Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Kết cấu tạp văn Mạc Ngôn" ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.42 KB, 7 trang )




Phan Thị Nga Kết cấu tạp văn Mạc Ngôn, tr. 66-72


66

Kết cấu tạp văn Mạc Ngôn

Phan Thị Nga
(a)

Tóm tắt. Tạp văn Mạc Ngôn là những sáng tác văn học có ý nghĩa nhân văn sâu
sắc và sức truyền cảm mạnh mẽ, kết cấu đa dạng và độc đáo. Bài viết đã chỉ ra các
kiểu kết cấu đặc sắc trong tạp văn Mạc Ngôn, khẳng định đóng góp của ông cho một
thể loại văn học trên văn đàn Trung Quốc đơng đại.

ạc Ngôn (1955) là một trong
những tác gia nổi danh trong
nền văn học Trung Quốc đơng đại.
Sáng tác của ông khá đồ sộ và phong
phú về thể loại với số lợng trên 240 tác
phẩm bao gồm 10 truyện dài, 20 truyện
vừa, trên 60 truyện ngắn, 5 tuyển tập
những bài bút kí, phóng sự, tạp văn và
nhiều vở kịch. Nhiều tác phẩm của ông
đợc dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế
giới, đợc chuyển thể thành phim và đã
nhận đợc những giải thởng danh giá.
Ngoài tiểu thuyết và truyện vừa -


những thể loại đã làm cho Mạc Ngôn
nổi tiếng trên văn đàn thế giới - tạp văn
và tuỳ bút của Mạc Ngôn cũng rất đặc
sắc và có vị trí nhất định trong sự
nghiệp sáng tác của ông. Hiện nay, tạp
văn của ông đợc dịch sang tiếng Việt
gồm có Ngời tỉnh nói chuyện mộng du
(Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn học
2008), Mạc Ngôn và những lời tự bạch
(Nguyễn Thị Thại dịch, NXB Văn học
2004), Mạc Ngôn - chuyện văn, chuyện
đời (Nguyễn Thị Thại dịch, NXB Lao
động 2003). Những bài tạp văn tập hợp
trong Bức tờng biết hát (bản tiếng
Trung) đợc dịch giả Trần Trung Hỷ
dịch sang tiếng Việt với tên Ngời tỉnh
nói chuyện mộng du là tập văn xuôi tuỳ
bút đầu tiên của tác giả với 24 bài tạp
cảm bàn luận về nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội và văn học nghệ thuật xung
quanh một số vấn đề thực trạng xã hội
Trung Quốc những năm 1960 đến nay,
thể hiện triết lí nhân sinh và quan điểm
về văn học nghệ thuật mà ông đã khiêm
tốn gọi rằng đó chỉ là một mâm lòng dê
hổ lốn với những t tởng loạn xị bát
nháo. Tạp văn Mạc Ngôn không chỉ có
nội dung phong phú mà còn đợc viết
bởi một cây bút già dặn, kết hợp linh
hoạt nhiều phơng thức biểu hiện để lại

ấn tợng sâu đậm trong lòng độc giả,
trong đó đáng khẳng định nhất là lối tổ
chức, kết cấu đa dạng, độc đáo.
1. Kết cấu xâu chuỗi
Tạp văn vốn là thể loại nhỏ về dung
lợng. Tạp văn Lỗ Tấn có những bài
hơn 1 trang, phần lớn 3, 4 trang, chỉ có
một số ít bài dài hơn 10 trang. Nhng
tạp văn Mạc Ngôn lại có dung lợng
khá quy mô. Ngắn nh Faulkner cũng 5
trang, dài nhất là Siêu việt cố hơng 47
trang, 12 bài tạp cảm 41 trang. Đa số
tạp văn Mạc Ngôn có dung lợng 10 đến
20 trang. Một dung lợng lớn nh vậy
nên trong các tạp văn, Mạc Ngôn dùng
kết cấu xâu chuỗi. Kết cấu xâu chuỗi
vói tác dụng nối kết các bài cùng đề tài,
chủ đề theo hớng mở rộng, tăng tiến
của cảm xúc - nhận thức hoặc là chia
nhỏ, phân tách từng góc độ, khía cạnh
của đề tài để luận bàn nhằm thể hiện
cách nhìn, quan điểm đánh giá của tác
giả nên quy mô về dung lợng không
còn là vấn đề trở ngại.

