Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Quan hệ liên nhân giữa các vai giao tiếp biểu hiện qua hành động “khuyên”" potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.69 KB, 11 trang )




trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


73

Quan hệ liên nhân giữa các vai giao tiếp
biểu hiện qua hành động khuyên


Lê Thị Nguyệt
(a)


Tóm tắt. Trong hội thoại, nhân vật và mối quan hệ giữa các nhân vật hội thoại có
vai trò hết sức quan trọng khi thực hiện các hành động ngôn ngữ. Hành động khuyên
là một trong những hành động ngôn ngữ đợc sử dụng qua lời thoại nhân vật thể hiện
phong phú nhiều mối quan hệ liên nhân. Trong bài viết của chúng tôi đi vào tìm hiểu
quan hệ liên nhân giữa các vai giao tiếp khi thực hiện hành động khuyên này.

1. Khái niệm hành động khuyên
Theo Từ điển tiếng Việt, khuyên
đợc giải nghĩa là: Nói với thái độ ân
cần cho ngời khác biết điều mình cho
là ngời đó nên làm [7, tr. 663].
Từ góc độ lý thuyết hành động ngôn
ngữ, hành động khuyên đợc J.Searle
xếp vào nhóm hành động điều khiển.
Theo ông, nhóm này gồm các hành


động: hỏi, ra lệnh, yêu cầu, khuyên
Hành động khuyên đợc xét trên bốn
đặc điểm: Đích ở lời, hớng khớp ghép,
trạng thái tâm lí và nội dung mệnh đề.
áp dụng cả bốn đặc trng trên vào động
từ khuyên, chúng ta có:
- Đích ở lời (the point of the illocution):
đặt ngời nghe vào trách nhiệm thực hiện
một hành động tơng lai;
- Hớng khớp ghép lời với hiện thực
mà lời đề cập đến (direction of fit): hiện
thực xảy ra trong tơng lai;
- Trạng thái tâm lí (expressed
psychologycal states): sự mong muốn
của ngời nói;
- Nội dung mệnh đề (propositional
content): là nội dung mệnh đề do ngời
nói nói ra trong một hoàn cảnh giao tiếp
cụ thể [1, tr. 125].
Nh vậy, hành động khuyên là
hành động mà ngời nói nêu lên ý kiến
của mình cho rằng ngời nghe (trong
một quan hệ nào đó) nên thực hiện một
hành động nào đó trong tơng lai sẽ có
lợi cho ngời nghe.
Hành động khuyên là hành động
đợc tiến hành dựa trên sự hiểu biết về
nhau ở các mặt: tính cách, sở thích,
công việc, Hành động khuyên thờng
ít dựa trên nguyên tắc chung mà căn cứ

vào ý kiến chủ quan, vào nhận thức của
chủ thể phát ngôn và thờng không
mang tính áp đặt, không bắt buộc ngời
đối thoại thực hiện hoặc không thực
hiện sự tình. Hành động khuyên giúp
cho ngời nghe nhận thấy tính cần
thiết, cân nhắc mức độ thiệt hơn khi
thực hiện một sự tình và kết quả là
mang lại lợi ích cho ngời nghe.
2. Điều kiện sử dụng hành động
khuyên
J. Searle đã đa ra 4 điều kiện cơ
bản để tiến hành một hành động ngôn
ngữ. Những điều kiện này có thể áp
dụng vào hành động khuyên nh sau:
1- Điều kiện nội dung mệnh đề: Khi
khuyên ngời nói phải nêu ra cái đợc
nói ra. Cái đợc nói ra này thể hiện
hành động X trong tơng lai mà ngời
nói (Sp1) mong muốn ngời nghe (Sp2)
thực hiện.
2- Điều kiện chuẩn bị: Ngoài yếu tố
về khả năng ngôn ngữ thì Sp2 đang ở
trong tình thế bất lợi Y hoặc có ý muốn
.


Nhận bài ngày 09/11/2009. Sửa chữa xong 02/12/2009.




L. T. Nguyệt Quan hệ liên nhân giữa các vai giao tiếp biểu , tr. 73-83


74

thực hiện hành động X. Sp2 muốn thoát
khỏi tình thế bất lợi đó.
3- Điều kiện chân thành: Hành
động khuyên đợc thực hiện khi Sp1 tin
rằng nếu X đợc thực hiện sẽ có lợi cho
Sp2 và cũng tin rằng Sp2 đang mong
muốn Sp1 khuyên.
4- Điều kiện căn bản: Sp1 nói biểu
thức ngữ vi khuyên thể hiện sự quan
tâm đối với Sp2, Sp1 có trách nhiệm với
việc làm của Sp2 nhng không ép buộc
Sp2 phải thực hiện.
Một số tác giả khác cũng đã đa ra
những điều kiện để thực hiện hành
động khuyên nh [2, tr. 37 và 4, tr.
108]. Theo chúng tôi, đối với hành động
khuyên, cần có 6 điều kiện sau:
(1) Hành động khuyên phải đợc
thực hiện trong một cuộc đối thoại có
Sp1 và Sp2.
(2) Khi thực hiện hành động khuyên
có thể có hai tình huống xảy ra: a) Một
là, Sp1 chủ động khuyên Sp2 (hành vi X
cha xảy ra), b) Hai là, Sp1 chỉ thực

