Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Cảm thức về cái chết trong tiểu thuyết của Y. Kawabata" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.58 KB, 7 trang )




Báo cáo nghiên
cứu khoa học:

"Cảm thức về cái
chết trong tiểu
thuyết của
Y.Kawabata"



Nguyễn Khánh Ly Cảm thức về cái chết trong tiểu thuyết , tr. 44-49


44

Cảm thức về cái chết trong tiểu thuyết của
Y. Kawabata


Nguyễn Khánh Ly

(a)


Tóm tắt. Bài viết đi sâu chỉ ra nét độc đáo trong cảm thức về cái chết trong tiểu
thuyết của Y. Kawabata - nhà văn nổi tiếng trong nền văn học hiện đại Nhật Bản.
Ông thờng viết về cái đẹp, nỗi buồn và cái chết. Trong tiểu thuyết của ông, cái chết
vừa là một thực tại đáng sợ, vừa là nơi sinh thành cái đẹp và là sự giải thoát. Vì vậy,


nó mang lại cho ngời đọc nhiều cảm xúc thẩm mĩ thú vị.

awabata là nhà văn của thời
hậu chiến Nhật Bản. Ông sống
và sáng tác giữa cảnh chết chóc và đổ vỡ
niềm tin khủng khiếp do thế chiến II
gây ra. Nhiều ngời Nhật vô tội phải
chết vì chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật.
Nhiều ngời khác lại tìm đến cái chết vì
không thích nghi nổi với thời thế. Bản
thân Kawabata cũng là ngời đã phải
trải nghiệm cảm giác chết chóc từ rất
sớm. Chỉ tính riêng trong mời lăm
năm, Kawabata đã chứng kiến đám
tang của năm ngời ruột thịt. Đến lợt
mình, dù đã lớn tiếng phản đối hành
động tiêu cực tự sát bằng cách dồn cả
tâm huyết của đời mình cho việc sáng
tạo nhằm khẳng định sự sống thì cuối
cùng, ông cũng lựa chọn cái chết bằng
khí ga trong một ngôi nhà nhỏ. Chính
vì vậy, khi nghiên cứu tiểu sử, các nhà
nghiên cứu đã gọi ông là Kinomeijin-
chuyên gia tang lễ.
Giống Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
cảm thức ban đầu của Kawabata về
cuộc sống lại chính là cái chết và cảm
giác cô đơn, lẻ loi trong một thế giới vô
cùng vô tận và kết cục cuối cùng của
hành trình ấy cũng chính là cái chết.

Do vậy, dù không xem cái chết nh một
đề tài, ám ảnh về cái chết cũng không
mạnh mẽ và đầy đe doạ nh trong các
tác phẩm văn chơng hiện sinh, văn
chơng hậu chiến Nhật nhng cái chết
vẫn có mặt trong tác phẩm Kawabata
nh một cảm hứng liền mạch, nối tiếp
nhau giữa các tác phẩm. Qua đó, quan
niệm nhân sinh của Kawabata đợc
biểu hiện.
1. Cái chết đồng hành cùng nỗi
sợ hãi
Cái chết là thực tại đang xảy ra và
tất yếu sẽ xảy ra. Con ngời sớm muộn
cũng phải đối mặt với nó. Với những
ngời đang ở trên miệng vực tuổi già thì
sự đối diện này càng dữ dội và đáng sợ
hơn bao giờ hết. Đỉnh cao của việc thể
hiện cảm thức về cái chết đã đợc thể
hiện một cách tập trung trong tiểu
thuyết Tiếng rền của núi. Ông già Singo
vốn là ngời có tâm hồn cực kì nhạy
cảm. Về già, sự nhạy cảm ấy càng đợc
mài dũa, cộng thêm với một trờng liên
tởng rộng ra tuyệt đối. Vì vậy, Singo có
thể cảm nhận đợc những biến thái mà
ngời bình thờng nh vợ, con trai và
con gái của ông không thể cảm nhận
đợc. Một ngày, bên cạnh nỗi ám ảnh
về chứng đãng trí có thực ở tuổi già,

Singo bất chợt nghe thấy âm thanh
tiếng rền của núi: Sau đó, ông nghe
thấy tiếng núi rền Nó giống nh tiếng
gió xa, có thể ví với tiếng rầm rĩ trầm
vang từ rất sâu trong lòng đất vọng ra.