Nhận bài ngày 10/11/2009. Sửa chữa xong 02/12/2009.
M





trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


67

Kết cấu xâu chuỗi là dạng kết cấu
đợc Mạc Ngôn sử dụng nhiều nhất
trong Ngời tỉnh nói chuyện mộng du
với số lợng 11/24 bài (chiếm 45,8%)
gồm: Ghi chép tản mạn ở nớc Nga, Tạp
cảm về chó, Chó chim và Ngựa, Ngỡng
vọng trời sao, Ba bài tạp cảm về chuyện
ăn, 12 bài tạp cảm, Chuyện cũ quê
hơng, Ba bài bút kí về chuyện đọc
sách, Siêu việt cố hơng, Gia tộc cao
lơng đỏ bị vong lục, Nàng tiên mê
hoặc. Kết cấu xâu chuỗi đợc biểu hiện
hoặc ngay ở nhan đề tác phẩm nh 12
bài tạp cảm, Ba bài tạp cảm về chuyện
ăn, Ba bài bút kí về chuyện đọc sách,
một bài lớn đã chứa đựng trong đó số
lợng nhiều bài nhỏ (chẳng hạn 12 hoặc
3 bài). Cũng có khi kết cấu xâu chuỗi lại
đợc biểu hiện bằng nhiều phần đánh
số thứ tự 1,2,3,4 nh Nàng tiên mê
hoặc. Nhng một số bài nh Ghi chép
tản mạn ở nớc Nga, Tạp cảm về chó,
Chó chim và Ngựa, Ngỡng vọng trời
sao, Chuyện cũ quê hơng, Siêu việt cố

hơng, Gia tộc cao lơng đỏ bị vong lục
kết cấu xâu chuỗi không đợc thể hiện
trực tiếp trên văn bản mà bằng sự liên
kết các luận điểm lớn trong nội dung.
Ba bài tạp cảm về chuyện ăn có ba
bài nhỏ: Nỗi nhục về chuyện ăn, Dáng
ăn hùng hổ, Vẫn không quên đợc
chuyện ăn cùng viết về chuyện ăn
nhng ở những phơng diện khác nhau.
Nỗi nhục về chuyện ăn ghi chép quãng
thời gian sống ở Bắc Kinh và những câu
chuyện đau đớn tủi nhục về chuyện ăn
do bệnh thèm ăn cố hữu của tác giả gây
ra. Dáng ăn hùng hổ viết về thời kì ấu
thơ đói khát đến cùng cực, triền miên là
nguyên nhân gây ra bệnh thèm ăn và
cảm giác luôn có một nỗi sợ mơ hồ là
mình sẽ ăn không đủ no [6, 145]. Vẫn
không quên chuyện ăn từ những hồi
tởng chi tiết cụ thể về tuổi thơ đói
khát bộc lộ những nhận thức mang tính
khái quát về một thời kì đầy gian truân
của xã hội Trung Quốc những năm 60.
Ba bài tạp cảm nhỏ đợc gộp lại không
chỉ vì cùng viết về một đề tài mà còn vì
tập trung thể hiện cảm nhận của tác
giả về những năm tháng thơng đau,
khốn khó, ảm đạm của bản thân, cũng
là của cả dân tộc Trung Hoa. Kết cấu
xâu chuỗi đợc sử dụng giúp tác giả có

