Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Quan niệm về thơ của Phạm Quỳnh trong Thượng Chi văn tập"" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.5 KB, 9 trang )




Báo cáo nghiên cứu
khoa học:

"Quan niệm về thơ
của Phạm Quỳnh
trong "Thượng Chi
văn tập""



Nguyễn Thị Thu Hiền

quan niệm về thơ của phạm quỳnh , tr. 22-29


22

quan niệm về thơ của phạm quỳnh
trong Thợng chi Văn Tập

Nguyễn Thị Thu Hiền
(a)


Tóm tắt. Phạm Quỳnh đợc xem là ngời mở đầu cho loại hình viết lý luận phê
bình và vận dụng lý luận phê bình mang t duy phân tích của phơng Tây vào
nghiên cứu văn học Việt Nam. Trong bài viết này chúng tôi đi sâu làm rõ quan niệm
mới về thơ hiện đại của ông trong bộ Thợng Chi văn tập: Thơ là gì?, kết cấu thơ, giới


thiệu thơ phơng Tây, phê bình văn thơ mới và chỉ ra các cơ sở: sự biến đổi đời sống
xã hội, sự thay đổi bản thân văn học, sự nhận thức của tác giả về xu hớng thời đại.

1. Những năm gần đây, trong
không khí đổi mới của đất nớc, sự đổi
mới về quan điểm nghiên cứu văn học,
nhiều vấn đề của lịch sử văn học đợc
xem xét lại một cách khoa học, khách
quan hơn. Trong nhiều vấn đề đó chúng
ta phải kể đến vấn đề đánh giá con
ngời và văn nghiệp của Phạm Quỳnh.
Trớc đây do bị chi phối bởi quan điểm
chính trị nên văn nghiệp Phạm Quỳnh
cha đợc nhìn nhận một cách thấu
đáo. Hiện nay trong xu thế hội nhập và
đổi mới, Phạm Quỳnh đợc đánh giá là
một học giả, một nhà văn hoá lớn của
dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX. Ông
đợc xem là ngời tiên phong trong thời
kỳ xây dựng và phát triển nền báo chí,
văn học quốc ngữ nớc nhà. Con ngời
và văn nghiệp của Phạm Quỳnh đã
đợc giới nghiên cứu bàn đến nhiều
hơn. Ông thực sự có công trên nhiều
lĩnh vực: văn hoá, văn học, giáo dục,
lịch sử, chính trị, trong đó đáng chú ý là
mảng viết về văn chơng. Đặc biệt
trong bộ Thợng Chi văn tập, Phạm
Quỳnh đối sánh thơ ta với thơ Tây
để xây dựng một loại hình lý luận mới

về thơ hiện đại.
2. Phạm Quỳnh (1892 - 1945) có bút
hiệu Hoa Đờng, Hồng Nhân và
Thợng Chi. Quê gốc của ông ở làng
Lơng Ngọc, phủ Bình Giang, tỉnh Hải
Dơng nhng ông sinh ra ở Hà Nội.
Năm 1913 ông là cộng tác viên của tờ
Đông Dơng tạp chí của Nguyễn Văn
Vĩnh. Ông đã viết một số bài về văn học
và t tởng đăng trên tờ báo này. Năm
1917, dới sự bảo trợ của một viên quan
chánh sở mật thám Đông Dơng là
Louis Marty, Phạm Quỳnh đứng ra
thành lập Nam Phong tạp chí. Tạp chí
này tồn tại đợc 17 năm (1917 - 1934)
ra đợc 210 số, riêng Phạm Quỳnh đóng
góp tới hàng chục ngàn trang viết. Bằng
tài năng và sự làm việc tận tuỵ chu đáo
của mình, Phạm Quỳnh đã trở thành
một nhà ngôn luận có khả năng
thuyết phục đủ mọi thứ chuyện trên đời
từ văn chơng đến chính trị, kinh tế,
triết học, giáo dục và cả những vấn đề
thời sự. Bộ Thợng Chi văn tập gồm 5
quyển chỉ là một phần nhỏ trong trớc
tác của ông, chủ yếu là các bài báo viết
ở giai đoạn đầu (1917 - 1922). Trong
Thợng Chi văn tập, ở mảng viết về văn
học, ông chú trọng các vấn đề tục ngữ,
ca dao, Truyện Kiều, bàn về tiểu

thuyết, thơ là gì. Các bài viết của Phạm
Quỳnh về thơ đến nay vẫn cha hết
tính thời sự, các thế hệ về sau vẫn phải
suy nghĩ và tiếp tục tìm cách lý giải.
2.1. Phạm Quỳnh đa ra một quan
niệm mới mẻ về thơ hiện đại mà lý luận
về thơ hoàn toàn dựa trên cơ sở thực tế
khách quan của nó. Trớc hết, Phạm
Quỳnh dựa trên những biến đổi quan
trọng ở các mặt của đời sống xã hội.
Trớc khi Pháp xâm lợc, xã hội Việt
Nhận bài ngày 23/02/2009. Sửa chữa xong 10/04/2009.