Nhận bài ngày 20/10/2008. Sửa chữa xong 23/12/2008.
K




trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 1b-2009


45

Singo cảm thấy tiếng rền từ trong chính
bản thân mình hoặc bị ù tai, vì thế ông
lắc mạnh đầu. Tiếng rền biến mất. Đến
lúc ấy, Singo mới cảm thấy sợ. Biết đâu
ó chẳng phải là dấu hiệu mà thần
Chết sắp gọi ông? [1, tr. 441]. Sự thính
tai trong trờng hợp này đã khởi đầu
cho hàng loạt chuỗi ngày lo âu của tuổi
già, đặc biệt khi cô con dâu cho ông biết
ngời chị gái của vợ ông trớc khi chết
cũng nghe thấy âm thanh tơng tự. Bắt
đầu từ khi nghe thấy tiếng rền tâm linh
và đợc nghe ngời con dâu kể về sự

liên quan của tiếng núi với cái chết của
ngời quá cố, Singo bắt đầu một thời kì
chờ đợi bất an và dai dẳng mà mỗi phút
giây trôi qua, cuộc sống cứ nh đã
phảng phất hơi thở lạnh lẽo của cái
chết. Nỗi sợ hãi của Singo nảy sinh bất
ngờ, nó là sự bừng ngộ của trí tuệ và
tâm hồn con ngời khi bất chợt nhận ra
cái chết, cái mà cả quãng thời gian
trớc họ tởng nh là bất khả tri. Nó
là sự cộng gộp, dồn nén những lo âu của
cuộc đời con ngời trớc vấn đề sinh
mệnh.
Trong khi đó, hàng loạt cái chết của
những ngời bạn với nhiều nguyên
nhân kì dị đã liên tiếp xảy ra. Toriama
chết vì bị vợ bỏ đói. Mizuta chết đột
ngột trong khi đang vui thú cùng cô gái
điếm trong nhà nghỉ khách sạn. Nhng
có lẽ kì dị, đau đớn nhất chính là cái
chết của Kinamoto, nguời có những nỗ
lực bệnh hoạn rứt bỏ tất cả tóc bạc để hi
vọng tóc xanh trở lại- đồng nghĩa với
tuổi trẻ sẽ vĩnh cửu, để hi vọng thoát
khỏi sự truy đuổi của cái chết. Hành
động ấy cho ta thấy hết tình thế vô
vọng, thảm thơng của những con
ngời kề cận cái chết nhng vẫn đấu
tranh để chống lại quy luật tử sinh. m
ảnh đan xen với đời thực, thậm chí đã

trở thành đời thực khiến Singo không
khỏi cảm thấy bất an, lo lắng cho một
ngày không xa của mình. Tiếng núi
đóng vai trò nh là dự báo, sự đe doạ
của thần Chết từ phía khách quan
nhng đồng thời, nó vang lên từ chính
trong sâu thẳm tâm hồn của những
ngời già: tịch lặng, buồn bã, ẩn mật.
Nó báo hiệu nguy cơ tự huỷ từ chính
bên trong bản thân của mỗi con ngời.
Thụy Khuê đã thật sự tinh tế khi cho
rằng: Tiếng núi là đờng đời, là cõi
tạm bợ để đi vào cái chết Trong mỗi
phút giây là một cái chết âm thầm, một
cái chết tịch lặng nh sơn âm [1, tr.
1017]. Có thể nói, cái chết trong trờng
hợp này đã đợc vận dụng một cách tài
tình để có thể bộc tả hết đợc tâm trạng
bất an, hoảng hốt của nhiều ngời Nhật
thời hậu chiến.
Nếu nh có sự thống nhất biện
chứng giữa tiểu thuyết Tiếng rền của
núi và Ngời đẹp say ngủ thì hành
trình từ Singo đến Eguchi, nỗi sợ hãi
cái chết đã chuyển thành nỗi bất an-
một trạng thái lo âu, phấp phỏng
thờng trực, xuất phát từ cả những
điều mơ hồ, phi lí, không hề có thực.
Nhân vật Eguchi là đỉnh cao trong việc
khắc hoạ hình tợng con ngời khắc

