộng đồng, Nguyễn Minh Châu lấy số
phận cá nhân làm khởi điểm, làm mục tiêu hướng tới và đồng thời cũng là
trung tâm lăng kính nghệ thuật. Khi trình bày những số phận con người,
ông cố gắng khám phá chiều sâu của tâm lý và tính cách cũng như tầm
khái quát xã hội của nó. Trang viết của nhà văn do vậy đã đạt đến một
chiều sâu nhân bản mới. Đó thực sự là những thành tựu nghệ thuật đặc
sắc “được hình thành từ những sự tích tụ sắc sảo, đầy trăn trở” của nhà
văn. Những sáng tác này cùng với những “vệt tư tưởng” được thể hiện qua
hàng loạt bài tiểu luận, phê bình sắc sảo của Nguyễn Minh Châu đã góp
phần khai phá, tạo nên những chuyển đổi sâu sắc trong tư duy nghệ thuật

và thành tựu của văn học đổi mới. Nguyễn Minh Châu quả là nhà văn “mở
đường tinh anh và tài năng”, “người dẫn đường tận tụy và dũng cảm”,
“người đã đi được xa nhất”
(7)
trong cao trào đổi mới văn học.

Sau chặng đầu dò tìm, chuẩn bị, từ sau 1986 văn học bước vào một
chặng mới trong hành trình đổi mới. Sự thành công của Đại hội Đảng lần
thứ VI, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị và chủ trương “cởi trói” cho văn học
nghệ thuật, cuộc gặp gỡ “lịch sử” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với
đông đảo văn nghệ sĩ trong hai ngày của tháng 10/1987, không khí cởi mở
của đời sống xã hội, quan hệ giao lưu ngày càng rộng rãi với các nước
trong khu vực và trên toàn thế giới… đó là bối cảnh thuận lợi thúc đẩy, tạo
nên sự chuyển đổi mạnh mẽ và sâu sắc của văn học. Sau sự chuyển đổi về
hướng tiếp cận, lựa chọn chất liệu hiện thực, ở giai đoạn này vấn đề đặt ra
với văn học là xử lý chất liệu hiện thực như thế nào? Từ tư duy sử thi với
một khoảng cách khó vượt giữa nhà văn và đối tượng mà nhà nghiên cứu
nổi tiếng Bakhtin gọi là “khoảng cách sử thi”, văn học chuyển sang kiểu tư
duy mới: suy ngẫm về hiện thực, suy ngẫm về cái đương đại đang diễn ra,
“cái đương đại chưa hoàn thành”. Cùng với kiểu tư duy văn học mới, hiện
đại này đã xuất hiện một thế hệ nhà văn mới. Họ vừa là sản phẩm của thời
đại văn học đổi mới, vừa góp phần đáng kể tạo nên sự đổi mới tư duy và
thành tựu của văn học đổi mới. Một số cây bút thuộc thế hệ này đã tạo
được những “đột biến” trong đời sống văn học. Sự xuất hiện của Nguyễn
Huy Thiệp vào năm 1987 đã thực sự gây chấn động đời sống văn học và
rất nhanh chóng đã trở thành một hiện tượng văn học. Ngay từ những sáng
tác đầu tay Nguyễn Huy Thiệp đã khiến công chúng phải “sửng sốt”. Tướng
về hưu với lối viết mới lạ đã mang đến cho văn học một chất mới “chất kiêu
bạc, tàn nhẫn, cay đắng”, một “hơi gió lạ” - chủ đề cô đơn, tình trạng con
người cô đơn, lạc loài ngay giữa gia đình, người thân và đồng loại. Nói như