thể triển khai vấn đề liên quan đến
chuyện ăn theo hớng mở rộng, tăng
tiến, tạo nên sự liên kết chặt chẽ, thống
nhất, tránh đợc sự đứt đoạn hay trùng
lặp khi cùng viết về một đề tài.
12 bài tạp cảm bao gồm 12 bài nhỏ:
Tiêu sái nh một dịch cúm, Kẻ ăn xin
tiêu sái rớc thần cùng khổ, Hai chân
đạp hết hoa thành phố, áo rộng vung
tay tự phong lu, Dáng anh hùng ăn
nh hùm sói, Đêm ma đồng sàng với
tiểu hồ li, Trạng chửi Phan Kim Liên,
Để nở nụ cời thế nhân khó gặp, Khoái
lạc rửa chân, Uống rợu ngon nh
ngắm ngời đẹp, Thế gian này mùi vị
nào ngon nhất, Ngời đẹp không phải
là ngời. Các bài nhỏ này là lời luận
bàn của tác giả về tiêu sái trên các
phơng diện ăn, ngủ, mặc; các loại tiêu
sái do bẩm sinh hoặc do hoàn cảnh tạo
ra; các cách thức biểu hiện tiêu sái
trong văn chơng, trong đời sống, trong
quá khứ, trong hiện tại. Hiệu quả của
vấn đề tiêu sái đợc nhìn nhận rất sâu
sắc, toàn diện, thể hiện một vốn kiến
thức văn hoá, lịch sử phong phú và
những suy nghĩ, kiến giải riêng độc đáo.
Kết cấu xâu chuỗi nh một phơng tiện
hữu hiệu, một kiểu kiến trúc để liên kết
12 bài tạp cảm lại với nhau, trong đó t

tởng, quan điểm của tác giả là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt, tạo nên một chỉnh thể
hài hoà, trọn vẹn.



Phan Thị Nga Kết cấu tạp văn Mạc Ngôn, tr. 66-72


68

Nhờ kết cấu xâu chuỗi mà dung
lợng đồ sộ vốn bị hạn chế lại trở thành
u thế, thành nét độc đáo của tạp văn
Mạc Ngôn.
2. Kết cấu liên tởng
Kết cấu liên tởng, tởng tợng
đợc Mạc Ngôn sử dụng trong hầu hết
các bài tạp văn ở Ngời tỉnh nói chuyện
mộng du. Bằng sự liên tởng đa chiều
phối hợp với trí tởng tợng phong phú,
sống động, Mạc Ngôn đã làm nên sự
khác biệt cho tạp văn của mình đồng
thời tác động trực tiếp đến t duy, nhận
thức và tình cảm của bạn đọc. Tiêu biểu
cho kết cấu liên tởng - tởng tợng là
các bài tạp văn Ghi chép tản mạn ở
nớc Nga, Tạp cảm về chó, Vó ngựa,
Chó chim và ngựa, Ngỡng vọng trời
sao.

Ghi chép tản mạn ở nớc Nga có sự
liên tởng giữa hình ảnh thảo nguyên
Nga với niềm hạnh phúc đợc sống và
đợc làm ngời. Hình ảnh thảo nguyên
ngút ngàn tầm mắt với thảm cỏ xanh
mớt điểm xuyết hoa dại tơi tắn,
những cánh chim chao liệng và hót
vang giữa mây ngàn gợi ở tác giả sự liên
tởng trong cõi vũ trụ mênh mang này,
có một địa cầu nho nhỏ xanh xanh màu
ngọc thạch, trong đó có những vùng đất
xinh đẹp nh thế này và trong đó có tôi
với t cách là một con ngời, đúng là
một hạnh vận. Thảo nào con ngời đã
từng cảm thán: sống là tất cả, sinh
mệnh là đáng quý, cỏ là một kì tích, cây
là một kì tích, hoa là một kì tích, còn tôi
đây chính là kì tích trong tất cả các kì
tích [6, 13].

nỗi oan của chó (thuộc chùm Tạp
cảm về chó), tác giả đã trực tiếp thâm
nhập vào tâm linh loài chó để khám
phá nỗi đau thân phận cùng những suy
nghĩ phức tạp của chúng rồi từ đó mà
liên tởng đến chuyện con ngời
những ai trong số chúng tao giác ngộ
triệt để một tí thì bị các ngơi gọi là
chó điên. Nhng kì thực là chúng tao
cực kì bình thờng, chúng tao đang

