Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Viện dân biểu Trung Kỳ với việc đấu tranh đòi những quyền lợi giáo dục cho nhân dân trong những năm 1926 - 1930" pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.63 KB, 8 trang )




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4A-2007


63
Viện dân biểu Trung Kỳ với việc đấu tranh đòi những quyền
lợi giáo dục cho nhân dân trong những năm 1926 - 1930

Trần Văn Thức
(a)
, Đậu Đức Anh
(b)


Tóm tắt. Bài viết làm sáng rõ sự ra đời của Viện dân biểu Trung Kỳ dới chiêu
bài "hợp tác Pháp - Việt" của thực dân Pháp. Theo quy định, hoạt động của tổ chức
này là t vấn các vấn đề kinh tế, tài chính, xã hội ở Trung Kỳ cho Chính phủ bảo hộ
và Nam triều. Tuy nhiên, với tấm lòng yêu nớc, thơng dân của các nghị viên trong
Viện dân biểu Trung Kỳ khoá đầu tiên (1926-1930) thì hoạt động của nó đã vợt ra
ngoài khuôn khổ cho phép của thực dân Pháp. Một trong những hoạt động nổi bật
của Viện đó là đấu tranh đòi những quyền lợi giáo dục cho nhân dân Trung Kỳ.

iện Những đại biểu của nhân
dân Trung Kỳ (Chambre des
Représentants du Peuple de

Annam) đợc thành lập theo Nghị định
ngày 24-2-1926 của Toàn quyền Varen
(Varenne). Về hình thức, Viện dân biểu


Trung Kỳ là "đại biểu của nhân dân"
nhng theo quy định của thực dân
Pháp, chức năng của tổ chức này lại chỉ
bó hẹp trong việc "t vấn" cho Chính
phủ bảo hộ và Nam triều các vấn đề
kinh tế, tài chính và xã hội chứ không
đợc phép bàn đến các vấn đề chính trị.
Tuy nhiên, bằng các hoạt động tích cực
của Viện, đa số các nghị viên đã thể
hiện tinh thần dân tộc, nhất là trong
nhiệm kỳ đầu tiên (1926-1930). Trong
đó, đấu tranh đòi những quyền lợi giáo
dục cho nhân dân Trung Kỳ là một
trong những nội dung đợc các nghị
viên u tiên thảo luận, thỉnh cầu, đề
đạt nhiều nhất tại các phiên họp của
Viện dân biểu Trung Kỳ từ 1926 đến
1930. Trong lĩnh vực giáo dục nói
chung, Viện dân biểu Trung Kỳ chủ yếu
hớng vào các mục tiêu chính: đấu
tranh đòi phổ biến rộng rãi việc học và
sử dụng chữ Quốc ngữ trong nhân dân;
cải cách nội dung, chơng trình học;
tăng ngân sách giáo dục và đòi mở rộng
thêm trờng lớp trong tất cả các cấp
học, ngành học cũng nh giảm học phí
và tăng học bổng cho học sinh ở
Trung Kỳ.
Nh chúng ta đã biết, đến thế kỷ
XIX, nền giáo dục Nho giáo Việt Nam

tồn tại gần 1000 năm, đã đào tạo đợc
nhiều nhân tài đáp ứng nhu cầu xây
dựng và quản lý đất nớc. Nhng, từ
thế kỷ XIX, khi Việt Nam bắt đầu "va
chạm" với văn minh phơng Tây thuộc
"Làn sóng văn minh công nghiệp" thì
nền giáo dục dựa trên học thuyết Khổng
Mạnh đã tỏ ra không phù hợp với việc
kinh bang tế thế nữa. Trong lúc đó,
thực dân Pháp xâm chiếm nớc ta và
từng bớc tổ chức những trờng học
theo kiểu phơng Tây nhằm đào tạo
thông dịch viên phục vụ cho quân đội
viễn chinh, giải quyết vấn đề bất đồng

Nhận bài ngày 12/11/2007. Sửa chữa xong ngày 11/12/2007.