hiện khuyên khi có lời đề nghị, yêu cầu
hay phàn nàn của Sp2. Vì lúc ấy có thể
Sp2 đang ở trong tình thế khó khăn
hoặc đã làm một việc gì đó bất lợi, có
những hậu quả xấu xảy ra với Sp2, Sp2
mong muốn đợc Sp1 khuyên (hành vi
X đã xảy ra).
(3) Hành động khuyên không có
tính chất cỡng bức. Việc thực hiện X
hay không là hoàn toàn tuỳ thuộc vào
sự cân nhắc và quyết định của Sp2.
(4) Về thái độ: Khi khuyên Sp1
thờng bày tỏ thái độ ân cần, chân tình
đối với Sp2.
(5) Quan hệ của Sp1 và Sp2 khi
thực hiện hành động khuyên thờng là
ngời trên đối với ngời dới, hoặc bạn
bè và cũng có trờng hợp ngời dới đối
với ngời trên.
(6) Dấu hiệu của biểu thức ngữ vi
khuyên là các từ: nên, cần, hãy, phải,
đừng, không nên, Tuy nhiên, có khi
ngời nói không dùng những động từ
trên mà có thể dùng: tốt nhất là , là
tốt hơn hết, anh cố gắng làm
3. Các quan hệ liên nhân giữa
các vai giao tiếp khi thực hiện
hành động khuyên
Quan hệ liên cá nhân giữa các vai
giao tiếp thờng đợc xét trong tơng

quan xã hội, sự hiểu biết, mối quan hệ
về tình cảm giữa họ. Chúng đợc thể
hiện trên 2 trục: trục hoành (trục
ngang) và trục tung (trục dọc). Trục
ngang là trục của quan hệ khoảng cách,
hay quan hệ thân - sơ. Trục dọc là trục
của quan hệ về vị thế (xét trong xã hội),
hay trục quyền uy. Sau đây, chúng tôi
sẽ đi vào tìm hiểu biểu hiện các quan hệ
liên nhân giữa các vai giao tiếp khi thực
hiện hành động khuyên trên hai trục
này.
3.1. Quan hệ thân - sơ
Quan hệ thân - sơ đợc đặc trng
bởi yếu tố khoảng cách, các nhân vật
có thể gần gũi hoặc xa cách nhau. Quan
hệ này có thể thay đổi trong khi các
nhân vật tiến hành cuộc thoại từ cách
xa đến thân mật, hoặc ngợc lại. Thông
thờng, mức độ thân cận tỉ lệ thuận với
mức độ hiểu biết về nhau của những
ngời tham gia giao tiếp. Mà nh chúng
tôi đã trình bày ở trên, hành động
khuyên là hành động đợc thực hiện
dựa trên sự hiểu biết về nhau ở nhiều
mặt: tính cách, công việc, nguyện vọng,
mong muốn, cho nên, hầu hết các
nhân vật tham gia thực hiện hành động
khuyên đều có quan hệ thân cận. Dới
đây là bảng thống kê cụ thể số lợng

phát ngôn trong một số mối quan hệ cơ
bản giữa các nhân vật khi thực hiện
hành động khuyên.



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


75

Bảng thống kê các mối quan hệ thân cận

TT Quan hệ Phát ngôn

Tỉ lệ (%)
1 Huyết thống 82 27,3
2 Cơ quan, đoàn thể, tổ chức 41 13,7
3 Vợ chồng 35 11,7
4 Bạn bè 32 10,6
5 Hàng xóm 31 10,3
6 Bác sĩ - bệnh nhân, ngời nhà bệnh nhân 18 6,0
7 Ngời yêu 12 4,0
8 Chủ - khách hàng 9 3,0
9 Lái xe - hành khách 6 2,0
10 Cán bộ hoà giải - ngời đợc hoà giải 5 1,7
11 Nạn nhân - công an 5 1,7
12 Nạn nhân - ân nhân 5 1,7
13 Công an, luật s - tù nhân 5 1,7
14 Bạn bố mẹ - con 5 1,7

15 Chủ nhà - ngời ở trọ, ở thuê 4 1,3
16 Bố mẹ - bạn con 3 1,0
17 Nhà s - tăng đồ 1 0,3
18 Đấu thủ 1 0,3
Tổng 300 100

Qua kết quả thống kê trên, ta dễ
dàng nhận thấy số lợng cũng nh tỉ lệ
giữa các phát ngôn khuyên ở từng mối
quan hệ. Những ngời có quan hệ huyết
thống có số lợng phát ngôn khuyên
nhiều nhất; thứ hai là quan hệ giữa
những ngời cùng cơ quan, tổ chức,
đoàn thể; thứ ba là quan hệ vợ chồng;
thứ t là bạn bè; thứ năm là hàng xóm;
tiếp đến là một số quan hệ khác giảm
dần theo mức độ gần gũi nh: những
ngời yêu nhau, lái xe - khách hàng,
bác sĩ - bệnh nhân và ngời nhà bệnh
nhân, công an - tù nhân, cán bộ hoà giải
- ngời đợc hoà giải, chủ nhà trọ -
ngời ở trọ, ở thuê Sau đây, chúng tôi
đi sâu phân tích một số nhóm lớn.
3.1.1. Quan hệ huyết thống
a. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái
Trong mối quan hệ huyết thống,
đáng quan tâm nhất là quan hệ gia
đình giữa bố mẹ và con cái. Họ là những
ngời gần gũi, gắn bó máu thịt với nhau
nên hiểu nhau sâu sắc về nhiều mặt: từ

công việc, học tập, đến tâm lí, tính cách,
sở thích, nguyện vọng Cho nên, tình
cảm toát lên từ những lời khuyên rất ân
cần và thắm thiết. Với họ, con cái nh
là những mầm non đang lớn nên cần
phải đợc uốn nắn kĩ càng. Mặt khác,
các con nh là một phần máu thịt của
mình nên đợc chăm sóc, đợc nuôi
nấng, đợc dạy dỗ chúng là một niềm
vui sớng, niềm hạnh phúc lớn lao vô bờ
bến của họ. Cho nên, họ khuyên dạy con
nhiều điều.
Muốn cho con mình biết yêu
thơng, nhờng nhịn, biết đồng cảm và
chia sẻ những nỗi đau của ngời khác
và biết sống vị tha, chừng mực, đúng lẽ
phải, có đạo đức, nhân phẩm, trung
thực với con ngời và cuộc đời để có thể