Đặng Anh Đào, nó “khơi dậy cảm giác về sự bất ổn đã là đòi hỏi phải được
giải quyết ngoài đời”. Truyện của Nguyễn Huy Thiệp từ Tướng về
hưu, Muối của rừng, Huyền thoại phố phường, Những bài học nông thôn,
Những người thợ xẻ, Không có vua đến Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết…
“đều là những tín hiệu thức tỉnh sự chú ý của người đọc”. Những tín hiệu
đó chỉ có được từ một tư duy văn học mà hạt nhân của nó là số phận con
người, một trong những đặc trưng của nó là sự nhận thức lại, trăn trở kiếm
tìm chân lý sống, khắc khoải với nỗi khắc khoải của con người trong xã hội
đầy biến đổi dữ dội và sâu sắc. Trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp
“Đối tượng của văn học là con người. Văn học là khoa học về con người”.
Nguyễn Huy Thiệp không tin: “Những nhà văn không có lý lẽ xác đáng về
con người có thể viết hay được”. Nhưng khái niệm con người, cũng theo
Nguyễn Huy Thiệp “bao hàm cả ý nghĩa con người tự nhiên và con người
xã hội. Tìm hiểu hai con người đó, lý giải quan hệ giữa chúng là nhiệm vụ
hàng đầu của văn học”
(8)
. Điều đáng buồn là lâu nay, xung quanh quan
niệm về con người, nhà văn vẫn còn những điều “ngộ nhận quái gở”: “sự
ngộ nhận chính trị có ý nghĩa con người xã hội, là sự ngộ nhận khủng
khiếp; sự ngộ nhận giới tính có ý nghĩa con người tự nhiên là sự ngộ nhận
đau đớn; sự ngộ nhận về cái chết có ý nghĩa chung cho cả con người xã
hội lẫn con người tự nhiên, là sự ngộ nhận tàn nhẫn”
(9)
. Phải vượt thoát
khỏi sự ngộ nhận đó, đưa văn học trở về với quan niệm chuẩn xác, không
đơn giản, không phiến diện về con người. Nhân tính là vấn đề Nguyễn Huy
Thiệp quan tâm hàng đầu: “Văn học giá trị bao giờ cũng đề cao nhân tính.
Một xã hội không có những tác phẩm văn học hay, không có những tác
phẩm có giá trị, nghĩa là nhân tính ở đấy đang bị xói mòn, đang bị mất dần
đi. Trách nhiệm đó không phải chỉ ở một người nào mà nó ở toàn xã hội”.

Và đó cũng là trọng trách của nhà văn, những người không phải “nói ra
chân lý” mà phải “thức tỉnh ý thức hướng về chân lý hoặc chí ít cũng là thức
tỉnh tình cảm về phẩm giá con người trong họ”. Làm được như vậy là góp
phần khắc phục tình trạng “tráng một lớp men trữ tình hơi dầy” (Nguyễn
Minh Châu) của văn học trước đó và đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của
thời đại, của công chúng “đang cần những cuốn sách tự vấn, những cuốn
sách giúp họ tự vấn, những cuốn sách giúp họ nhận thức lại mình”. Chính
điều đó đã tạo nên chất “muối” trong những trang văn của Nguyễn Huy
Thiệp – cái mà văn học Việt Nam trước đó còn rất thiếu. Bởi thế, không
phải ngẫu nhiên mà đọc văn Nguyễn Huy Thiệp, sau cái thô tháp, “nhếch
nhác” nhiều khi đến đốn mạt, hèn kém của con người là cảm nhận về một
sự tê tái, một nỗi đau và lắng lại là một dư vị buồn – cái dư vị khá đặc trưng
của văn học đổi mới. Và không phải ngẫu nhiên Nguyễn Huy Thiệp được
coi là “cả một sự phá cách” trong văn học. Có thể có những “tếu táo”, “cực
đoan” và cả những “khoảng trống”, “những lỗi lầm”, “ngộ nhận” như chính
Nguyễn Huy Thiệp đã tự vấn về các nhà văn và về chính mình, nhưng từ
trong sâu xa, Nguyễn Huy Thiệp đã đến với văn chương bằng một quan
niệm riêng được đúc kết từ chính những suy nghiệm của nhà văn và chắc
chắn nó có tác động thức tỉnh không chỉ với người sáng tác mà với cả
người thưởng thức, tiếp nhận. Và đó cũng là đóng góp mang ý nghĩa một
chặng tiếp sức quan trọng của Nguyễn Huy Thiệp vào hành trình đổi mới tư
duy văn học.