V



Trần Văn Thức, Đậu Đức Anh Viện dân biểu Trung Kỳ với việc, tr. 63-70


64
ngôn ngữ và đào tạo th ký làm việc
trong các cơ quan hành chính, kinh tế
của Pháp ở Đông Dơng.
Đối với Trung Kỳ, cuộc cải cách giáo
dục lần thứ nhất (1886-1916) của thực

dân Pháp đã dẫn đến hiện tợng tồn tại
song song hai nền giáo dục: giáo dục
phong kiến và giáo dục thực dân. Tuy
nhiên, chất lợng giáo dục và sản phẩm
giáo dục lại cha đáp ứng đợc yêu cầu
mà thực dân Pháp đề ra. Do đó, từ năm
1917 đến năm 1929, thực dân Pháp tiến
hành cải cách giáo dục lần thứ hai với
mục tiêu xoá bỏ hoàn toàn nền giáo dục
phong kiến và xây dựng, củng cố nền
giáo dục thực dân. Về cơ bản, nội dung
cũng nh sản phẩm giáo dục ở Trung
Kỳ chỉ là nền giáo dục thực dân mà
trong đó ngời Pháp đầu t cho nó hết
sức nhỏ giọt chỉ với mục đích đào tạo ra
đội ngũ tay sai phục vụ cho công cuộc
cai trị và khai thác thuộc địa của
chúng.
Phơng châm của thực dân Pháp là:
kẻ nào nắm đợc những phần tử có học
sẽ nắm đợc vơng quốc, bởi vậy phải
sử dụng họ chứ không phải chống lại
họ. Từ những nhận định đại loại nh
trên về vị trí, vai trò của tầng lớp trí
thức cho nên bọn thống trị thực dân đã
từng bớc thi hành những chính sách,
thủ đoạn nhằm nắm và sử dụng các
phần tử có học mà chúng đã ý thức đợc
rằng đó là nguồn cung cấp quan lại, nha
lại, viên chức cho cả hai guồng máy

chính quyền Nam triều và thực dân ở
các cấp từ trung ơng xuống đến thôn
xã. Một mặt, thực dân Pháp can thiệp
vào hệ thống thi cử truyền thống nhằm
"cải tạo" dần lớp trí thức cựu học nhng
mặt khác, chúng đào tạo lớp tri thức
tân học để thay thế dần lớp trí thức cựu
học thông qua chính sách giáo dục nô
dịch của chủ nghĩa thực dân.
Một trong những hạn chế lớn nhất
nằm trong kế hoạch giáo dục của ngời
Pháp ở Trung Kỳ là hệ thống chơng
trình bị "Pháp hoá" đến cao độ làm cho
ngời ta cảm thấy tiếng mẹ đẻ chỉ là
một thứ "ngoại ngữ", một "ngoại ngữ" bị
coi thờng, rẻ rúng từ cấu tạo chơng
trình tới nội dung học tập. Bên cạnh đó,
trong số các vấn đề mà học sinh đợc
đào tạo có những nội dung học tập
không thiết thực đã bị nhồi nhét ngay
từ tuổi ấu thơ:
"- Học sinh 9 tuổi (Sơ đẳng tiểu học)
phải học: "Công cuộc chiếm đóng xứ An
Nam của ngời Pháp"; Ngời Pháp đã
chiếm đóng xứ An Nam từ bao giờ và đã
chiếm đóng nh thế nào; Ngời Pháp đã
làm gì ở xứ An Nam; Công việc bình
định và tổ chức cai trị của ngời Pháp".
- Học sinh 10 tuổi (Trung đẳng tiểu
học) phải học: "Triều Nguyễn; Trịnh -

Nguyễn phân tranh; Cuộc khởi loạn của
Tây Sơn; Ngời Pháp ở xứ Đông Dơng;
Giám mục Ađrăng; Gia Long và những
ngời kế tục Gia Long; Cuộc chiếm
đóng xứ Nam Kỳ của ngời Pháp; Nền



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4A-2007


65
bảo hộ của ngời Pháp ở Trung Kỳ và
Bắc Kỳ; Sơ lợc về tổ chức cai trị của
ngời Pháp ở ba Kỳ".
- Học sinh 11 tuổi (Cao đẳng tiểu
học) phải học: "Lịch sử nớc Pháp; Sự
nghiệp của nền Đệ Tam Cộng hoà Pháp;
Công cuộc bành trớng thuộc địa của
nớc Pháp; Đại chiến thế giới (Thứ
nhất); Lòng trung thành của dân bản
xứ các thuộc địa của Pháp, đặc biệt là
Đông Dơng". Ngoài ra, trong cái gọi là
bộ môn "Luân lý", học sinh 11 tuổi còn
phải học mục "Bổn phận đối với nớc
Pháp". Những "bổn phận" ấy đợc ghi
rõ trong chơng trình và gồm bốn "bổn
phận chính" là: "Phải biết yêu kính
nớc Pháp; Phải biết ơn nớc Pháp;
Phải cúc cung tận tụy đối với nớc