L. T. Nguyệt Quan hệ liên nhân giữa các vai giao tiếp biểu , tr. 73-83


76

ngẩng cao đầu, hiên ngang giữa bao bề
bộn, phức tạp của cuộc sống này, cha
mẹ khuyên con cái:
(1) Sống ở đời phải biết vị tha, con

ạ! [Truyện ngắn 4 cây bút nữ, tr. 182].
(2) Thì mình cứ tốt, cứ nhân đạo,
đến lúc nào đấy họ sẽ nhận ra [21 truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, tr. 299].
Muốn cho con cố gắng phấn đấu
trong học hành, tích luỹ kiến thức để
mai này giúp ích cho bản thân, gia đình
và xã hội cha mẹ đã ân cần:
(3) Bớt thì giờ ra mà học thêm lấy ít
chữ, con ạ, ít chữ sau này khổ lắm
[Truyện ngắn 3 tác giả nữ, tr. 179].
Trong khi khuyên con, bố mẹ hay sử
dụng các từ tình thái: à, ạ, nhỉ, nhé,
để thể hiện tình cảm yêu thơng của
mình với con. Những cách kết hợp từ:
con ạ, con nhé, này con, đã rút ngắn
đợc khoảng cách giữa bố mẹ và con cái.
Giữa họ vừa có sự ân cần, quan tâm dạy
dỗ của ngời trên, vừa có tình cảm thân
thơng, tự nhiên, gần gũi của một ngời
bạn tâm tình để con biểu hiện, giãi bày
những tâm t, nguyện vọng. Từ đó, con
cái dễ tiếp thu, đồng tình và làm theo
những điều bố mẹ đã khuyên nhủ.
Có khi ngợc lại, các con cũng
khuyên bố mẹ. Chẳng hạn, con gái, con
dâu khuyên bố chăm sóc sức khoẻ:
(4) Ba phải quan tâm đến sức khoẻ
của ba nhiều hơn mới đợc [Tuyển tập
truyện


ngắn

Việt Nam 1945-2005, tr. 194].
b. Quan hệ giữa anh và em
Trong gia đình, anh em cũng rất
hay khuyên nhau. Muốn cho em sau
này có cuộc sống ấm no, có công ăn việc
làm ổn định, chị dâu không những đã
tần tảo làm lụng lấy tiền nuôi em thay
bố mẹ, mà còn luôn luôn quan tâm dặn
dò, khuyên nhủ em:
(5) Em về Hà Nội, xa chị càng phải
giữ gìn nếp sống, chăm chỉ học hành hơn.
Đừng nghe kẻ xấu rủ rê đua đòi. Cũng
đừng để học hành sa sút thua anh kém
chị [20 truyện ngắn đặc sắc, tr. 321].
Ngợc lại, em cũng khuyên anh chị
nhiều điều. Chẳng hạn, khi anh định
phá nhà cũ để xây nhà mới:
(6) Anh à, em thấy cái nhà đang đẹp
thế này, phá đi thì tiếc quá. Em ở trong
nghề, em khuyên anh nên cải tạo thôi.
Chỉ cần gia công sửa lại và làm thêm
nội thất, trông sẽ khác ngay [Truyện
ngắn Nguyễn Đỗ Phú, tr. 120].
Hoặc khi cậu em phải trả giá quá
đắt cho những hành động của mình là
phải đi tù, đã khuyên anh mình lúc anh
đến thăm và cho tiền:

(7) Anh giữ lấy mà làm ăn lơng
thiện, đừng bao giờ ăn cắp. Nhục lắm!
[Truyện

ngắn

Việt

Nam

thế

kỉ

XX,

tr. 142].
c. Quan hệ giữa những ngời thân
trong dòng họ
Ngoài những quan hệ trên, ông bà
và cô chú cũng rất hay khuyên cháu. Họ
cũng mong muốn những ngời cháu yêu
quý của mình sống sao cho tốt đẹp, lựa
chọn đợc những công việc tốt nhất. Vì
vậy, họ đã đa ra những lời khuyên chí
lý, chí tình. Chẳng hạn, bà khuyên cháu
nhân việc làm thịt một con vịt:
(8) Cháu không đợc đổ cơm thừa ra
cống. Kiếp sau sẽ thành vịt, suốt đời mò
cơm rơi cơm vãi mà ăn. Có vay, có trả,

đừng ác độc trời thơng cháu ạ [21 truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, tr. 15].
Cậu khuyên cháu khi biết đợc
thằng cháu h hỏng của mình định giết
mình cớp xe lấy tiền tiêu xài:
(9) Đừng làm điều ác với ai. Thơng
lấy mẹ cháu [Truyện ngắn hay 1980 -
2000, tr. 245].