khoải, sợ hãi trong hành trình đi đến
cái chết. Đêm đầu tiên trong ngôi nhà
ngời đẹp ngủ mê, ông tìm đến những
câu thơ kinh dị của một nhà thơ nữ chết
trẻ vì ung th: Đêm dọn ra cho tôi
những con cóc, những con chó chết và
những thây ngời chết trôi [1, tr. 741].
Câu thơ nối liền trạng thái hiện tồn của
Eguchi với tình thế đầy bi kịch của nhà
thơ nữ nọ để tìm ra điểm tơng đồng, đó
là nỗi ám ảnh cái chết một cách thờng
trực và ma quái. Cũng vì lo âu nh vậy
nên mới chỉ nghe kể về các cô gái trong
tình trạng ngủ mê, Eguchi lập tức đã có
mối liên hệ rất đáng sợ: Ông tự hỏi: cô
gái đang ngủ, không, phải nói là bị
thiếp cho ngủ-ở phòng bên- có giống một



Nguyễn Khánh Ly Cảm thức về cái chết trong tiểu thuyết , tr. 44-49


46

xác chết trôi không [1, tr. 741]. Trạng
thái ngủ mê đã bị nhân vật đánh đồng
với cái chết, là cái chết tạm thời trong
quãng thời gian ngắn để chuẩn bị cho
kết cục tất yếu đáng sợ của cuộc đời mỗi

con ngời. m ảnh còn đe doạ Eguchi
trong từng giấc ngủ, làm cho ông luôn
phải tự trấn an mình: Đây không phải
là giấc ngủ ngàn thu đâu. Không phải
thế đâu, cho nàng hay cả cho mình [1,
tr. 751]. Nỗi sợ hãi của Eguchi cũng
chính là nỗi sợ hãi ngây thơ nhng
muôn đời của kiếp nhân sinh: sợ chết
trong lúc ngủ, sợ chết mà không biết, sợ
rằng ngủ- từ cái chết tạm thời đột
ngột chuyển thành cái chết vĩnh viễn
bất cứ lúc nào. Nỗi sợ hãi và ám ảnh cái
chết đã hiện hữu thành hình thù khi
chỉ trong vòng một thời gian ngắn, căn
nhà trọ đã liên tiếp xảy ra hai cái chết:
lão già Fukura và một trong số các cô
gái. Hai ngời chết nhng trong đó đã
bao hàm tất cả nhân sinh: một già một
trẻ, một nam một nữ, một địa vị cao
sang (làm giám đốc) một làm nghề mạt
hạng, một chết đau đớn, một ra đi bất
ngờ nhẹ nhàng. Chỉ hai cái chết nhng
đã gợi lên d âm đầy chua xót về thân
phận con ngời: cái chết là thực tế
không loại trừ bất kì ai, không phân
biệt tuổi tác, giới tính và địa vị. Cái
chết là tất yếu và luôn bất ngờ. Tác
phẩm kết thúc lửng khi kịch tính
truyện đang lên cao nhất: cô gái trẻ
nằm cạnh Eguchi đã chết, để lại Eguchi