Pháp; Phải trung thành với nớc Pháp".
- Học sinh trờng Trung học, học hệ
bốn năm. Học sinh phải học môn lịch sử
và địa lý nớc Pháp, và một số vấn đề
nh: "Sự nghiệp của nớc Pháp ở Đông
Dơng; Tổ chức bộ máy cai trị của ngời
Pháp ở Việt Nam" [2, 262].
Tuy nhiên, ngời ta không cần quan
tâm khắc phục hạn chế này bởi lẽ nền
giáo dục chỉ có một mục đích phục vụ
cho quyền lợi chủ nghĩa thực dân Pháp
hơn là cho nhân dân bản xứ. Bên cạnh
đó, ở các trờng làng vẫn tồn tại những
lớp dạy chữ Hán theo lối cổ truyền của
các thầy đồ cuối mùa. Nh vậy, thực
dân Pháp đã giành quyền "đào tạo văn
hoá", sau đó "đào tạo nghề nghiệp" cho
ngời dân thuộc địa ngay từ tuổi ấu thơ.
Với quyền lực của kẻ cai trị, chúng đã
thông qua các chơng trình giảng dạy,
ra sức xuyên tạc lịch sử Việt Nam nói
riêng, lịch sử các dân tộc bị chúng thống
trị nói chung. Thâm độc hơn, qua đó,
thực dân Pháp tìm mọi cách thủ tiêu
tinh thần dân tộc, chống thực dân xâm
lợc của nhân dân ta, để rồi cuối cùng,
chúng hi vọng dùng thứ văn hoá cao
hơn của kẻ cai trị nhằm đồng hoá dân
tộc Việt.
Trớc tình hình và thực trạng giáo

dục ở Trung Kỳ nh vậy, các nghị viên
trong Viện dân biểu Trung Kỳ đã nhiều
lần lên tiếng yêu cầu Chính phủ bảo hộ
cần phổ biến chữ Quốc ngữ trong nhân
dân. Hay nói cách khác, đó chính là yêu
cầu đòi Việt hoá một phần nội dung
chơng trình giáo dục trong xứ Trung
Kỳ: "Nay muốn cho quốc dân đều xu
hớng về sự học Quốc ngữ là một thứ
chữ dễ hiểu, dễ dùng, dễ gây nền giáo
dục phổ thông cho chóng đợc thành
hiện thời" [6, 5].
Nh chúng ta đều biết, chữ Quốc
ngữ là một thứ chữ đợc sáng tạo ra
nhằm mục đích truyền bá đạo Thiên
chúa vào Việt Nam của chủ nghĩa thực
dân phơng Tây. Đây là chữ viết đợc
tạo bởi các ký tự La tinh dùng để phiên
âm tiếng Việt. Nếu nh cuối thế kỷ XIX,
chữ Quốc ngữ bị các trí thức Nho học của
Việt Nam tẩy chay thì sang đầu thế kỷ
XX, nó lại đợc các trí thức Nho học thức
thời tiếp nhận và truyến bá qua hoạt