muốn khôi phục những vinh quang có
từ thời xa xa của loài chó và số ít bị
xem là điên ấy xứng đáng đợc xem là
những liệt sĩ sát thân thành nhân.
Bằng sự liên tởng hết sức độc đáo này,
Mạc Ngôn đã xem xét nỗi oan của chó
dới nhiều góc độ, cả khách quan lẫn
chủ quan, cả quá khứ và hiện tại, từ đó
mà mở rộng sang vấn đề ý nghĩa của
việc gọi ngời, chửi ngời bằng chó với
những kiến giải vừa sâu sắc vừa hóm
hỉnh để lại ấn tợng khó quên cho độc
giả.
Kết cấu liên tởng, tởng tợng
giúp Mạc Ngôn dù viết về vấn đề gì
cũng có liên hệ, quy chiếu về con ngời,
biểu hiện qua những nhận xét tinh tế,
những triết lí sắc sảo về con ngời và
cuộc đời đúng nh nhận xét của dịch
giả Trần Đình Hiến: Mạc Ngôn là
ngời đầu tiên đoạn tuyệt với phơng
pháp sáng tác theo chủ nghĩa vật bản,
đa văn học trở lại với chức năng cơ bản
của văn học, tức phản ánh số phận con
ngời [Vì sao tôi chọn dịch Mạc Ngôn -
Bài trả lời phỏng vấn của Trần Đình
Hiến].
3. Kết cấu theo dòng ý thức của
tôi
Cùng với kết cấu xâu chuỗi, kết cấu

liên tởng - tởng tợng, tạp văn Mạc
Ngôn còn đợc viết dới hình thức nh
một truyện kể. Các bài tạp văn trong
Ngời tỉnh nói chuyện mộng du hoàn
toàn đợc viết bởi ngời trần thuật ở
ngôi thứ nhất xng tôi. Nhân vật tôi
đảm nhận vai trò dẫn dắt mạch truyện
và công khai bày tỏ nội tâm hoặc là



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


69

ngời trực tiếp tham gia vào câu
chuyện. Trong vai trò ngời tham gia
vào câu chuyện, nhân vật tôi với t cách
ngời chứng kiến hoặc tham gia vào sự
việc và truyền đạt những điều đã nghe
đã thấy đến độc giả. Tôi luôn ở t thế
trải nghiệm, chủ động thiết lập một
kênh dẫn truyền để nắm bắt cuộc sống
và kết nối với độc giả. Khi tôi ghé thăm
một thành phố ở Mãn Châu Lý mùa
hè năm sau tôi lại đến Mãn Châu Lý,
lúc tôi đã từng theo chân một đoàn đại
biểu nhà văn đến thăm cộng hoà liên
bang Đức nhờ thế tôi có thể tiếp

xúc với hiện thực đa dạng, tiếp nhận và
đúc kết đợc những triết lí về nhiều vấn
đề trong cuộc sống. Có khi, tôi viết về
chính mình nh Giấc mơ đại học của
tôi, Những con cừu và tôi, Chuyện cũ
quê hơng, Mộng dài văn chơng khiến
cho tác phẩm là tạp văn nhng lại
mang màu sắc hồi kí tự truyện. Nhờ có
sự tham gia vào câu chuyện của tôi
mà tạp văn Mạc Ngôn giàu tính chân
thực và gieo vào lòng độc giả thái độ tin
tởng đối với những điều ông đã viết.
Trong vai trò là ngời dẫn dắt vấn
đề, tôi thờng bày tỏ công khai ý đồ
của mình tôi muốn đem vài truyện rất
khó quên nhng cha đợc đa vào tiểu
thuyết để hầu độc giả, tôi chạnh nhớ
đến năm 1976, tôi đã đợc nghe kể
rằng vì vậy những ý tởng mà tôi
cần trình bày sáng rõ, mạch lạc hơn và
t tởng, tình cảm, cảm xúc của tôi có
cơ hội đợc bộc lộ trực tiếp: tôi đứng
lặng ngời, tôi cảm thấy chán nản và
có một chút lạ lùng, tôi thì cho rằng
không hẳn nh vậy, tôi nghĩ Tiếp
xúc với tôi trong t cách ngời dẫn dắt
vấn đề, độc giả không chỉ đợc tiếp cận
với hiện thực cuộc sống phong phú mà
còn nắm bắt đợc thế giới nội tâm của
nhà văn.