với bao sững sờ, lo lắng, bế tắc về định
mệnh của chính mình.
Nếu căn phòng thẫm màu đỏ tợng
trng cho mộ huyệt chôn vùi sự sống
của con ngời thì ngôi nhà trọ trở thành
biểu tợng cho phòng chờ đón đợi cái
chết, cả chết thật lẫn chết mê. Giấc ngủ
tạm thời bằng thuốc mê của cả Eguchi
lẫn các cô gái phải chăng chính là giai
đoạn giao thoa, chết thử để chuẩn bị
cho con ngời đi đến cái chết thật sự
vĩnh viễn, giống nh lời nhận xét của
Nhật Chiêu: Giấc ngủ trong ngôi nhà
ấy là cái bóng của sự chết. Nhng
những ngời đến đó chỉ đi tìm cái sống
mà họ yêu tựa hồ nh đi tìm sự bất tử
[1, tr. 1071]. Đây giống nh sự trải
nghiệm cái chết, sự dấn thân của con
ngời hiện sinh để xoá bỏ bức màn vô
tri ngăn cách con ngời với cái chết.
Tởng rằng xoá bỏ bức màn vô tri thì
sự sợ hãi cái chết sẽ bị triệt tiêu nhng
càng tiến gần đến ngỡng cửa của cái
chết thì con ngời càng lo âu, run sợ. Họ
càng cố gắng để bám víu vào cuộc sống,
vào những gì sung sức, thanh sạch
nhất- kể cả kí ức và sức sống ảo mà
các cô gái đem lại trong một thời khắc
ngắn ngủi thì càng tuyệt vọng về tình
thế hiện thực thảm thơng của mình.

Nỗi sợ hãi và ám ảnh về cái chết
còn tiếp tục đợc thể hiện trong các tiểu
thuyết khác của Kawabata. Chỉ trong
cùng một tác phẩm Xứ tuyết nhng hai
cái chết đã xảy ra liên tiếp kề nhau: nếu
cái chết của chàng trai con bà giáo dạy
nhạc là cái chết diễn ra từ từ, đợc báo
trớc bằng những giây phút hấp hối,
khắc khoải thì cái chết của ngời yêu
anh, Yoko lại diễn ra đột ngột, dữ dội
nh trong các lễ hội hiến tế cổ xa.
Trong Ngàn cánh hạc, cái chết của
chồng bà Ota, cha và mẹ Kikuji đến cái
chết của mẹ con bà Ota nối tiếp nhau
nh một hành trình không dứt, nh là
kết cục tất yếu của những ai tham gia
vào mối quan hệ oan khiên, nghiệp
chớng. Trong Đẹp và Buồn, cái chết
của ngời mẹ già và đứa con đẻ non của
nàng hoạ sỹ Ueno tuy không đóng vai
trò sự kiện chính nhng bóng dáng của
nỗi đau mà nó gây nên lẩn khuất trong
cả câu chuyện. Nó ngăn nàng tìm đến
với hạnh phúc mới lẫn quay về với mối
tình cũ, ngăn cản Oki gặp lại ngời xa.



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 1b-2009



47

Nó làm cho mối tình trong sáng của
nàng với Oki nhuốm màu sắc bi ai.
Cũng có thể vì nó mà có cuộc trả thù
hộ của cô nàng học trò Keiko và kết
cục của sự trả thù ấy, cái chết của con
trai ông già Oki nh là sự trao đổi cho
những mất mát mà Ueno phải chịu
đựng.
Cái chết trong những tác phẩm kiểu
này không ma quái và rùng rợn nhng
nó lại tạo nên d âm, ám ảnh khủng
khiếp trong tâm hồn của những ngời
đang sống. Đích mà Kawabata hớng
đến biểu hiện trong các tác phẩm này
chính là trạng thái bị cái chết đe doạ
trong khi đang sống, là hiện sinh chân
thực của tất cả nhân sinh.
2. Cái chết đồng hành cùng cái đẹp
Cái đẹp gắn liền với nỗi buồn, gắn
với sự mong manh, h ảo nh chực tan
vỡ chính là một trong những đặc trng
của thẩm mĩ Nhật Bản. T duy thẩm
mĩ ấy đã ảnh hởng không nhỏ đến thái
độ của Kawabata trớc vấn đề cái chết.
Bên cạnh nỗi sợ hãi, Kawabata lại tôn
thờ và xem cái chết nh là nơi sinh
thành cái đẹp hoàn mĩ.