Trần Văn Thức, Đậu Đức Anh Viện dân biểu Trung Kỳ với việc, tr. 63-70


66

động của phong trào Duy tân, phong
trào Đông Kinh Nghĩa Thục Một điều
đặc biệt là trong Viện dân biểu Trung
Kỳ có những trí thức Nho học đã từng
một thời tham gia hoặc làm lãnh tụ
trong phong trào Duy tân ở Trung Kỳ
những năm đầu thế kỷ XX. Vì lẽ đó các
nghị viên này đã lợi dụng "quyền đợc
nói, đợc bày tỏ ý kiến" của mình trong
nghị trờng để đấu tranh với Chính phủ
bảo hộ nhằm phổ biến rộng rãi chữ Quốc
ngữ trong nhân dân. Sâu xa hơn, qua đó
các nghị viên muốn giữ gìn, khơi dậy
tinh thần dân tộc cho ngời đi học nói
riêng, cho nhân dân nói chung nh mục
đích của phong trào Duy tân và Đông
Kinh Nghĩa Thục những năm đầu thế kỷ
XX.
Về biện pháp thông dụng chữ Quốc
ngữ trong nhân dân, các đại biểu đã "thể
lòng công chúng đem ý kiến mà tỏ bày"
nh sau: "Chi bằng Nhà nớc công nhận
chữ Quốc ngữ làm một thứ văn tự thông
dụng cho các nơi công, t. Muốn thi hành
không trở ngại, thời xin bắt đầu từ nay,
hạ lệnh cho các nơi công nha, và hơng
thôn, đều phải dự bị học tập Quốc ngữ
thói việc công (nh án kiện bẩm, t báo,
đơn khai), việc t đều bắt buộc dùng
chữ Quốc ngữ làm gốc cả, còn nh chữ

Hán, chữ Pháp chỉ để làm các món bác
học, khảo cứu học chớ không đợc đem ra
thông dụng thay cho chữ Quốc ngữ trong
các công việc công, t" [6, 5]. Nh vậy,
mong muốn của Viện dân biểu Trung Kỳ
là đòi thực dân Pháp xoá bỏ việc sử dụng
chữ Hán, chữ Pháp trong những công
việc hành chính của nhà nớc. Nhng, có
một điều đặc biệt là họ không trở nên
thái quá, không chủ trơng vứt bỏ tất cả
mà chủ trơng chấn hng, phát huy tinh
hoa cổ học của chữ Hán, tiếp thu cái mới,
cái hay của chữ Pháp. Còn đối với chữ
Quốc ngữ đợc coi là hồn thiêng của đất
nớc, tinh hoa của dân tộc: "Có chữ Quốc
ngữ, xã hội sẽ tiến bộ thêm dới ánh sáng
mặt trời thế kỷ XX. Nó là một thứ khí
giới sắc bén giúp con ngời ý thức đợc
cái h hèn của mình, thấy đợc cái hay
ho, mới mẻ của ngời mà học hỏi theo. Có
nh vậy, dân chúng sẽ trở nên lớp ngời
tiến bộ, mới gọi là "ngời" thì xã hội lo chi
không có ngày phồn vinh". Điều này
đúng nh Huỳnh Thúc Kháng từng chủ
trơng trong phong trào Duy tân ở Trung
Kỳ những năm đầu thế kỷ: "Chữ Quốc
ngữ là hồn trong nớc/ Phải đem ra tỉnh
trớc dân ta" [3, 117].
Bên cạnh đó, để cho chữ Quốc ngữ
đợc thông dụng và phổ biến rộng rãi

trong dân chúng, đến đợc với lớp ngời
bình dân, Viện dân biểu Trung Kỳ đề
đạt: "Cho các nhà t tự do mời thầy dạy
Quốc ngữ, không bắt các thầy có bằng
cấp, cũng không bắt buộc dạy đúng
chơng trình, miễn là có dạy Quốc ngữ,
quốc văn là đợc" [6, 5].
Các đại biểu cũng đã cố gắng đi sâu
vào nội dung chơng trình, phê phán
những sách giáo khoa không khoa học,
thiếu chính xác nhằm giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt và chữ Quốc ngữ:



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4A-2007


67
"Xin đừng liệt vào giáo khoa những
sách mà phần nhiều ngời An Nam
công nhận là không đúng tiếng An Nam
nh những quyển: "Tiếng một An
Nam", "Luận tiếng An Nam", "Mẹo An
Nam" của ông Tống Viết Toại" [4, 47].
Về tình hình giáo dục ở Trung Kỳ,
các nghị viên đã nhiều lần nêu lên thực
trạng "học giới bó buộc": "Xứ Trung Kỳ
bây giờ học cũ đã bỏ hẳn, mà học mới
trăm phần cha đợc một, trờng công