Dẫn dắt vấn đề theo điểm nhìn,
dòng ý thức - cảm xúc của cái tôi giúp
Mạc Ngôn có thể thoát khỏi tình trạng
quanh quẩn giữa ngời thực việc thực
để mở rộng đến những vấn đề có liên
quan bằng cảm xúc, trí tởng tợng và
sự liên tởng. Cái tôi khi miêu tả, kể
chuyện, lúc bình luận, khi triết lí, lúc
suy t chiêm nghiệm tạo ra giọng điệu
trần thuật ở ngôi thứ nhất rất đa dạng
và linh hoạt. Có giọng nghị luận sắc
sảo, có giọng trữ tình đằm thắm, cũng
có giọng hài hớc - châm biếm. Các sắc
thái giọng điệu này đan xen, hoà quyện
vào nhau một cách khéo léo, tạo nên âm
hởng chung là giọng điệu tâm tình trò
chuyện, là lời tâm sự tha thiết của chủ
thể chứ không phải là lời hùng biện,
hiệu triệu giáo huấn hoặc lời thở than
ai oán. Cái tôi đảm bảo cho tác phẩm
không mất di mạch cảm hứng thống
nhất.
Đặt cái tôi trong vai trò ngời dẫn
dắt chính năng nổ và xông xáo, tạp văn
Mạc Ngôn đã kết hợp hài hoà các hình
thức miêu tả và kể chuyện, bình luận
và liên tởng, lí trí và cảm xúc, khách
quan và chủ quan. Nhờ vậy mà gia tăng
cách tiếp cận, khám phá, thể hiện cuộc
sống, đồng thời có điều kiện bộc lộ đời

sống nội tâm phong phú, phức tạp, đa
lại bản sắc riêng cho tạp văn Mạc Ngôn.
4. Các kiểu kết thúc
Sự đa dạng trong kết cấu của tạp
văn Mạc Ngôn còn thể hiện ở lối kết
thúc: vừa có lối kết thúc khép lại vấn đề
đã đợc bàn luận ở trên, lại vừa có lối
kết thúc mở, để ngỏ cho ngời độc suy
ngẫm. 64 bài ở Ngời tỉnh nói chuyện
mộng du có 38 bài sử dụng lối kết thúc
khép lại sự việc và 26 bài sử dụng lối
kết thúc mở. Tạp văn Mạc Ngôn khai
thác vấn đề ở nhiều tầng vỉa, góc cạnh,



Phan Thị Nga Kết cấu tạp văn Mạc Ngôn, tr. 66-72


70

khám phá đến tận cùng tính chân thực
của cuộc sống, đa đến sự tác động về
nhận thức nh chính quan niệm về tạp
văn của ông: Tôi vẫn thờng nghĩ rằng
ngời viết tiểu thuyết lúc nào cũng cố ý
giả trang, bôi phấn bôi kem loè loẹt
khiến độc giả khó mà hình dung đợc
gơng mặt thật của tác giả trong tiểu
thuyết; nhng trong những bài tản văn

(cũng có thể gọi là tuỳ bút, cũng có thể
gọi là tạp văn đại loại nh vậy), tác
giả thờng quên hoá trang khi viết, do
vậy bộ mặt thật của họ dễ dàng chờng
ra trớc mặt độc giả [6, 6]. Vì vậy lối
kết thúc mang ý nghĩa tổng kết, khép
lại sự việc, khẳng định quan điểm t
tởng đợc sử dụng nhiều là điều dễ
hiểu. Chẳng hạn, phần kết thúc bài Nỗi
oan của chó, tác giả viết: Ta ôm ấp
ngơi, ngơi lại đớp ta ba miếng, ta tìm
ngời đánh chết ngơi, cả nhà ta bỏ
công vì ngơi nhiều quá! Ta dùng bài
văn này để giải toả những gì còn chất
chứa trong đôi mắt ngơi, ngơi yên
nghỉ nhé [6, 58]. Kết thúc nh lời tâm
tình khiến cho bài tạp cảm mang hơi
hớng của một bài điếu văn thơng tiếc.
Có khi phần kết thúc là lời khẳng định,
là niềm tin bất diệt về những giá trị
tinh thần mãi trờng tồn: Ngày hôm
qua bức tờng biết hát đã đổ sụp, nghìn
vạn mảnh thuỷ tinh lấp loá trong ma
và vẫn tiếp tục ngân lên những âm
thanh bất tuyệt, nhng nếu trớc đây
là những âm thanh vút cao thì bây giờ
là những nốt nhạc trầm. Nhng vẫn
may sao, tất cả những âm thanh vút
cao hay những cung bậc trầm đục của
bức tờng đều đã thấm nhuần trong