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 1b-2009


23

Nam là xã hội phong kiến phơng
Đông, con ngời sống gắn bó với cộng
đồng làng xóm, quan hệ thứ bậc rất
chặt chẽ, sống chủ yếu bằng nghề trồng
lúa, quan hệ xã hội cha có gì phức tạp.
Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thực
hiện chính sách khai thác thuộc địa, kết
cấu xã hội Việt Nam hoàn toàn thay đổi
so với trớc đó. Xã hội bắt đầu có sự
phân hoá sâu sắc. Hàng loạt giai cấp

mới bắt đầu xuất hiện: t sản, tiểu t
sản, trí thức, công nhân. Cuộc sống đô
thị trở nên nhộn nhịp hơn, con ngời có
nhiều thay đổi, bắt đầu có ý thức đề cao
cái tôi cá nhân, phát huy cá tính. Xã hội
phong kiến chuyển dần sang xã hội
thực dân nửa phong kiến. Sự thay đổi
xã hội kéo theo sự thay đổi văn hoá. Có
sự hoà nhập giữa văn hoá Việt Nam với
văn hoá khu vực. Tất nhiên cần thấy sự
ảnh hởng của văn hoá phơng Tây,
văn hoá Pháp đối với văn hoá Việt
Nam. Vì thế mà diễn ra sự tiếp biến
văn hoá, văn học trong khuôn khổ chế
độ thực dân tiếp thu cái mới chịu ảnh
hởng của cái thống trị dần dần hớng
theo nền văn hoá mới một cách không
thể cỡng lại đợc [4, tr. 16].
2.2. Nền văn học Việt Nam đi vào
quỹ đạo hiện đại là xuất phát từ bản
thân văn học. Đầu thế kỷ XX, văn học
Việt Nam đã vận động theo một hớng
mới. Quá trình này đi liền với quá trình
biến đổi lịch sử dân tộc trong điều kiện
khách quan: yêu cầu canh tân đất nớc,
hoà nhập văn hoá Việt Nam với văn hoá
khu vực. Đến trớc thế kỷ XX, cụ thể là
nửa đầu thế kỷ XIX trở về trớc, văn
học Việt Nam cũng giống nh văn học
một số nớc Đông Nam

á
chịu ảnh
hởng của văn hoá Trung Quốc - văn
học thời đại nhà nho và ảnh hởng Nho
giáo. Theo quan điểm Nho giáo, văn là
biểu hiện của đạo và đợc dùng truyền
đạt đạo lý thánh hiền, phải đem gơng
sáng đạo đức để giáo hoá. Văn học hiện
đại vợt khỏi ảnh hởng và hạn chế của
văn học những thế kỷ trớc mang tính
chất trung đại. Bản thân văn học có sự
thay đổi từ quan niệm sáng tác đến t
tởng thẩm mỹ, tính tự chủ của văn
học, ngôn từ văn học, Với sự thay đổi
của văn học, vấn đề con ngời cá nhân,
cá tính trong văn học cũng có phơng
pháp biểu hiện khác nhau. Bên cạnh đó
các phơng tiện kỹ thuật hiện đại ra
đời: in ấn, đánh máy, nhà in, nhà xuất
bản, và chữ quốc ngữ đợc phổ biến
rộng rãi. Các phơng tiện đó đã hỗ trợ
rất nhiều cho quá trình hiện đại hoá
nền văn học. Hơn nữa viết văn bây giờ
không còn là nghề chơi mà trở thành
một nghề kiếm sống. Trớc yêu cầu
của công chúng, độc giả thởng thức đòi
hỏi bản thân nền văn học phải đi vào
quỹ đạo hiện đại. Phạm Quỳnh là ngời
dễ dàng nắm bắt tính hiện đại của văn
học đơng thời vì ông là một trí thức