Không thực sự tạo nên những tranh luận“dữ dội” và dai dẳng như
Nguyễn Huy Thiệp, nhưng sự xuất hiện của Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến
tranh (lần in đầu có tên là Thân phận của tình yêu), cũng đã gây nên sự
đánh giá trái chiều và không ít gay gắt. Chọn một hình thức cấu trúc độc
đáo “tiểu thuyết trong tiểu thuyết”: quá trình một nhà văn cấp phường – vốn
là binh nhì trong chiến tranh – viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh bằng
sự chi phối của những ý tưởng và nguyên tắc khá “lập dị” của một người

đang bị “rối bời”, “bấn loạn” về tư tưởng, ký ức luôn bị dằn vặt, hối thúc.
Nhà văn – người lính ý thức rất rõ cái giá của bản thân và đồng đội của
mình phải trả cho chiến thắng nên vô cùng hụt hẫng trước sự “vô tâm” của
con người hôm nay. Nhân danh quá khứ, nỗi buồn và những người đã
khuất anh đối thoại với hiện tại với nhiều điều bê bối, nhức nhối. Đúng như
Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: Bảo Ninh đã viết về chiến tranh bằng những
“nghịch lý”, hoàn toàn trái với những “thuận lý” vốn rất quen thuộc của tư
duy văn học sử thi và nhờ thế đã đem lại cho người đọc một cái nhìn mới,
đa chiều, sâu sắc về chiến tranh – vốn là chất liệu hiện thực đã quá quen
thuộc của văn học. Những điều đó là hệ quả tất yếu của một tư duy văn
học mới sâu sắc. Nhà văn phải có nhân cách, phải có ý thức “chiến đấu
loại trừ cái giả” mà trong văn chương, theo quan niệm của Bảo Ninh “sự
chừng mực luôn đồng nghĩa với nhạt và giả”. Bởi vậy phải viết bằng tất cả
sự nghiền ngẫm sâu xa của mình, bằng sự thôi thúc “ viết để quên đi, viết
để nhớ lại, viết để có một cứu cánh, một niềm cứu rỗi, để mà chịu đựng để
giữ lòng tin, để mà còn muốn sống”
(10)
. Viết trong sự ám ảnh của những hồi
ức, của quá khứ nhức buốt, nhưng không thể lãng quên. “Viết khổ viết sở,
viết như đập đầu vào đá, như là tự tay tước vụn trái tim mình, như là lộn
trái con người mình ra”
(11)
. Lao động của nhà văn chỉ thật sự có ý nghĩa cao
cả khi họ sống trung thực, sống đến tận cùng cảm xúc và trải nghiệm; viết
với sự khổ công như thế. Sự hời hợt, cầm chừng, giả tạo, không thể có văn
chương đích thực. Bảo Ninh đã đóng góp trước hết một quan niệm về nhân
cách, bản lĩnh của người cầm bút và bản chất của hoạt động sáng tạo nghệ
thuật. Viết về chiến tranh là viết về con người, không thể để các sự kiện “đè
bẹp” con người. Hiện thực chiến tranh không phải là mục đích tái hiện mà
chỉ là đường viền làm nổi rõ số phận con người. Nhìn chiến tranh từ góc độ