tâm hồn chúng tôi và sẽ tiếp tục lu
truyền mãi mãi cho con cháu sau này
[6, 129]. Lại có những bài, phần kết
thúc bày tỏ trực tiếp quan điểm, thái độ
của tác giả về vấn đề đang đợc luận
bàn nh Sự lúng túng của lí luận tiểu
thuyết: Tôi thiên về cách phê bình
truyền thống bởi nó là một kiểu phê
bình mộc mạc, giản dị, vừa có trách
nhiệm với nhà sáng tác và tiểu thuyết
của anh ta, có trách nhiệm với độc giả
đồng thời nhà phê bình cũng có trách
nhiệm với chính mình, cho dù phải đối
mặt với kiểu phê bình mới, đối mặt với
kiểu văn phong phù hoa diễm lệ đang
trở thành thời thợng trên văn đàn
đơng đại [6, 345].
Sáng tạo và linh hoạt trong cách
viết, bên cạnh lối kết thúc bằng việc
tổng kết vấn đề, trực tiếp bày tỏ tình
cảm t tởng của bản thân, tạp văn
Mạc Ngôn còn có lối kết thúc mở. Mở
theo kiểu liên tởng - tởng tợng để
gợi sự so sánh ở Chó chim và ngựa,
Ngỡng vọng trời sao, Vẫn không quên
đợc chuyện ăn, Kẻ ăn xin tiêu sái rớc
thần cùng khổ, Thế gian này mùi vị nào
thơm nhất, Ngời tỉnh nói chuyện mộng
du. Từ việc miêu tả về ngựa nớc Đức
trong Chó chim và ngựa, tác giả đa ra

nhận xét của mình: Ngựa nớc Đức
cũng chẳng khác nào ngựa giả, quá
sạch sẽ, quá thuần thục, quá bóng
mợt, và tất nhiên không thể tìm đâu
ra đợc cái chất phóng túng, hoang dã
vốn là bản chất của ngựa trên thân thể
chúng [6, 96], để rồi phần kết thúc tác
giả so sánh với ngựa ở quê mình bằng
hình ảnh dới sự dẫn đầu của nó, mấy
chục con ngựa tung vó trên cánh đồng
hoang sơ nh một dòng sông nhiều màu
sắc đang ầm ầm nổi sóng. Không giải
thích, bàn luận, dấu chấm lửng cuối câu
đã mở ra khoảng trống cho sự suy ngẫm
của độc giả. Ngỡng vọng trời sao lại là
một kết thúc mở nhờ liên tởng, tởng
tợng độc đáo: Nghìn vạn năm sau, khi
mà con cháu chúng ta đợc sống trên
những vì tinh tú khác nhau, liệu chúng



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


71

sẽ mông lung hỏi nhau nh thế này
không: Nghe nói chúng ta đã đến đây từ
trái đất, nhng trái đất ở đâu nhỉ? Do

đó chúng ta đã có thể kề vai thích cánh
với những Bàn Cổ, Nữ Oa, Hậu Nghệ,
Khoa Phụ để biến thành những anh
hùng [6, 114]. Kết thúc này vừa tiếp
nối cảm hứng ngợi ca cuộc sống và hạnh
phúc làm ngời, vừa mở ra một không
gian tởng tợng đầy ắp thú vị cho độc
giả, truyền đến độc giả tình yêu, niềm
tin vào cuộc sống, vào con ngời.
Cũng có dạng kết thúc mở đợc biểu
hiện từ những chiêm nghiệm, suy t
mang tính triết lí của tác giả mà gợi ra,
xoáy sâu vào vấn đề, buộc độc giả phải
suy t trăn trở nh Để nở nụ cời thế
nhân khó gặp, Sở Bá Vơng và chiến
tranh, Trạng chửi Phan Kim Liên.
Một kiểu kết thúc mở đợc sử dụng
rất hiệu quả trong tạp văn Mạc Ngôn là
đặt ra những câu hỏi buộc độc giả phải
tự suy ngẫm và trả lời. Những bài tạp
văn sử dụng thành công kiểu kết thúc
này là Suy đoán về Mishima Yukio, Chế
ớc của cố hơng, Nàng tiên mê hoặc.