Tây học.
2.3. Phạm Quỳnh vốn xuất thân từ
một gia đình phong kiến nề nếp lâu đời
nên muốn giữ đạo Nho cổ truyền mà
ông cho là có những mặt tích cực đã
thấm sâu vào t tởng, linh hồn dân
tộc. Tất nhiên ông cũng nhìn thấy
những lề thói cổ hủ do chế độ phong
kiến để lại, nào là lối học h văn tầm
chơng trích cú cái học nhại lại những
bã rác của cổ nhân không sáng lập ra
một t tởng gì mới [3, tr. 1365]. Hơn
nữa Phạm Quỳnh là một trí thức đợc
đào tạo từ trờng thông ngôn của Pháp.
Ông có nhiều năm liên tục làm việc tại
Viễn Đông Bác cổ học viện. Nơi đây ông
có dịp đọc sách và tự học chữ Hán, vì
thế căn bản học thức về Tây học của
Phạm Quỳnh đợc mở mang rất sâu
rộng. Ông là ngời thông thạo tiếng



Nguyễn Thị Thu Hiền

quan niệm về thơ của phạm quỳnh , tr. 22-29


24


Pháp và am hiểu nền văn học Pháp.
Việc giảng dạy văn học Pháp, việc tiếp
xúc hàng ngày với các tác phẩm từ
Pháp gửi sang làm cho ông, cũng giống
nh mọi trí thức đơng thời, nhanh
chóng am hiểu những vấn đề của văn
học Pháp hiện đại. Văn học Pháp tác
động một cách sâu sắc đến sự phát triển
về sau của văn học nớc ta và làm nên
chỗ khác nhau giữa văn học Việt Nam
so với văn học các nớc cũng ở Đông
Nam
á
do hoàn cảnh chung mà đi vào
quỹ đạo văn học thế giới. Hơn thế nữa
loại văn nghị luận (phê bình, nghiên
cứu, lý luận văn học) vốn dĩ xuất hiện ở
nớc ta rất sớm. Khoảng thế kỷ XIV,
XV cha ông ta đã biên soạn, ghi chép,
bình luận dới hình thức là những bài
bạt, bài tựa, hay những lời bình. Đó là
lời tựa cho một tập thơ mới ra đời hay
th từ trao đổi văn chơng hoặc những
nhận định đánh giá dù dới hình thức
nào thì những bài bạt, bài tựa, lời bình
ấy đều mang nội dung nhận định, tổng
kết trên cơ sở phân tích văn bản nhằm
giao lu đối thoại, đánh giá, gợi mở,
định hớng [5, tr. 55]. Thể loại văn
nghị luận có những đóng góp cho văn

chơng thẩm mỹ thời trung đại. Sang
đầu thế kỷ XX hiện đại hoá lý luận, phê
bình lần đầu tiên xuất hiện trên Đông
Dơng tạp chí và Nam Phong tạp chí.
Đặc biệt những bài bàn về thơ, về tiểu
thuyết trong Thợng Chi văn tập của
Phạm Quỳnh vừa tiếp nối thế hệ tiền
nhân, vừa bộc lộ tính chất mới mẻ của
t duy phân tích phơng Tây. Dựa trên
những cơ sở có tính tất yếu đó Phạm
Quỳnh đa ra một quan niệm về thơ
hiện đại.
3. Trong Thợng Chi văn tập Phạm
Quỳnh đã có những bài viết cụ thể bàn
về thơ nh Thơ là gì, Thơ ta, thơ Tây,
Thơ Baudelaire. Ông đợc coi là ngời
tiên phong đa ra quan niệm về thơ
hiện đại. Quan niệm đúng đắn và có
tính khoa học của Phạm Quỳnh là cái
mốc quan trọng cho ngời sáng tác và
cả cho ngời nghiên cứu văn học hiện
đại về sau.
3.1. Phạm Quỳnh đa ra lý luận về
thơ trên cơ sở làm rõ khái niệm Thơ là
gì và những đặc trng của Thơ hiện
đại. Trong bài Thơ là gì ông đã chỉ ra
Thơ không chỉ xét ở mặt hình thức: có
vần và điệu mà phải xét thơ ở mặt tinh
thần. Phạm Quỳnh đã chỉ ra khái niệm
về thơ của ngời Tàu: Thơ là một nghề