Trong Xứ tuyết, cái chết của Yoko
xảy ra đờng đột, bất ngờ. Yoko rơi
xuống từ trong ngọn lửa, bùng cháy
giữa khoảng không gợi cho ta liên tởng
đến những lễ hội hiến tế dã man của
ngời cổ xa. Tất nhiên, nó cũng gợi lên
những cảm giác đáng sợ: Thân hình
ngời phụ nữ vắt ngang khi rơi từ
khoảng không xuống cái thân hình
cững nhắc trong tự nhiên, vừa biến
dạng trong khoảng không Cái chân
hơi động đậy, động rất nhẹ khiến gần
nh không nhìn thấy. Nhng mà sự
giãy dụa thì dờng nh cha mất hẳn
[1, tr. 338]. Tuy vậy, sự thảm khốc, điêu
tàn từ thân thể Yoko lại có tác dụng kì
lạ. Nó gợi nên trong tâm trạng nhân vật
Shimamura một nguồn cảm xúc mới,
nhẹ nhàng và thanh thản. Anh cảm
nhận đợc vẻ đẹp, sự lí tởng từ chính
trong sự chết chóc: Cái thân hình cứng
nhắc, vừa biến dạng trong khoảng
không, bỗng mềm mại đến khó tin, dịu
dàng đến khó hình dung nổi đến nỗi
mất dạng cái vẻ trơ cứng của hình
ngời rối, đã làm tiêu tan ở anh sự khác
nhau giữa sống và chết. Nếu nh anh có
run rẩy cũng chỉ là sự lo ngại của một
sự phá rối tai hại nào đó: thứ lo sợ cái
đầu, đầu gối, một bên hông bất thần

làm gãy cái đờng nét lí tởng ấy[1, tr.
338]. Yoko trong anh lúc này nh một
tác phẩm nghệ thuật hoàn mĩ mà bất cứ
một chi tiết nào sai lệch cũng làm phá
hỏng sự hoàn hảo của nó. Có thể đây là
thói quen gạt bỏ hiện thực cụ thể để
mong hớng tới thiên đờng của sự hài
hoà và sự hoàn hảo tột đỉnh, sự chiến
thắng của mĩ học thuần tuý khi xem
xét mọi việc của anh: Nhng sự bất
động ấy lại khiến anh không mảy may
nghĩ đến hình ảnh nào của sự chết chóc;
anh coi đó nh là một sự hoá thân, một
giai đoạn trung chuyển, một hình thức
của cuộc sống thể chất [1, tr. 338]. Từ
những đổ nát, bên cạnh quang cảnh
chết chóc tang thơng của vài chiếc đà
của hành lang vừa sụp đổ vẫn còn bốc
cháy, những tia hắt đỏ của đám cháy
chập chờn, sự sống đã đợc hồi sinh cả
trong tâm hồn những ngời đang sống
lẫn trong quang cảnh: Một cảm xúc
mới mẻ xâm chiếm tâm hồn Shimamura
khi anh hồi tởng đến thứ ánh sáng kì
diệu, hun hút trên tầng cao của núi non
chiếu rọi trên nét mặt đầy gợi cảm của
Yoko, trong tấm gơng hoàng hôn của ô
cửa sổ, lúc anh tới đây để gặp Komako
[1, tr. 339]. Sự sống tâm hồn nảy sinh
từ trong cái chết thể xác. Vẻ đẹp thoát