không đủ dùng, mà trờng t thì không
có, gia dĩ chơng trình thì hạn chế, quy
luật ngăn ngừa, dân thì lấy sự học làm
sinh mệnh, mà quan xem sự học nh
một sự thù nghịch (trờng công thì nghị
định thay đổi, trờng t thì xin phép
lãnh bằng, khai báo lôi thôi, gần đây vì
sự lập trờng học mà bị lụy cũng
thờng thấy luôn)" [3, 690].
Nh vậy, đằng sau ánh sáng hào
quang của bức tranh "khai hoá văn
minh" của ngời Pháp ở xứ Trung Kỳ là
một nền học giới bó buộc. Trong đó,
thực dân Pháp chỉ đầu t cho giáo dục
một cách nhỏ giọt, chủ yếu tìm cách
"nhồi nhét" ngời đi học một lợng kiến
thức "vừa đủ" để làm tay sai cho bọn
chúng. Bởi lẽ, nền giáo dục ấy cốt chỉ
đào tạo ra một đội ngũ công chức bản
xứ hạ đẳng, những giáo viên sơ cấp,
những thông ngôn và th ký để làm tay
sai, giúp việc cho ngời Pháp trong bộ
máy cai trị và khai thác thuộc địa nhằm
thu lợi nhuận tối đa cho bọn chúng. Âm
mu của thực dân Pháp là trói buộc dân
tộc ta trong "chính sách ngu dân" để dễ
bề cai trị, để đè đầu cỡi cổ nhân dân
bản xứ. Bởi thế mới dẫn đến hiện tợng:
"những con em chực học cũng đành úp
mặt vào tờng, ngày xanh ngơ ngáo,

cha thấy con mà đau lòng, tuổi trẻ bơ
vơ, anh em trông mà nóng ruột, tình
cảm (cảnh) rất là thê thảm" [3, 690].
Đứng trớc tình hình học giới nh vậy
mà "Nhà nớc một nói rằng khai hoá,
hai nói rằng hợp tác, mà về đờng học
giới không chịu châm chớc thế nào cho
thoả hiệp, thì ức vạn thiếu niên An
Nam, sẽ thành một bọn thất nghiệp.
Nhóm bao nhiêu ngời vô nghiệp mà lại
mong dìu dắt lên đờng tấn hoá thật là
một điều dân gian không sao tin đợc,
đem đứa đui đi đờng thì ngời dân
cũng nhọc sức, bảo ngời điếc nghe hát
thì hát hay cũng đành uổng công" [3,
690].
Và, để "vớt chìm, chữa cháy" tình
trạng thất học trong nhân dân, các nghị
viên trong Viện dân biểu Trung Kỳ yêu
cầu chính phủ nên thi hành chính sách
cỡng bách giáo dục, cho nhân dân đợc
tự do lập trờng học và xin ban bố
chơng trình về lập trờng t thục cho
dân gian biết, để các quan hành chính
khỏi hiểu lầm mà ngăn cấm. Các nghị
viên cũng cho rằng, mặc dù đối với giáo
dục, nhà nớc cũng nhiều phen cải
cách, nhng bảo là "hoàn thiện" thì
không đúng vì nền giáo dục ấy một mặt
đang mang nặng ảnh hởng của giáo

dục Pháp và mặt khác cha thoả mãn



Trần Văn Thức, Đậu Đức Anh Viện dân biểu Trung Kỳ với việc, tr. 63-70


68
đợc nhu cầu học tập chính đáng của
nhân dân bản xứ. Do đó, họ đã yêu cầu
Chính phủ:
"a, Về phần sơ cấp, thì nên lập riêng
một nền giáo dục phổ thông cho bản xứ,
lấy Quốc ngữ và quốc văn làm cốt yếu,
thi hành ở các trờng Hơng học và
Tổng học, giáo khoa thì nên theo một
trình độ cao hơn trình độ bằng cấp sơ
học yếu lợc bấy giờ, cho đợc tơng
đơng bằng cấp sơ học Pháp - Việt
b, Dân Trung Kỳ cha đợc thoả
nguyện về khoá Cao đẳng tiểu học. Số
học trò mỗi ngày thêm đông, mà số
trờng học không thấy mở rộng. Bởi
vậy, Viện chúng tôi xin mở thêm các
lớp học ở mấy trờng Cao đẳng tiểu học
ở Huế, Vinh và Quy Nhơn.
c, Lập một trờng Trung học tú tài
ở Huế thì rất tiện và đỡ tốn cho học sinh
15 tỉnh đạo Trung Kỳ lắm lắm" [5, 14].
Nh vậy, những yêu cầu của Viện