đây không có sự áp đặt quan điểm, suy
nghĩ của tác giả mà chỉ là gợi bằng các
câu hỏi buộc độc giả phải trăn trở. Suy
đoán về Mishima Yukio từ việc phân
tích sâu sắc tinh tế, Mạc Ngôn đã đa

ra 7 suy đoán về Mishima Yukio rồi kết
thúc bằng câu hỏi: Một linh hồn nh
thế liệu có đợc an nghỉ không?. Câu
.

trả lời là dành cho mọi ngời. Hiệu quả
của kiểu kết thúc này tạo cho tác phẩm
một độ mở, làm nên chiều sâu và
khoảng lặng, rút ngắn khoảng cách nhà
văn với độc giả để độc giả có thể đồng
sáng tạo, tiếp tục bàn luận vấn đề theo
nhiều hớng khác nhau. Dù là hình
thức kết thúc nào, tạp văn Mạc Ngôn
vẫn tạo đợc những âm hởng lắng sâu,
độ d ba, truyền cảm. Những kiến giải
của ông về vấn đề của cuộc sống, con
ngời hoàn toàn chẳng phải là loạn xị
bát nháo nh ông đã từng nói.
Là một nhà văn nhạy cảm với cuộc
sống, Mạc Ngôn đã chọn tạp văn nh
một hình thức thích hợp để bộc bạch
những tuỳ cảm chất chứa trong lòng.
Sáng tác với tinh thần kế thừa và phát
huy, tiếp thu và sáng tạo, tạp văn Mạc
Ngôn thực sự là những tác phẩm văn
học có ý nghĩa và sức truyền cảm lớn.
Kết cấu đa dạng chỉ là một trong những
đặc điểm nghệ thuật của tạp văn Mạc
Ngôn nhng với nó, Mạc Ngôn đã làm
mới một thể loại mà ở Trung Quốc, sau

đỉnh cao Lỗ Tấn, cơ hồ ít ai có thể sáng
tạo gì thêm. Với tạp văn, Mạc Ngôn đã
thể hiện sự nhất quán trong phong cách
văn chơng độc đáo của mình, phong
cách của một nhà văn luôn tự làm mới
mình, luôn tự nâng mình lên, luôn
mong muốn sáng tạo những tác phẩm
văn học vì con ngời.

Tài liệu tham khảo

[1] Hồ Sỹ Hiệp, Một số vấn đề văn học Trung Quốc thời kì mới, NXB TP. Hồ Chí
Minh, 2002.
[2] Hồ Sỹ Hiệp, Một số vấn đề văn học Trung Quốc đơng đại, NXB Tổng hợp Đồng
Nai, 2007.
[3] IU. M. Lotman, Cấu trúc văn bản nghệ thuật, NXB Quốc gia, Hà Nội, 2004.



Phan Thị Nga Kết cấu tạp văn Mạc Ngôn, tr. 66-72


72

[4] Mạc Ngôn, Mạc Ngôn - chuyện văn, chuyện đời (Nguyễn Thị Thại dịch), NXB Lao
động, 2003.
[5] Mạc Ngôn, Mạc Ngôn và những lời tự bạch (Nguyễn Thị Thại dịch), NXB Văn
học, 2004.
[6] Mạc Ngôn, Mạc Ngôn tạp văn: Ngời tỉnh nói chuyện mộng du (Trần Trung Hỷ
dịch), NXB Văn học, 2008.

[7] Tập thể tác giả, Lí luận văn học (tập 2), NXB Đại học S phạm, 2008.
[8] Lê Huy Tiêu, Thử phản biện Mạc Ngôn, Báo An ninh thế giới, Số 46, 2008.

Summary

The structure in Mo Yans miscellane

The miscellanea of Mo Yan are the leterary works which have deep human
significance and powerful expressiveness because of diversity and original
structures. This article points out the special types of structure in Mo Yan's
misellanea thereby confirms his contributions to Chinese contemporary literature.

(a)
khoa ngữ văn, trờng đại học vinh.

×