phong nhã chủ diễn những tình ý cao
thợng ra lời đẹp, có ảnh hởng có tiết
tấu, khiến cho ngời nghe đợc vui tai
khoái trí [7, tr. 947]. Nhiều nhà làm
thơ ở Tàu, ở nớc ta coi thơ là một
nghề phong nhã bằng đẳng với ba nghề
khác nữa: cầm, kỳ, hoạ. Theo Thợng
Chi, khái niệm của văn học Tàu đa ra
là hợp về phơng diện mĩ thuật mà
thiếu tính triết lý. Trong nhìn nhận của
ông, các nhà làm thơ phơng Đông
phần nhiều là những nhà mỹ thuật mà
ít khi là nhà triết lý. Đối lập với khái
niệm Thơ của ngời phơng Đông,
Phạm Quỳnh giới thiệu khái niệm Thơ
của ngời phơng Tây ngời Tây coi
Thơ vừa là mỹ thuật vừa là triết lý, cái
tinh thần của thơ ta và thơ Tây khác
nhau là nh vậy. Từ chỗ giới thiệu quan
niệm khác nhau về thơ của ngời
phơng Đông và ngời phơng Tây,
Phạm Quỳnh thừa nhận quan niệm về
thơ của ngời phơng Tây. Ông đã quan
tâm và dịch ra tiếng Việt bài diễn
thuyết của một thi sĩ ngời Pháp
Prutgéraldy rồi giới thiệu trong bài viết
Thơ là gì của mình. Theo ông ta Thơ ví
nh một vị thần nhng rồi Thơ không
phải là thần đi tìm Thơ mà không biết
Thơ ẩn vào chỗ nào vậy; có khi mình




trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 1b-2009


25

tìm ở phơng này mà Thơ ở chốn nọ,
cũng có khi gần Thơ mà không biết ra
Thơ; không phải rằng cứ có hình thể
Thơ mới ra Thơ [7, tr. 951]. Điều này
có nghĩa là Thơ không chỉ có hình thức
bên ngoài, có vần có điệu là Thơ. Cái
hình thức là cái ngời ta dễ bắt chớc:
nh vần với điệu, trắc với bằng, ngời
tầm thờng mà dụng công mô phỏng
cũng làm đợc. Thơ cần chú trọng ở mặt
tinh thần. Thơ phải biết vợt qua thời
gian mà bớc vào cõi mới lạ có hứng
thú hơn. Ngời làm thơ không chỉ thay
đổi hình thức bề ngoài mà phải thay đổi
t tởng, tình cảm của chính mình,
phải đổi mới tâm hồn, tính cách của
mình ngời ta sở dĩ khao khát tìm Thơ
mà không thấy Thơ vì chỉ biết ở bề
ngoài mà không biết tìm ngay ở mình
[7, tr. 955]. Quan niệm về Thơ của thi sĩ
ngời Pháp đã đợc Phạm Quỳnh đồng
tình và giới thiệu một cách khá đầy đủ

thấu đáo.
Phạm Quỳnh đợc coi là ngời mở
đờng cho quan niệm về thơ của văn
học hiện đại. Lu Trọng L hơn chục
năm sau đó đa ra định nghĩa: Thơ sở
dĩ là thơ bởi vì nó súc tích gọn gàng, lời
ít mà ý nhiều và nếu cần tới nghĩa chỉ
vì thi nhân không xuất diện một cách
trực tiếp, lời nói thi nhân phải là hình
ảnh. Nhóm Xuân thu nhã tập quan
niệm về thơ nh một cái gì đấy không
thể giải thích đợc bằng lời. Họ đa ra
định nghĩa về thơ: Thơ là sự rung động,
có rung động là có thơ. Thơ là cái gì
huyền ảo, tinh khiết, thâm thuý, cao
siêu, hay thơ là đạo là tôn giáo là tình
yêu. Sau này trong Từ điển thuật ngữ
văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) đã có
quan niệm về thơ: Thơ là hình thức
sáng tác văn học phản ánh cuộc sống
thể hiện những tâm trạng những cảm
xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc
giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu.
Các tác giả đã thừa nhận định nghĩa về
thơ của Sóng Hồng: Thơ là một hình
thức nghệ thuật cao quý, tinh vi. Ngời
làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt, thể
hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhng
thơ là tình cảm lý trí kết hợp và có nghệ