thai từ bi thơng. Chính cái chết đã giải
phóng con ngời khỏi những ràng buộc,



Nguyễn Khánh Ly Cảm thức về cái chết trong tiểu thuyết , tr. 44-49


48

hệ lụy về mặt tâm hồn và chính nó cũng
đã cứu rỗi tâm hồn ngời khác. Theo
cách này, cái chết của Yoko chính là sự
hiến thân, là tinh thần tử vì đạo cho
cái đẹp. Quan trọng hơn, cái chết ấy
làm cho Shimamura chợt nhận ra bản
chất của cái đẹp không nằm ở hình
thức, không duy mĩ nh trớc đây anh
vẫn nghĩ mà nằm ở những điều kì diệu
nó mang lại cho tâm hồn con ngời. Đó
cũng chính là vẻ đẹp đích thực của xứ
tuyết mà lâu nay anh hằng kiếm tìm.
Phải chăng, Kawabata trong hành trình
tìm kiếm cái đẹp, bằng sự trải nghiệm
sâu sắc và tế vi đã cảm thấy cái đẹp từ
trong chết chóc, đau thơng và đổ vỡ-
giống nh cái đẹp hàm chứa trong
những kiệt tác bi ca của Nhật Bản?
3. Cái chết đồng hành cùng sự
giải thoát

Có thể nói, Kawabata có sự mâu
thuẫn giữa trạng thái sợ hãi, căm ghét
cái chết với thái độ trân trọng nó. Do
vậy, với ông, cái chết không chỉ là một
thực tại đáng sợ sẽ đến đe doạ con
ngời, cái chết không chỉ vùi sâu con
ngời trong màn đêm của sự sợ hãi mà
cái chết còn là cách thức để nhân vật
tìm đến sự giải thoát, để hoá giải mọi
tình huống mà lúc sống họ không thể
tháo gỡ nổi.
Nếu cái chết của Yoko trong Xứ
tuyết là nơi bắt nguồn của cái đẹp và là
nơi hồi sinh sự sống thì cái chết của mẹ
con bà Ota trong tiểu thuyết Ngàn cánh
hạc lại mang hình thức của một phép
màu hoá giải lời nguyền. Gia đình Ota
và gia đình Kikuji đã có những mối
quan hệ ràng buộc chặt chẽ về tình
cảm. Mối quan hệ ấy có cả tình bạn lẫn
tình yêu, cả trong thời loạn lẫn trong
hoà bình, với cả bậc tiền bối và những
ngời sau này, với cả ngời sống và kẻ
đã chết. Tất cả đã tạo nên một mối dây
.

quan hệ thật chằng chéo, phức tạp và
oan khiên. Và oan nghiệt có lẽ vẫn còn
tiếp diễn, mối tình ngang trái ấy sẽ
không có hồi kết nếu không có cái chết

của mẹ con bà Ota. Rốt cục, vì tình yêu
mà bà Ota phải chết nhng chính cái
chết đã giải thoát bà khỏi những ràng
buộc, khỏi sự đè nặng trong tâm hồn.
Cái chết làm cho bà trở nên đẹp đẽ và
đáng trọng hơn. Chỉ còn lại Kikuji, với
những giấc mơ hằng đêm về bà Ota, đã
tìm lại cảm giác thực với ngời con gái
của bà. Cô gái, dù ý thức đợc tội lỗi, sự
đáng chết của mẹ, dù trách mình đã
chia sẻ tình cảm cha con thời thơ ấu với
Kikuji nhng nàng cũng nh mẹ nàng,
không thể cỡng lại những tiếng gọi của
con tim- giống nh dù biết là oan khiên
nhng họ vẫn không thể kìm lòng trớc
vẻ đẹp của những chiếc bình cắm hoa
và chén uống trà cổ. Chính tình yêu đã
lại làm cho Kumiko phải chết bởi chỉ có
chết nàng mới thoát ra khỏi mối tình tai
ơng đó giống nh chỉ có chết nàng mới
hoá giải đợc lời nguyền. Nếu không,
nàng sẽ lại tiếp bớc con đờng nh của
mẹ. Cái chết đến với nàng bắt đầu từ dự
cảm: Sự chết chờ đợi ở sát chân mình.
Tôi thấy sợ. Tôi đã thử nhiều chuyện.
Tôi đã cố nghĩ là với sự chết ở liền ngay
chân tôi, tôi sẽ không còn bị cái chết của
mẹ tôi ám ảnh hoài huỷ nữa [1, tr.
433]. Sự giãi bày chân thật của nàng
với Kikuji trở thành sự bộc trực của cái