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


77

Với ông bà, cô chú, các cháu cũng
thể hiện chữ hiếu của mình bằng những
lời khuyên hợp lí, hợp lẽ:
(10) Mợ thịt con Lu của cậu rồi.
Chuyện đã qua, cậu cũng đừng trách
mợ [21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ, tr. 69].
Tóm lại, phần lớn những phát ngôn
khuyên trong quan hệ huyết thống đều
là của ngời trên khuyên ngời dới.
Khi khuyên, họ thờng sử dụng các cặp
từ xng hô đầy tình cảm: bố mẹ - con,
ông bà - cháu/con, anh chị - em, ít
khi gọi anh, chị, xng tôi và hớng đến

nhiều vấn đề trong cuộc sống, song tập
trung vào những nội dung chủ yếu sau:
một là, khuyên về đạo đức, lối sống; hai
là, khuyên về công việc, cách thức tiến
hành công việc; ba là, khuyên về việc
chăm sóc sức khoẻ.
3.1.2. Quan hệ giữa những ngời
cùng cơ quan, đoàn thể, tổ chức
Chiếm số lợng phát ngôn nhiều
thứ hai sau quan hệ huyết thống là
quan hệ giữa những ngời cùng cơ
quan, đoàn thể, tổ chức. Vì ngoài mối
quan hệ gia đình, con ngời còn sống
trong nhiều mối quan hệ khác. Dù là
những ngời xa lạ, là kẻ Bắc ngời
Nam, là lơng hay giáo thì khi cùng
sống trong một tổ chức, một cơ quan,
cùng phấn đấu theo một mục đích nhất
định, họ đều hết lòng phấn đấu, hết
lòng giúp đỡ nhau để cùng vơn lên và
hoàn thành trách nhiệm. Vì vậy, giữa
họ đã nảy sinh tình cảm quý mến rất
đáng trân trọng. Một trong những hành
động thể hiện sự quan tâm của ngời
nói đối với ngời nghe là đa ra những
lời khuyên chí tình đối với đồng nghiệp,
đồng chí. Chẳng hạn, họ có thể khuyên
về công việc của cơ quan:
(11) Mai là mồng một Tết. Thủ
trởng binh đoàn chắc sẽ vào. Anh nên

về trực trạm [Kiều Vợng, tr. 256].
Khuyên nên chăm lo học tập:
(12) Cậu nên đi học mà ra quân
Sau này đất nớc thống nhất sẽ cần
nhiều cán bộ nh cậu [Từ Nguyên
Tĩnh, tr. 427].
Nhng họ cũng có thể khuyên nhiều
vấn đề liên quan đến đời sống riêng và
đời sống tinh thần, chẳng hạn, cô giám
đốc khuyên anh phó giám đốc:
(13) Chuyện học hành và công việc
của anh thế là tạm ổn. Anh nên lo mái
ấm gia đình [Phan Cao Toại, tr. 121].
Hoặc cô tạp vụ khuyên giám đốc:
(14) Cháu đánh riêng cho chú cái
chìa khoá. Lúc nào chú vào tắm cũng
đợc. Vào tuổi chú ngày nào cũng phải
tắm nớc nóng thì mới khoẻ đợc chú ơi
[Ma Văn Kháng, tập 2, tr. 191].
Nhìn chung, ở mối quan hệ này, tuy
cách thể hiện lời khuyên của các nhân
vật giao tiếp không giàu tình cảm nh ở
mối quan hệ huyết thống, nhng vẫn
đảm bảo đúng bản chất của một hành
động khuyên, thái độ ngời nói vẫn rất
chân thành và tha thiết.
3.1.3. Mối quan hệ giữa vợ và chồng
Quan hệ vợ - chồng từ xa đến nay
đợc xem là một mối quan hệ tốt đẹp
làm nền tảng cho một gia đình hạnh

phúc, một xã hội ấm no, tơi đẹp. Quan
hệ này hiện lên thông qua hành động
khuyên cũng rất rõ nét và có nhiều
điểm đặc sắc. Căn cứ vào t liệu, chúng
tôi nhận thấy quan hệ vợ - chồng có tần
số xuất hiện trong lời thoại của các
nhân vật trong truyện ngắn khá cao và
ở cả hai giới nam và nữ. Tuy nhiên, số
lợng phát ngôn khuyên của nữ chiếm tỉ
lệ lớn hơn so với nam (71%/29%). Qua
nội dung khuyên, chúng tôi nhận thấy



L. T. Nguyệt Quan hệ liên nhân giữa các vai giao tiếp biểu , tr. 73-83


78

khi khuyên, vợ và chồng thờng hớng
về chủ đề tình cảm là chính.
Trớc hết là tình cảm của vợ dành
cho chồng. Toát lên từ những phát ngôn
khuyên là hình ảnh một ngời vợ tần
tảo, đảm đang, hết lòng quan tâm, lo
lắng cho chồng. Chẳng hạn, khi nghĩ
rằng, ngày mai mình đi học xa, thiếu
vắng bàn tay chăm sóc của mình, chồng
sẽ vất vả, bàn tay chắc cũng sẽ vụng về
khi làm những công việc vặt nên vợ đã

khuyên và căn dặn chồng rất kĩ càng, cụ
thể trớc khi đi xa:
(15) Anh đừng ra bản uống rợu
nữa nhé. Uống rợu say mà ra gió là dễ
bị cảm lắm
(16) Quần áo thay ra thì nên giặt
ngay. Anh cứ để lại một đống chuột nó
cắn nát thì lấy gì mà vá [Truyện ngắn
hay thời chiến tranh, tr. 528].
Ngời vợ quan tâm, lo lắng cho
chồng từ những việc nhỏ nhặt - những
việc mà lẽ ra vợ phải làm, nhng vì điều
kiện hoàn cảnh riêng mà vợ phải để cho
chồng làm, cho nên lời khuyên của vợ
nặng tình thơng. Đồng thời, lời
khuyên của vợ còn thể hiện sâu sắc ở sự
vị tha, thông cảm, chia sẻ cho chồng khi
chồng buồn phiền. Ngời chồng vốn
đợc coi là trụ cột của gia đình cả về
kinh tế lẫn tinh thần, khi không làm
tròn đợc trách nhiệm ấy, anh cảm thấy
day dứt, dằn vặt. Là một ngời vợ nhạy
cảm, hiểu đợc tâm trạng đau khổ, dày
vò của chồng nên cô không oán trách,
hờn giận mà đã khuyên, đã động viên
chồng bằng những lời lẽ dịu dàng, ân
cần và khôn khéo để động viên chồng:
(17) Thôi mình ạ, cảnh ngộ eo hẹp
bắt buộc mình phải thế, mình cũng
đừng phiền muộn làm gì. Miễn tôi buôn