thuật. Tình cảm và lý thuyết ấy đợc
diễn đạt bằng những hiện tợng đẹp đẽ
qua những lời thơ trong sáng vang lên
nhạc điệu khác thờng [2, tr. 309, 310].
Trong bài diễn thuyết, Phạm
Quỳnh quan tâm đến phần thi sĩ ngời
Pháp đa ra quan niệm về nhà thơ.
Theo thi sĩ ngời Pháp, ông cho rằng
nhà thơ có hai hạng. Mỗi hạng nhà thơ
có một cách diễn đạt khác nhau. Đó là
hai cách diễn tả: Một cách u ám và một
cách rõ ràng. Hạng thứ nhất là những
nhà thơ có cách diễn tả u ám. Họ làm
thơ chỉ có cái cảm giác mơ màng về thơ,
lối thơ này thờng mung lung, phiếu
diễu. Hạng thứ hai theo ông là những
nhà thơ có cách diễn đạt sáng sủa.
Những nhà làm thơ theo cách này
thờng trực tiếp với trí tuệ, cảm giác
hồn thơ một cách thẳng hơn và diễn ra
một cách minh bạch. Thơ này thuộc về
triết lý hơn là về âm nhạc, câu thơ dẫu
vẫn có tiết tấu, đọc vẫn véo von mà đó
chẳng qua là những cái bề ngoài, chính
tinh thần ở nơi triết lý không phải ở chỗ
âm điệu. Thi sĩ ngời Pháp có lý luận rõ
ràng bằng một câu khái quát âm nhạc
là thơ còn mờ, còn đục, triết lý là thơ đã
sáng đã trong [7, tr. 961].
Từ quan niệm về thơ, về nhà thơ,

thi sĩ ngời Pháp đã nhấn mạnh những
đặc trng của thơ Pháp, theo ông thơ
Pháp chú trọng về triết lý. Nhiều bài
thơ của các bậc thi hào Pháp thiên về
trí nhiều hơn về tình, a triết lý hơn là
âm thanh. Một số nhà thơ Pháp thế kỷ
19 chịu ảnh hởng thơ nớc Anh mà
thơ nớc Anh vẫn trọng về âm thanh.



Nguyễn Thị Thu Hiền

quan niệm về thơ của phạm quỳnh , tr. 22-29


26

Nhng ngời Pháp vốn a triết lý nên
thơ Pháp vẫn lấy rõ ràng, sáng sủa làm
trọng. Từ đó tác giả đi đến nhấn mạnh
đề cao vai trò của các nhà làm thơ có
cách diễn đạt sáng sủa, thơ có nghĩa lý
rõ ràng thờng tác động vào trí tuệ
ngời ta một cách sâu xa. Còn thơ mơ
màng phảng phất đọc xong không để
lại trong tâm trí ngời ta một tí gì. Thơ
Pháp mỗi thời có một đặc trng riêng,
hồn thơ mỗi thời một thay đổi Thế kỷ
17 là thời đại thơ văn toàn thịnh sau

này lấy làm đời cổ điển cho văn học
nớc Pháp; Kể đến thế kỷ 18 thời nhân
tâm biến đổi, thời thế suy vi cho nên đời
ấy cái hồn thơ suy kém hơn cả; thế kỷ
19 thời chủ nghĩa lãng mạn hình thành.
Các nhà thơ đều chỉ thờ một thần ái
tình, coi cuộc đời nh một trờng xuân
mộng, tha hồ mà đằm thắm mơ màng,
say sa vui thú; Nay thế kỷ ta đây thời
cái hồn thơ xuất hiện thế nào? Hiện nay
cha có thể mà đoán đợc mà biết đợc.
Nhng cũng có lẽ ngời đời theo đuổi
Thơ ở ngoài mãi đã nhọc sẽ tỉnh ngộ mà
quay về tìm Thơ trong tâm hồn mình và
cũng có lẽ tìm đấy thời thấy chăng? [7,
tr. 964, 965].
Giới thiệu bài diễn thuyết của thi sĩ
ngời Pháp tức là Phạm Quỳnh đã có ý
thức vận dụng những lý luận thơ của
ngời phơng Tây vào việc sáng tác thơ
ta trong thời hiện đại.
3.2. Từ việc đa ra cách giải nghĩa
Thơ là gì, Phạm Quỳnh chú ý đến vấn
đề kết cấu thơ. Sau này Bùi Văn
Nguyên, Hà Minh Đức từng giải thích
Kết cấu thơ ca là sự tổ chức nội dung
cảm xúc và thi tứ. Phần lớn nội dung
cảm xúc đợc tổ chức trên cơ sở sự vận
động và đối lập của tứ thơ giữa hiện
thực và mơ ớc, giữa cái tôi và cái ta,