chết. Cái chết đã giải thoát nàng khỏi
sự ám ảnh của ngời mẹ, khỏi mối tình
oan nghiệt và cứu rỗi bản chất đáng
yêu, trong trắng của nàng. Mẹ con nàng
cùng nhau chia sẻ cái chết, nối tiếp
nhau trong bớc đờng tìm đến cái chết
giống nh cách họ đã cùng nhau chia sẻ
mối tình trầm luận với cha con Kikuji.
Trong trờng hợp này, khi không thể
dùng lý trí, dùng bát chính đạo để ức
chế thì cái chết đã có tác dụng hoá giải



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 1b-2009


49

nghiệp chớng, giải thoát con ngời
khỏi ái dục.
Nếu nh trong Tiếng rền của núi và
Ngời đẹp say ngủ, thực tại cái chết
nh là nợ trần ai mà con ngời tất yếu
phải gánh chịu, là cái án treo lơ lửng
trên đầu mỗi ngời thì trong hai tiểu
thuyết Xứ tuyết và Ngàn cánh hạc, cái
chết lại đợc các nhân vật chủ động đón
nhận, đợc xem là cách thức giải thoát
con ngời thoát khỏi nợ trần ai. Tuy

nhiên, điểm chung trong quan niệm về
cái chết ở những tác phẩm này là
Kawabata luôn muốn giành quyền chủ
động khi đón đợi cái chết. Ngời đẹp say
ngủ là quyền chủ động trong việc trải
nghiệm cái chết. Ngàn cánh hạc và Xứ
tuyết là sự chủ động tìm đến cái chết
nh tìm cơ hội giải thoát. Còn trong
Tiếng rền của núi, Kawabata đã có
những dòng phát biểu trực tiếp: Bởi
nếu tiếp tục sống những ngày tàn với sự
nhận thức rất rõ ràng căn bệnh ấy
không chữa đợc thì chỉ có nghĩa là tự
mình chịu đựng những đau khổ vô ích.
Một khi hiểu rằng không còn con đờng
nào khác thì con ngời có quyền ấn
định cho mình giờ kết thúc tất yếu [1,
tr. 554]. Đây chính là hành động nhằm
xoá bỏ sự vô minh của con ngời trớc
cái chết, làm cho cái chết không chỉ trở
thành thuộc tính khả tri mà con ngời
có thể chủ động trớc nó. Điều này
phần nào giải thích cho việc dù lên
tiếng phản đối việc tự sát nhng về già,
Kawabata lại kết thúc cuộc đời bằng
khí ga. Đây phải chăng chính là tham
vọng của ngời nghệ sỹ trong hành
trình xoá bỏ mọi giới hạn trong sáng tạo
văn chơng?


Tài liệu tham khảo

[1] Lu Phóng Đồng, Triết học phơng Tây hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, 1994.
[2] Ngô Minh Thuỷ, Ngô Tự Lập, Nhật Bản đất nớc con ngời và văn học, Nxb Văn
hoá - Thông tin, 2003.
[3] Lu Đức Trung, Bớc vào vờn hoa văn học Châu
á
, Nxb Giáo dục, 2002.
[4] S. Freud, Phân tâm học nhập môn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1998.
[5] Y. Kawabata, Tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao Động, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ
Đông Tây, 2005.


Summary

The feeling of death in Y. kawabatas novels

Kawabata is a famous writer in the modern literature of Japan. He always
writes about the beauty, the melancholy and the death. In his novels, the death is
both fearful reality and a place which bears beauty and it gets out of desire an
sufferings. Thus, it brings to readers a lot of interesting aesthetic feeling.

(a) Cao học 15, chuyên ngành lý luận văn học, trờng đại học vinh.

×