bán vất vả nhng chẳng nh ai bị
chồng hành hạ, mẹ chồng vùi dập, chị
em chồng đay nghiến là đợc rồi. Nghèo
túng ta lần hồi, tiện ai ngời nấy xoay
xở [Truyện ngắn hiện thực, tr. 524].
Ngay cả khi phải rời bỏ gia đình,
chồng con lặn lội nơi xứ ngời để kiếm
tiền nuôi con, lo cho gia đình, đến khi
về nớc, kinh tế đã khá giả nhng
chồng lại có bồ, dù rất đau khổ, nhng
khi nhận thấy sự bối rối, lúng túng của
chồng lúc chuông điện thoại reo, cô đã
khuyên anh:
(18) Hoan đừng làm nh vậy.
Không nên để cô ấy phải chờ [Truyện
ngắn hay, tr. 61].
Bằng sự nhạy cảm, tinh tế của trái
tim ngời phụ nữ, cô đã nhận ra một sự
thực đau lòng là hạnh phúc đang bị đe
doạ nghiêm trọng bởi ngời thứ ba.
Điều đó có thể làm cho tinh thần, sức
khoẻ cô suy sụp tột cùng. Nhng vì có
một trái tim vị tha cao cả, có sự bao
dung, độ lợng vô cùng nên cô không nỡ
trách móc chồng, mà còn khuyên anh
đến với ngời đàn bà kia để họ không
phải chờ đợi nhau, để chồng khỏi phải
khó xử.
Ngợc lại, qua khảo sát t liệu, ta
còn thấy tình cảm mà chồng dành cho

vợ cũng không ít và không kém phần da
diết. Nh chúng ta đã biết, bản chất
của ngời của ngời đàn ông là cứng
rắn, khô khan ít thể hiện tình cảm bằng
lời. Nhng điều này, không có nghĩa là
họ không biết yêu thơng vợ, yêu
thơng một nửa trái tim, một nửa cuộc
sống của mình. Họ nói ít, nhng từng
lời, từng câu, từng chữ đều chan chứa
tình yêu thơng và sự quan tâm sâu
sắc.
(19) Đừng hà tiện quá, ốm đau thì
khổ [Triệu Bôn, tr. 292].
Lời nói của chồng tuy không văn
hoa, mợt mà nhng ẩn sâu trong đó là
một tấm lòng cao đẹp biết thơng yêu,
chia sẻ với ngời vợ yêu quý.



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


79

Bên cạnh sự khuyên răn, chia sẻ về
tình cảm, chồng còn có vai trò là ngời
trung hoà mối quan hệ mẹ chồng - nàng
dâu và những mối quan hệ khác nên
cũng khuyên dạy vợ rất nhiều điều về

đạo lí, nhân phẩm, tính cách mong sao
ngời vợ của mình luôn là dâu hiền,
gái đảm. Thấy vợ tỏ vẻ khó chịu, bực
bội khi có chị gái đến ở, chồng đã
khuyên:
(20) Mẹ Thuý đừng giận quá hoá
mất

khôn

[Ma

Văn

Kháng,

tập 1, tr. 410].
Vợ khúc mắc với mẹ chồng, chồng
khuyên nhủ, động viên:
(21) Thôi ngời già vẫn hay trái
tính, mợ nên biết nín nhịn [Truyện
ngắn hiện thực, tr. 476].
Từ những điều phân tích trên, ta có
thể khẳng định một điều rằng, trong
hành động khuyên, quan hệ vợ-chồng
thờng diễn ra theo chiều tốt đẹp, đáng
trân trọng và đáng để mọi ngời học
tập. Những ngời vợ, ngời chồng dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào: hạnh phúc
hay bất hạnh, vui vẻ, chan hoà hay giận

dỗi, đều thể hiện sự quan tâm, yêu
thơng nhau sâu sắc. Họ thờng hô gọi
nhau bằng những cặp từ xng hô đầy
tình cảm: anh - em, anh/ em - mình,
hoặc gọi nhau một cách trìu mến theo
tên con, mà ít xng tôi gọi cô/ anh.
Ngoài những mối quan hệ cơ bản
trên, quan hệ bạn bè, hàng xóm, những
đôi yêu nhau cũng đợc hiện lên rõ
nét thông qua hành động khuyên. Qua
hành động ngôn ngữ này, các mối quan
hệ hiện lên rất sinh động và đẹp đẽ.
Những ngời bạn, ngời hàng xóm có
thể khuyên nhau nhiều điều trong cuộc
sống. Thậm chí, cả những ngời ít thân
quen nhau vẫn có thể khuyên nhau.
Tuy nhiên, lời khuyên, nội dung khuyên
chỉ giới hạn ở một hoặc một vài lĩnh vực
tri thức nào đó mà ngời nói am hiểu,
chứ không có những lời khuyên đa dạng,
phong phú về nội dung nh những
ngời có mối quan hệ thân thiết trên.
Song, sự chân thành và lòng mong
muốn thực sự của ngời nói đối với
ngời nghe vẫn tràn đầy và sâu sắc
đúng với bản chất của hành động
khuyên. Qua lời khuyên của mình,
ngời nói muốn gửi gắm những điều tốt
đẹp đến cho ngời nghe. Ngời nghe dù
thực hiện hay không thực hiện cũng