giữa hiện tại và quá khứ [6, tr. 87].
Lúc bấy giờ Phạm Quỳnh đa ra hình
thức kết cấu mới về thơ. Ông cho rằng
thơ có hai phần: Một là âm điệu, hai là
tình tứ, âm điệu là phần hình thức, tình
tứ là phần tinh thần [7, tr. 163]. Hình
thức kết cấu thơ mỗi nớc khác nhau vì
tiếng mỗi nớc khác nhau thì âm điệu
không giống nhau nên thi luật của
nớc nào là riêng cho nớc ấy. Còn
tinh thần thì thơ nớc nào cũng giống
nhau, tinh thần thuộc về cảm hứng,
cảm hứng thuộc về lòng ngời mà lòng
ngời thì nớc nào cũng sớng, cũng
khổ, cũng buồn, cũng vui nh nhau.
Trong bài Thơ ta, thơ Tây, Phạm Quỳnh
đã đối sánh hai lối kết cấu của thơ ta
và thơ Tây để đi đến khẳng định đổi
mới về kết cấu thơ là một nhu cầu cần
thiết của văn học hiện đại.
Phạm Quỳnh đã có một nhận xét
xác đáng về luật thơ cũ luật thơ cũng
nghiêm nh luật hình. Ngời làm thơ
đòi hỏi phải thuộc luật, bằng trắc không
lẫn lộn, vần tất áp, luật tất niêm, điệu
tất xứng, đối tất chỉnh. Ngời nào
không thuộc luật thì phạm vào những
tội ghê gớm, nào là tội thất luật, tội thất
niêm, tội khổ độc, tội trùng ý, tội điệp
điệu. Thơ ta không những đòi hỏi về

luật mà còn phân đủ loại: Thơ thất
ngôn bát cú, Đờng luật bát cú, thủ vĩ
ngâm, bát cú liên hoàn, thất ngôn tứ
tuyệt ba vần, ngũ ngôn bát cú. Đặc biệt
là kết cấu thơ Đờng luật của nó mang
tính định sẵn. Kết cấu của một bài thơ
nh một cái khuôn định sẵn những suy
nghĩ, tình cảm của nhà thơ. Thơ Đờng
luật chia làm bốn phần: câu 1-2 là câu
đề (phá đề và thừa đề), hai câu 3-4 là
câu thực, hai câu 5-6 là câu luận, hai
câu 7-8 là câu kết. Hình thức kết cấu là
kết quả, là phơng thức biểu hiện nội
dung cảm xúc. Hình thức kết cấu của
thơ Đờng gò bó có khuôn khổ nh thế
nên nội dung, cảm xúc theo Phạm
Quỳnh là Những bức tranh cảnh con
con. Đã là bức tranh để vẽ cái cảnh đẹp



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 1b-2009


27

thiên nhiên hay là cảnh thú trong lòng
thì phải theo khuôn khổ, một bức tranh
phải phóng nét bút ngời thợ vẽ nghĩa
là phải làm thế nào truyền thần đợc

cái cảnh ấy trong mấy câu nhất định
không đợc hơn không đợc kém [7, tr.
50]. Thơ ta thực chất là những bức
phóng vẽ của thơ Tàu. Thơ ta theo
quan niệm nhà Nho: làm thơ để nói chí
(thi ngôn chí) để di dỡng tinh thần,
khuyên điều thiện, răn điều ác, thơ là
công cụ giáo dục con ngời. Nhận thức
đợc hạn chế của thơ Đờng luật, Phạm
Quỳnh trở thành ngời đầu tiên công
kích thơ Đờng: Ngời ta thờng nói
thơ là tiếng kêu tự nhiên của con tâm.
Ngời Tàu định luật nghiêm cho nghề
làm thơ là muốn chữa lại, sửa lại tiếng
kêu ấy, làm cho nó hay hơn, trúng vần,
trúng điệu hơn, nhng cũng theo đó mà
làm mất đi giọng thiên nhiên vậy [7,
tr. 50, 51].
Thơ phơng Tây, nhất là thơ Pháp
nhấn mạnh cảm xúc tự nhiên. Phạm
Quỳnh đã đa ra đối sánh thơ ta với
thơ Tây bằng việc giới thiệu một bài
thơ Đờng luật Qua đèo ngang và một
bài thơ Pháp. Theo ông Qua đèo ngang
tuy đợc coi là tuyệt bút nhng phần
nhân công nhiều, vẽ tự nhiên ít, chỉ là
một bức tranh cảnh. Cùng đầu đề ấy,
cảm hứng ấy mà vào tay một nhà thơ
Tây thì nét bút đậm đà hơn lời thấm
thiết, giọng điệu hùng hồn biết chừng