số phận con người và thể hiện chiến tranh qua tâm trạng của con người,
Bảo Ninh đã đi đến đáy cùng của hiện thực chiến tranh. Chiến tranh không
chỉ là bom đạn, chết chóc, nghiệt ngã, tan nát mà đáng buồn hơn chiến
tranh còn hủy diệt nhân tính, nhân tình. Bởi thế, khi chiến tranh kết thúc
“Chính nghĩa đã thắng, lòng nhân đã thắng nhưng cái ác, sự chết chóc và
bạo lực phi nhân cũng đã thắng”
(12)
. Hòa bình đến, những người sống sót
trở về luôn cảm nhận mình như “bị mắc kẹt giữa cuộc đời”, càng ngày càng
thấm thía hơn nỗi buồn chiến tranh, “nỗi buồn được sống sót”. Những lời
cảnh tỉnh “hãy coi chừng mà xem lại nhân tính”, “những tổn thất, những mất
mát có thể bù đắp, các vết thương sẽ lành, đau khổ sẽ hóa thạch nhưng
nỗi buồn về cuộc chiến tranh thì càng ngày càng thấm thía hơn, sẽ không
bao giờ nguôi”
(13)
… luôn là những thông điệp nghệ thuật đầy ám ảnh, đậm
đặc trên từng trang Nỗi buồn chiến tranh. Bảo Ninh đã mang đến cho văn
học “nỗi buồn” với những giá trị nhân văn sâu sắc – một trong những điều
“cấm kỵ” của văn chương trước đó – và mở ra một rẽ ngả cho văn học viết
về chiến tranh. Quả là sau Nỗi buồn chiến tranh, người ta sẽ không thể viết
về chiến tranh như trước được nữa…Cùng với những đổi mới trong cảm
hứng nhân văn, Bảo Ninh cũng có những đóng góp quan trọng vào tư duy
thể loại tiểu thuyết. Quan niệm mới về hiện thực, về con người là cơ sở để
hình thành một thế giới nhân vật mới mẻ. Đặc trưng trong thế giới nhân vật
ấy là kiểu loại nhân vật bị chấn thương – những con người đã bị chiến
tranh chà nát, với những chấn thương không thể chữa lành, luôn bị ám ảnh
bởi cô đơn, không còn khả năng hòa nhập với cộng đồng. Việc xây dựng
thành công những nhân vật ghép mảnh – hiện thực hóa, hình tượng hóa
quan niệm của nhà văn về con người vốn phức tạp, đa nhân cách, nhưng
đã bị vỡ vụn, bị tha hóa nhân cách bởi chiến tranh, đang gắng gượng vật

lộn để hoàn nguyên – và việc sử dụng hiệu quả dòng hồi ức trong xây dựng
cốt truyện, cố ý phá bỏ tính nhất quán và hoàn chỉnh của cốt truyện truyền
thống, đan xen, đảo ngược quá khứ – hiện tại – tương lai, hòa trộn ảo –
thực, cùng với việc tạo dựng một thế giới ngôn ngữ đa thanh, giàu biểu
cảm, giàu tính đối thoại…là những nỗ lực rất lớn của Bảo Ninh vào việc
hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam. Đó cũng là hiệu quả tất yếu từ những
trăn trở đổi mới tư duy nghệ thuật của Bảo Ninh, tìm tòi một “cách viết mới”
– cách viết đa thanh có khả năng kích thích tính dân chủ, đối thoại của văn
học. Chính vì thế, phần đông ý kiến đều khẳng định thành công của Nỗi
buồn chiến tranh: “Một cuốn sách gây xúc động buộc phải suy nghĩ, một
cuốn sách hay”, “không phải sử thi truyền thống”, “là một bằng chứng về sự
trưởng thành của văn xuôi” Việt Nam
(14)
. Đó thực sự là đóng góp của Bảo
Ninh vào việc khẳng định một kiểu tư duy văn học mới với tinh thần nhân
văn mới, với ngôn ngữ tiểu thuyết đa thanh mới. Hội Nhà văn đã trao giải
thưởng cho Nỗi buồn chiến tranh và đó cũng là “một thắng lợi của văn
chương”, một sự khẳng định, ủng hộ những tìm tòi, đổi mới đích thực của
văn học.

Trong cao trào đổi mới, Tạ Duy Anh xuất hiện với những truyện ngắn
đặc sắc gây ấn tượng mạnh: Bước qua lời nguyền, Xưa kia chị đẹp nhất
làng…và sớm được khẳng định là cây bút xuất sắc, người đã khơi mở một
“dòng văn học bước qua lời nguyền” (Hoàng Ngọc Hiến) với những thông
điệp nghệ thuật sâu sắc về số phận con người. Đóng góp của Tạ Duy Anh
trước hết là ở quan niệm nghệ thuật, ở cách tiếp cận, khai thác và xử lý
hiện thực độc đáo.