cảm thấy ấm lòng, bởi mình đợc sống
trong tình yêu thơng, trong sự quan
tâm, chia sẻ của mọi ngời. Điều này, sẽ
phần nào giúp cho quan hệ giữa họ
ngày một tốt đẹp hơn
3.2. Quan hệ vị thế
Quan hệ vị thế có thể xét trên nhiều
phơng diện nhng ở đây, chúng tôi chỉ
xét trên một số phơng diện sau:
3.2.1. Quan hệ về giới
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê
đợc 133 phát ngôn khuyên của nữ giới
và 167 phát ngôn khuyên của nam giới
với tỉ lệ 43,3%/56,7%. Nh vậy, trong số
phiếu t liệu mà chúng tôi khảo sát,
nam giới nói nhiều hơn nữ. Thông
thờng với ngời Việt, nữ giới đợc xem
là những ngời nhiều lời, lắm điều.
Vậy mà, với hành động khuyên số lợng
phát ngôn của nam giới lại chiếm u
thế. Điều này có gì mâu thuẫn hay có gì
đặc biệt? Trên thực tế, số lợng lợt lời
và số lợng phát ngôn trong giao tiếp
hằng ngày của nữ giới với đồng nghiệp,
ngời cùng cơ quan thì nữ giới nhiều
hơn nam, nhng nữ chỉ hay tán gẫu với
những câu chuyện con cà con kê,
chuyện cơm áo gạo tiền chứ ít khi thật
tĩnh tâm để nói chuyện nghiêm túc,
thực hiện hành động khuyên nhủ nh

nam giới. Vì thế, với hành động khuyên,
nam giới nói nhiều hơn nữ cũng là điều
dễ hiểu. Ta có thể lấy dẫn chứng về sự



L. T. Nguyệt Quan hệ liên nhân giữa các vai giao tiếp biểu , tr. 73-83


80

chênh lệch này bằng lời thoại của các
nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp. Theo kết quả thống kê của
tác giả Nguyễn Thị
é
n trong luận văn
Đặc điểm lời thoại nhân vật nữ trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp [3] thì
số lợng các hành động ngôn ngữ của
nữ là 1360, trong khi đó của nam là
1981, với tỉ lệ chênh lệch 40,7%/ 59,3%
[3, tr. 25].
Nam - nữ là hai giới có đặc điểm
tâm - sinh lí khác nhau, cho nên, lời
thoại của họ cũng mang những đặc
điểm riêng biệt, ít khi lẫn lộn. Khi thực
hiện hành động khuyên, mỗi giới cũng
có những cách lựa chọn ngôn ngữ và
cách cấu tạo phát ngôn khác nhau, thể

hiện nét riêng của họ. Nhìn chung, ở nội
dung khuyên, tức là nội dung mệnh đề
thì không có sự khác nhau ở hai giới,
nhng cách thức diễn đạt của họ lại
khác nhau. Nam giới thờng là những
ngời học rộng, hiểu nhiều, hay đợc đi
đây đi đó và tham gia nhiều tổ chức xã
hội nên lời khuyên của họ khá phong
phú, đa dạng, hớng đến nhiều đối
tợng khác nhau. Họ có thể trong vai
một cán bộ toà án khuyên tù nhân, một
bác sĩ khuyên bệnh nhân, một anh
chiến sĩ khuyên đồng đội của mình, một
lái xe khuyên hành khách, hay đơn giản
chỉ là một ngời chồng, ngời cha,
ngời anh khuyên vợ, con và em út
trong gia đình. Khi phát ngôn, ta thấy
những lời khuyên của nam giới có phần
cứng rắn hơn. Họ luôn đi thẳng vào vấn
đề, ít dùng từ đa đẩy, từ tình thái:
(22) Tôi khuyên bác đừng quá lo
nghĩ mà tổn hại đến thân thể [Triệu
Bôn, tr. 155].
Ngay đến cả những vấn đề tình
cảm, tế nhị của vợ chồng, ngời yêu có
khi họ cũng nói ngắn củn, cộc lốc, lạnh
lùng, nhiều khi thiếu cả từ xng hô:
(23) Đừng hà tiện quá, ốm đau thì
khổ [Triệu Bôn, tr. 292].
(24) Về đi. Đừng bao giờ ra chỗ lạ

mặc cái áo đễ bị bật cúc nh thế này.
Nó sẽ kích thích đàn ông, lúc ấy em bị
vạ lây đấy [Truyện ngắn 4 cây bút nữ,
tr. 228].
Trong khi đó, nữ giới là những
ngời có thiên bẩm giàu tình cảm, dịu
dàng, tế nhị nên lời ăn tiếng nói của họ
cũng bộc lộ rõ điều đó. Họ thờng dùng
những từ tình thái ở đầu hoặc cuối phát
ngôn để thể hiện sự quan tâm, dịu dàng
và tha thiết, đặc biệt là khi nói với
chồng, con:
(25) Thôi anh ạ, cảnh ngộ eo hẹp bắt
buộc, mình cũng đừng phiền muộn làm
gì [Truyện ngắn hiện thực, tr. 524].
Qua những phát ngôn trên, ta thấy
tấm lòng của ngời vợ thật vị tha và
yêu chồng hết mực. Trong lời khuyên
của họ vừa có trách nhiệm của một
ngời vợ đảm đang chăm lo cho chồng,
vừa có tình yêu chan chứa của một trái
tim nhạy cảm, biết yêu thơng, chia sẻ
với những nỗi khổ tâm của ngời chồng.
Với cả những ngời hàng xóm,
ngời cùng cơ quan phụ nữ vẫn luôn
nhỏ nhẹ, ân cần:
(26) Cô đừng giận chị mới dám nói.