nào. Thí dụ nh bài thơ Buổi chiều chơi
núi cũng tả cảnh buổi chiều chơi núi mà
cảnh tình man mác gợi ra bao nhiêu ý
tứ cao thợng, bao nhiêu t tởng thâm
trầm. Từ việc đối sánh thơ ta với thơ
Tây, Phạm Quỳnh đã nhận ra sự khác
biệt rõ ràng giữa hai nền thơ này: Một
bên vụ bề nhân công, một bên chuộng
vẻ thiên thú. Vụ bề nhân công thì chủ
lấy cực kỳ tinh sảo, làm bài thơ nh
chạm một hòn ngọc, uốn một cái cây,
sửa một vờn cảnh, thế nào trong cái
giới hạn nhất định thêu nên bức gấm
trăm hoa. Chuộng vẽ thiên thú thì nhà
thơ tự coi mình nh cái phong cầm, tuỳ
gió thổi mà nên tiếng:
Tiếng trong nh hạc bay qua,
Tiếng đục nh suối mới sa nửa vời,
lời thơ phải tuỳ theo lớp sóng trong lòng
là khi dài, khi ngắn, khi thấp, khi cao
không thể cầm giữ trong phạm vi nhất
định [7, tr. 65].

3.3. Vận dụng lý luận phê bình
mang t duy phân tích của văn học
phơng Tây vào nghiên cứu văn học
Việt Nam, Phạm Quỳnh đã giới thiệu
phê bình thơ văn mới. Trong Thợng
Chi văn tập ông đã chọn và giới thiệu
Một tấm lòng của Đoàn Nh Khuê. Ông

khen Đoàn Nh Khuê có biệt tài làm
thứ thơ đa sầu, đa cảm. Cái đặc sắc của
tấm lòng là thi nhân biết cảm sâu hơn
ngời thờng bởi thế mà dễ sinh ra sầu.
Bài thơ hay nhất trong Một tấm lòng
theo Phạm Quỳnh là bài Bể thảm và
ông chê những bài văn xuôi trong tập
thơ văn ấy: Đại để ông Hải Nam hay
văn vần hơn văn xuôi, những bài văn
xuôi của ông nh bài Tựa, bài Bàn về
chữ tình còn cha đợc luyện lắm. Bài
tựa thì khí lôi thôi, mà bài tình thì
có lắm đoạn hơi buồn cời [7, tr. 202].
Lý luận về thơ mà Phạm Quỳnh đa ra
một mặt nhằm kêu gọi thi sĩ nớc ta
nên học tập, tiếp thu tinh thần thơ
phơng Tây, mặt khác, ông nhận thấy
sửa lối thơ cũ cũng phải dần dần
không thể phá bỏ trong một ngày cái
khuôn đã dùng từ xa đến nay. Theo
ông tiếp thu tinh thần thơ phơng
Tây trớc hết cha cần sửa lại âm điệu
vội, mà cốt nhất nuôi lấy cảm hứng. Để
minh chứng cho lý luận của mình ông
đã giới thiệu một nhà thơ tầm cỡ của
nớc Pháp thế kỷ XIX: Baudelaire.



Nguyễn Thị Thu Hiền


quan niệm về thơ của phạm quỳnh , tr. 22-29


28

Phạm Quỳnh đã giới thiệu một cách
khá tỉ mỉ, chi tiết về cuộc đời, con ngời,
t tởng và tập thơ
á
c hoa (Fleurs du
mal) đem lại vinh quang cho
Baudelaire. Phạm Quỳnh thừa nhận
cách đánh giá của các nhà phê bình
phơng Tây về thơ Baudelaire rằng ông
đã cống hiến cho ngời đời một cái
rùng mình mới lạ. Đồng thời Phạm
Quỳnh đã có những đoạn bình khá sắc
sảo về những rung động sâu kín, đau
đớn, về những cảnh éo le mà bi thảm
của hồn thơ Baudelaire: Ông vốn ham
những mĩ lệ trang nghiêm, nhng tả
cảnh ấy ra không phải cầu lấy sự khoái
lạc cho mình, tả ra chỉ chứng cho cái
sầu khổ ở đời, tả ra để cho biết rằng ở
đời không hề có vậy. Nhng ông vẫn rất
ham sự thực nữa lấy làm của báu nhất
đời. Một đời ông từng trải đủ mọi cảnh
khổ, cảnh nghèo, cảnh ốm, cảnh đói,
cảnh rét, cảnh đau đớn, cảnh bi thơng,