Trong quan niệm của Tạ Duy Anh, hiện thực đời sống đa chiều : có
ác, có thiện, có cả “thiên thần” và “ác quỷ”. Nhà văn có thể viết về cái thiện

hoặc cái ác, nhưng “cho dù viết về gì thì giá trị lớn nhất mỗi nhà văn phải
tạo ra là giá trị thẩm mỹ”, phải hướng tới cái đẹp, cái chân, cái thiện. Chính
bởi thế, Tạ Duy Anh “là người mạnh mẽ kêu gọi từ bỏ bạo lực”, cái xấu và
cái ác; kiên quyết “chống lại cái ác dưới mọi hình thức”. Và, cách thức anh
tâm đắc nhất là trực diện “đối mặt”, “giải phẫu”, “tấn công” vào cái ác, “mô
tả kỹ lưỡng, sống động về nó để mọi người dễ bề nhận ra”, “ghê sợ và kinh
tởm” nó. Nhà văn luôn “đi mấp mé ở bên bờ vực của cái ác và cái thiện, với
hy vọng có thể soi rọi nó ở những phần khuất lấp ít người chạm tới”. Xu
hướng của Tạ Duy Anh là đi sâu khai thác và miêu tả những mảng tối,
những phần chưa hoàn thiện của hiện thực đời sống. Viết về nông thôn
(giai đoạn đầu) trang viết của Tạ Duy Anh đầy ưu tư, trăn trở với số phận
của những người nông dân ở một miền quê hẻo lánh “lầy lội, tăm tối, thấm
đẫm không khí thù hận”, đầy ắp những oán thù truyền kiếp, những kỷ niệm
buồn đau, ẩn giấu trong nó biết bao hiểm họa. Cái làng Đồng lúc nào cũng
ngột ngạt trong những mối quan hệ chằng chịt, phức tạp bị chi phối bởi
những oán thù, định kiến và những cuộc đời không được lựa chọn ngay cả
quyền sống cho chính mình. Mỗi trang viết của Tạ Duy Anh da diết cảm
giác của những hồi ức đau đáu, nhức nhối, những “vò xé” không ngừng. Và
từ đó, khát vọng có thể bước qua những định kiến chật hẹp, trói buộc,
“những cấm đoán phi lý và phi nhân tính được nhân danh những điều
thiêng liêng”, có thể “bước qua lời nguyền”.

Viết về đời sống thành thị, mỗi tác phẩm của Tạ Duy Anh như một “lát
cắt” từ cái “bố cục hoàn hảo” của một thời hiện đại. Đi tìm nhân vật với
những ám ảnh nặng nề từ bức tranh hiện thực ngột ngạt của quyền lực, cái
chết, sự đồi bại…đẩy nhân vật đến đỉnh điểm của bi kịch. Thiên thần sám
hối, đã nói được một cách vừa nghệ thuật, vừa trần tục những điều gai góc
nhức nhối nhất của xã hội hiện đại: sự băng hoại đạo đức, thói vụ lợi ích kỷ
tàn nhẫn của con người. Tác phẩm đã “phơi bày” đến cùng và thực sự đã
có sức “đánh động”, “thức tỉnh” mạnh mẽ. Chọn phản ánh cuộc sống từ

phía “khuất lấp”, từ sự chưa hoàn thiện, nhưng cái đích Tạ Duy Anh hướng
đến lại là cái đẹp, cái hoàn thiện. Từ “cái ác” để lay thức “cái thiện”. Điều
này lý giải vì sao hiện thực trong tác phẩm của Tạ Duy Anh thật gai góc, có
khi như tàn nhẫn, lạnh lùng, nhưng người đọc vẫn cảm nhận đằng sau con
chữ là những thông điệp nghệ thuật thấm đẫm chất nhân văn. Và đó cũng
là hệ quả tất yếu từ quan niệm nghệ thuật giàu chất nhân bản của Tạ Duy
Anh.