hoàn cảnh của cô, cô phải lợng sức
mình Lâu nay chị vẫn có ý dò xem, ai

ngời ta nhỡ nhàng hoặc goá bụa
[Triệu Bôn, tr. 111].
Tóm lại, qua những lời khuyên của
mình, dù là với đối tợng nào thì ngời
phụ nữ vẫn toát lên những nét đẹp
trong phẩm chất của giới mình: nhẹ
nhàng, tình cảm, biết quan tâm, chăm
sóc ngời khác, biết sống vị tha, bao
dung, độ lợng và rất tế nhị, khéo léo
trong cách sử dụng ngôn ngữ nói chung
và thể hiện hành động khuyên nói
riêng.



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


81

3.2.2. Quan hệ về địa vị, thứ bậc,
tuổi tác
Tuổi tác, địa vị, thứ bậc cũng là một
biểu hiện của quan hệ vị thế. Cũng nh
quan hệ thân - sơ, chúng ta cũng nhận
biết đợc thứ bậc giữa các nhân vật
thông qua từ ngữ có trong phát ngôn.
Qua khảo sát các phát ngôn chứa
hành động khuyên, chúng tôi thu đợc
kết quả sau:

Quan hệ vị thế

Số lợng

Tỉ lệ (%)

Cao - thấp
Thấp - cao
Ngang hàng
185
73
42
61,7
24,3
14,0
Tổng 300 100
Bảng thống kê số lợng và tỉ lệ các phát
ngôn khuyên của nhân vật trong quan
hệ vị thế.
Qua bảng, phần lớn phát ngôn
khuyên là của ngời trên, ngời nhiều
tuổi khuyên ngời dới; tiếp đến là của
ngời dới, ngời ít tuổi khuyên ngời
trên; cuối cùng là những ngời có vị thế
ngang hàng.
Bản chất của hành động khuyên là
vận dụng sự hiểu biết của mình nói cho
ngời khác biết điều gì nên làm. Vì thế,
ngời nhiều tuổi, ngời có địa vị, thứ
bậc cao thờng xuyên khuyên ngời có

địa vị thấp, ít tuổi hơn là một điều dễ
hiểu và hợp lí. Dấu ấn của quan hệ này
đợc in đậm trên phát ngôn. Trớc hết
là ở lớp từ xng hô, cách hô gọi. Thông
thờng, trong giao tiếp, ngời có vị thế
cao, nhiều tuổi có thể nói trống không,
nhng khuyên là một hành động ngôn
ngữ đe doạ đến thể diện ngời nghe,
nếu nói không khéo sẽ dễ làm mất lòng,
thậm chí còn làm cho ngời nghe cảm
thấy bị xúc phạm, khinh thờng. Vì thế,
khi thực hiện hành động khuyên, ngời
nói dù ở vị thế cao hơn nhng cũng ít
nói trống không. Trong tổng số 185 phát
ngôn thì chỉ có 42 phát ngôn không có
từ xng hô. Nhng điều đáng lu ý là
những phát ngôn này phần lớn chỉ rút
gọn chủ ngữ nhờ ngữ cảnh. Ví dụ, ông
trởng phòng thơng binh xã hội đến
thăm bà mẹ liệt sĩ đã khuyên bà:
(27) Cụ trông dạo này không đợc
khoẻ lắm đâu. Cụ già rồi, cần giữ sức
cho tốt. Đừng có tiết kiệm kham khổ, ăn
chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, rồi
quỵ xuống là khổ. Cứ ăn tiêu đi. Tiền
tuất của anh cả đấy, cụ đừng xẻn xo
làm gì. Giờ cụ là ngời của Chính phủ
rồi.

m đau có thuốc của Nhà nớc cấp.

Vào viện, viện phí Nhà nớc đài thọ. Cụ
đừng theo các cụ khác: vẫn còn sống mà
đã lo sẵn cỗ áo. Nói dại, nếu cụ có mệnh
hệ nào thì đã có Nhà nớc lo. Cụ thể là
cỗ ván này, vải liệm này, hơng hoa này
[Ma Văn Kháng, tập 1, tr. 154].
Trong phát ngôn trên có chủ ngữ là
cụ nhờ vào ngữ cảnh câu đi trớc. Hoặc
trong lời một chị hàng xóm khuyên em,
ta cũng khôi phục lại chủ ngữ nhờ câu
đi trớc là em:
(28) Thôi việc đã qua, em phải cho
qua. Đừng có đứng núi này trông núi nọ
mà khổ cả một đời [Bích Thuận, tr. 74].
Đồng thời, trong khi phát ngôn,
ngời nói mong muốn ngời nghe lắng
nghe và làm theo lời khuyên của mình
nên họ thờng sử dụng cách nói dịu
dàng, tình cảm, dễ nghe bằng cách
dùng các cụm từ: con ạ, cháu ạ, nghe
con, các từ: à, nghe, nghen, và áp
dụng nét đẹp trong văn hoá ứng xử của
ngời Việt xng khiêm hô tôn để gọi
ngời nghe có vị thế dới mình: cụ, anh,
chị Điều này, giúp cho họ rút ngắn
đợc khoảng cách về quyền uy, tránh
thái độ trịch thợng, áp đặt, làm cho
ngời nghe phật lòng vì mình đã quá
lên mặt dạy đời. Đặc biệt, những ngời
có vị thế thấp và ít tuổi muốn khuyên