cảnh mất ngời yêu. Bởi thế lời thơ ông
bi đát vô cùng [7, tr. 167].
Phê bình văn thơ mới của Đoàn
Nh Khuê và giới thiệu thơ Baudelaire
có nghĩa Phạm Quỳnh rất quan tâm coi
trọng t duy thơ phơng Tây. Theo ông
thơ phơng Tây, cụ thể là thơ Pháp chú
trọng mạch cảm xúc chân thực tự
nhiên. Thế giới nội tâm của con ngời
đa dạng và phức tạp đợc giải bày một
cách thoải mái trong thơ. Nó hoàn toàn
đối lập với cảm xúc gò bó có tính chất
định sẵn của thơ Tàu, thơ ta. Chính
Hoài Thanh - Hoài Chân, trong Thi
nhân Việt Nam, khi đánh giá, tổng kết
về nghệ thuật thơ mới đã viện dẫn
quan niệm về thơ Phạm Quỳnh và cho
rằng Phạm Quỳnh là ngời đầu tiên
công kích thơ Đờng. Trong cuốn Thơ
mới trong nhà trờng phổ thông (xuất
bản 2008) Phan Huy Dũng cũng thừa
nhận lý luận của Phạm Quỳnh: trong
buổi đầu của Thơ mới hẳn các nhà thơ
rất tán đồng với nhận định của Phạm
Quỳnh khi ông bàn tới tâm lý lối thơ.
Và tác giả tiếp tục khẳng định: Tôn
trọng dòng chảy tự nhiên sống động của
cảm xúc là một hiện tợng mới trong
thơ liên quan đến sự trỗi dậy của ý thức
cá nhân, của khát vọng thành thực

đợc nói rõ những điều kín nhiệm u
uất đợc công khai xem cái tôi cá nhân
nh một khách thể nhìn đời hợp pháp
[1, tr. 14]. Phạm Quỳnh phê bình và
giới thiệu thơ Pháp nhằm mong muốn
thi sĩ nớc ta nên học tập tinh thần
thơ Tây để thay đổi cảm xúc làm thơ
đáp ứng yêu cầu của công chúng thời
đại mới.
4. Lý luận về thơ của Phạm Quỳnh
mở ra định hớng cho cả ngời sáng tác
và ngời nghiên cứu. Những bài bàn về
thơ đợc ông viết chủ yếu ở giai đoạn
đầu (1917-1922) khi nền văn học mới
đang trong thời kỳ phôi thai, kiến tạo.
Lý luận về thơ của ông đợc xem là đi
trớc thực tiễn sáng tác một bớc. Tuy
trên thi đàn lúc bấy giờ đã bắt đầu xuất
hiện những phá cách về thơ nh Tản
Đà, Đoàn Nh Khuê. Nhng ở thời
điểm đó cha có một sáng tác nào của
các nhà thơ, nhà văn có thể đáp ứng tất
cả những tiêu chí mà Phạm Quỳnh đề
ra. Lý luận đó đợc hiện thực hoá vào
những năm (1932-1945) khi phong trào
Thơ mới nở rộ những phong cách: Thế
Lữ, Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận,
Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử. Phạm
Quỳnh là ngời mở đầu cho loại hình
ngời viết lý luận và phê bình trong

tiến trình lịch sử văn học Việt Nam.
Mãi về sau mới xuất hiện các cây bút
phê bình sáng giá nh Phan Khôi,
Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Đặng Thai
Mai, Vũ Ngọc Phan. Ông xứng đáng là
một tác gia lý luận văn học của văn học
giao thời đầu thế kỷ XX.



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 1b-2009


29

Tài liệu tham khảo

[1] Phan Huy Dũng, Thơ mới trong trờng phổ thông, NXB Giáo dục, 2008.
[2] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Giáo dục, tái bản 2007.
[3] Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới mới, 2004.
[4] Trần Đình Hợu, Lê Chí Dũng, Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930,
NXB Giáo dục, 1995.
[5] Mã Giang Lân, Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục, 2000.
[6] Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Thơ ca hình thức và thể loại, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2006.
[7] Phạm Quỳnh, Thợng Chi văn tập (5 tập in chung), NXB Văn học, 2006.
[8] Trần Văn Toàn, Cảm quan thế giới trong lý luận phê bình văn học của Phạm
Quỳnh và tác động của nó trong tiến trình văn học, Nghiên cứu văn học, Số 9,
2008


SUM MARY

Pham Quynh's conception of poetry
in work Thuong chi van tap

Pham Quynh is considered to be a critic who marked the beginning for critical
theory in the history of Vietnamese literature. In his own work Thuong chi van tap,
Pham Quynh came up with the ideas about modern poetry, based on social and
literary change and authors knowledge about the tendency of the times. Pham
Quynh applied critical theory with analytic thought from Western literature to
study Vietnamse literature.

(a) Cao học 15, chuyên ngành Văn học Việt Nam, trờng đại học vinh.

×