Một trong những đặc điểm của tư duy văn học mới là yêu cầu “nhận
thức lại, kiến giải lại, đánh giá lại kể cả quá khứ, hiện tại và tương lai”.
Bằng chính quan niệm và sáng tác của mình Tạ Duy Anh đã có những
đóng góp đáng trân trọng vào việc khẳng định tư duy văn học mới. Trở lại
với những vấn đề của lịch sử, Tạ Duy Anh không chú mục và cũng không
nhằm tái hiện sự kiện lịch sử. Cái nhà văn quan tâm sâu sắc là số phận con
người – những dấu ấn của cuộc nhào nặn dữ dằn, nghiệt ngã của lịch sử,
hằn đọng trên số phận của mỗi con người và từ đó, cái đích hướng tới là
những bài học nhân văn sâu sắc. Thông qua cuộc đời với đủ cung bậc
thăng trầm của một kiếp người như lão Khổ “lừng danh một thời, ba đào
một thời, lụn bại một thời”, Tạ Duy Anh đã góp thêm “một giả thuyết văn
học về bản chất và thân phận người nông dân Việt Nam” (Hoàng Ngọc
Hiến). Đi tìm nguyên nhân long đong của cuộc đời lão Khổ, Tạ Duy Anh
đưa ra giả thuyết “lão long đong vì không biết nói dối”, lão cứ sống hồn
nhiên với nhân cách, chân lý của riêng mình và tất yếu cuộc đời đen bạc
không thể chấp nhận một nhân cách như thế. Lão Khổ vừa là nạn nhân của
thời cuộc, vừa là nạn nhân của chính mình. Những nhân vật như lão Khổ,
hoặc bóng dáng của lão Khổ hiện diện khá phổ biến trong sáng tác của Tạ
Duy Anh, bởi lẽ “đó là biểu trưng của thời đại, của lịch sử, của số phận
trong sự cảm nhận” của Tạ Duy Anh về cõi đời.

Từ quan niệm của mình, khi nhận thức lại hiện thực lịch sử, Tạ Duy

Anh có cách nhìn thẳng thắn; không khoan nhượng với tất cả những sai
lầm, những mặt trái, tiêu cực. Tuy nhiên, nhà văn luôn đặt tất cả nhân vật
của mình trong mối quan hệ với lịch sử, thời đại để xem xét, đánh giá và có
xu hướng cắt nghĩa, lý giải mọi sai lầm đã qua thuộc về những hạn chế
không tránh khỏi của lịch sử. Chính nhờ thế, các nhân vật của Tạ Duy Anh
khi đã trải qua hết thăng trầm, biến cố của một đời thường có được sự bình
tâm, chiêm nghiệm, nhìn nhận lại tất cả. Điều độc giả nhận được từ tác
phẩm của Tạ Duy Anh, do vậy là những chiêm nghiệm sâu xa, thấm thía,
đậm tính nhân văn về cuộc đời và thời cuộc. Và từ đó, là những bài học
nhân văn sâu sắc: “hãy tránh sự tái diễn tương tự bởi vì lịch sử luôn có
nguy cơ lặp lại” và hãy biết “đòi cho con người cuộc sống mà họ xứng đáng
được hưởng”. Tạ Duy Anh đã mang đến một cách nhìn, cách đánh giá và
cách lý giải mới về hiện thực, góp vào sự đổi mới của tư duy văn học.

Trở lên chỉ là đôi nét phác thảo về quá trình đổi mới tư duy văn học từ
sau 1975 và đóng góp của một số cây bút văn xuôi vào quá trình hình
thành và đổi mới tư duy văn học đó. Thực tế, để hình thành tư duy văn học
mới là cả một quá trình lâu dài, có sự kế thừa của giai đoạn trước và
những tiếp diễn, tiếp nối. Ở đó là sự đóng góp bền bỉ, rất đáng trân trọng
của nhiều thế hệ nhà văn, bằng cả lập thuyết và thực tiễn sáng tác, là sự
đóng góp của cả các nhà sáng tác và lý luận phê bình. Rất cần thiết một sự
tổng kết thấu đáo hệ thống, để từ đó rút ra được những bài học kinh
nghiệm nghệ thuật quý báu cho sự phát triển của văn học dân tộc.

×