ngời trên thì càng phải thận trọng



L. T. Nguyệt Quan hệ liên nhân giữa các vai giao tiếp biểu , tr. 73-83


82

trong cách ăn nói, cách sử dụng từ ngữ
kẻo bị mang tiếng là dạy khôn, trứng
khôn hơn vịt. Vì vậy, trong phát ngôn,
ta hiếm thấy trờng hợp thiếu từ xng
hô, nội dung khuyên cũng là những điều
thông thờng, dễ hiểu, dễ chấp nhận và
có cơ sở khoa học hợp lí, rõ ràng. Chẳng
hạn, một ngời anh họ hơn em 10 tuổi,
định xây nhà, nhờ em xem bản thiết kế,
em đến thăm nhà và nói:
(29) Anh ạ, em thấy cái nhà này
đang đẹp thế này, phá đi thì tiếc quá.
Em ở trong nghề, em khuyên anh nên
cải tạo thôi. Chỉ cần gia công sửa sang
rồi làm thêm nội thất, trông sẽ khác
ngay [Truyện ngắn 3 tác giả nữ Đồng
Bằng Sông Cửu Long, tr. 120].

ví dụ trên, ngời em đã rất khôn
khéo trong cách ăn nói bằng cách dùng
từ tình thái ở đầu câu tạo sự thân tình,

tôn trọng (anh ạ), tiếp đến là nêu sự
cảm nhận của riêng mình (em thấy) về
thực tế khách quan (nhà đang đẹp) và
khẳng định chuyên môn của mình (em ở
trong nghề), cuối cùng mới đa ra lời
khuyên hợp lí (anh nên cải tạo thôi).
Với những ngời có quan hệ ngang
bằng thì hầu hết đều là bạn bè, đồng
đội, đồng chí. Cho nên, lời lẽ trong phát
ngôn có phần suồng sã, ít câu nệ, tự
nhiên và thoải mái hơn, có thể có từ
xng hô nhng cũng có thể không. Các
từ xng hô thờng đợc sử dụng là:
mày, tớ, cậu, tôi, mình, hoặc gọi bằng
tên riêng hay có thể gọi yêu bằng: bà,
bà già, ông,

những ngời trẻ tuổi,
còn những ngời nhiều tuổi, họ thờng
cẩn thận hơn nên hay gọi nhau bằng:
.

anh, cụ, bà, Song ở mỗi phát ngôn
đều toát lên sự bình đẳng, ngang hàng
giữa những ngời tham gia giao tiếp.
Dù là lời khuyên, lời góp ý nhng vẫn
rất hài hớc, tơi trẻ.
(30) Cậu phải bồi dỡng khơ khớ
vào mới phục vụ nhân dân ra trò đợc.
Có phải không nào? [Truyện ngắn hay

1980-2005, tr. 303].
4. Kết luận
- Qua phân tích trên, ta thấy mỗi
phát ngôn khuyên đều in đậm dấu ấn cá
nhân và liên cá nhân của các nhân vật.
Trong phát ngôn, đặc trng riêng của
từng nhóm nhân vật đợc thể hiện rõ về
giới tính, cơng vị xã hội, tuổi tác Và,
dù là giới tính nào, cơng vị nào thì khi
thực hiện hành động khuyên, ngời nói
thờng tỏ thái độ ân cần, tha thiết thể
hiện sự quan tâm, thân quý đối với
ngời nghe. Điều này, khác hẳn với thái
độ đề cao tính quyền uy của ngời ra
lệnh hoặc thái độ nghiêm khắc, dứt
khoát của ngời thực hiện hành vi cấm
đoán.
- Đối với hành động khuyên, các vai
giao tiếp thờng thể hiện các quan hệ
liên nhân: a) Trên trục ngang, ta
thờng gặp: quan hệ huyết thống, quan
hệ giữa những ngời cùng cơ quan,
đoàn thể, tổ chức và quan hệ vợ - chồng;
b) Trên trục dọc, ta thờng gặp nam
giới có số lợng phát ngôn nhiều hơn nữ
giới, ngời có vị thế cao hay khuyên
ngời có vị thế thấp. Những biểu hiện
của quan hệ liên nhân này chi phối trực
tiếp tới việc thực hiện hành động
khuyên.


Tài liệu tham khảo

[1] Đỗ Hữu Châu, Đại cơng ngôn ngữ học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003.
[2] Nguyễn Đức Dân, Ngữ dụng học, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


83

[3] Nguyễn Thị
é
n, Đặc điểm lời thoại nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, Luận văn thạc sỹ Ngữ văn, 2007.
[4] Đỗ Thị Kim Liên, Ngữ nghĩa lời hội thoại, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995.
[5] Đỗ Thị Kim Liên, Giáo trình ngữ dụng học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, 2005.
[6] J. Lyons, Ngữ nghĩa học dẫn luận (Nguyễn Văn Hiệp dịch), NXB Giáo dục, 2006.
[7] Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2009.
[8] Nguyễn Nh
ý
(chủ biên), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo
dục, 1996.

Summary

The interpersonal relationships between conversation roles

expressed in speech act advice


In conversations, characters and their relations play important roles when
carrying out speech acts. Advice is one of speech acts used in characters
conversations which express the numerous interpersonal relationships. In this
article, we studied the interpersonal relationships of the conversational roles when
carrying out speech act of advice.

(a)
Cao Học 15, chuyên ngành lý luận Ngôn ngữ, trờng Đại Học Vinh.

×