dân biểu Trung Kỳ về giáo dục quả
không có gì quá to tát so với chủ trơng
"đại khai hoá văn minh" và "hợp tác
Pháp - Việt" của ngời Pháp. Mặt khác,
những yêu cầu trên đây của Viện dân
biểu Trung Kỳ lại rất hợp với mong
muốn, nhu cầu học tập chính đáng của
con em nhân dân trong xứ.
Thật vậy, với chính sách "ngu để
trị", thực dân Pháp chỉ đầu t vào giáo
dục một cách nhỏ giọt, luôn kiểm soát
chặt chẽ và gò bó nó không cho vợt ra
ngoài khuôn khổ cho phép. Và, nh lời
Nguyễn ái Quốc đã viết: "Ngoài mục
đích giáo dục để đào tạo tuỳ phái, thông
ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết
phục vụ cho bọn xâm lợc - ngời ta đã
gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo
trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa,
vì một nền giáo dục nh vậy chỉ làm h
hỏng mất tính nết của ngời đi học, chỉ
dạy cho họ một lòng "trung thực" giả
dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những
kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên
yêu một tổ quốc không phải là tổ quốc
của mình và đang áp bức mình" [1,
127]. Quan trọng nhất, đằng sau chính
sách giáo dục đó, thực dân Pháp muốn
tạo ra tâm lý "sợ Pháp", "phục Pháp",
"biết ơn ông thầy khai hoá" trong nhân

dân và nhất là trong giới trẻ - thế hệ
tơng lai của đất nớc mà chúng rất lo
sợ. Và, hệ quả to lớn nhất trong chính
sách giáo dục mà ngời Pháp "gửi" lại
nơi đây là con số hơn 95% ngời dân
Việt Nam mù chữ dới ách thống trị
của thực dân phong kiến.
Chứng kiến thực trạng đó, các nghị
viên trong Viện dân biểu Trung Kỳ đã
nhiều lần lớn tiếng "đấu tranh" gay gắt
với thực dân Pháp nhằm xoá bỏ sự bó
buộc, gò ép trong học giới, đòi mở rộng
trờng lớp, ra quy chế lập trờng, tăng
học bổng, giảm học phí, giảm tải các
môn học không cần thiết và nhất là
tăng ngân sách giáo dục cho toàn Xứ.
Đã có những lúc Viện dân biểu Trung



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4A-2007


69
Kỳ và Chính phủ bảo hộ "xung đột" gay
gắt tại nghị trờng.
Viện dân biểu Trung Kỳ không chỉ
lu ý vào đội ngũ trí thức, con em nhà
có điều kiện đi học mà đã có một cái
nhìn toàn diện về các giai tầng của xã

hội. Trong những bản yêu cầu đòi phát
triển giáo dục cho nhân dân trong Xứ
thì tầng lớp đợc Viện dân biểu Trung
Kỳ hết sức quan tâm đó "những ngời
nghèo khổ đang ngày đêm phải sống
trong một xã hội nghèo đói, bất công
đơng thời". Bởi lẽ, dân chúng ở thôn
quê thì sinh hoạt của họ chỉ bó hẹp
trong một nền kinh tế tự cung, tự cấp
cho nên các gia đình nghèo khó, có con
đi học chỉ biết mong rằng con mình
kiếm đợc "đôi ba chữ bỏ bụng" để sau
này may ra đọc đợc tờ khế ớc bán đất,
vay nợ hoặc đọc đợc bộ gia phả dòng
họ, gia tộc. Xuất phát từ cuộc sống nhân
dân, từ nhu cầu học tập chính đáng của
nhân dân, Viện dân biểu Trung Kỳ đã
có cái nhìn đầy cảm thông đối với
những ngời nghèo trong xã hội và qua
đó chứng tỏ tấm lòng yêu nớc thơng
dân của Viện. Nhìn nhận một cách
khách quan, chúng ta thấy, những hoạt
động đấu tranh đòi quyền lợi giáo dục
cho nhân dân Trung Kỳ trong Viện dân
biểu Trung Kỳ đã vợt ra ngoài chức
năng "t vấn" các vấn đề kinh tế, tài
chính, xã hội mà thực dân Pháp quy
định khi thành lập tổ chức này. Nh
vậy, Viện dân biểu Trung Kỳ đã lột tả
giữa chốn nghị trờng đợc phần nào

bức tranh lầm than của giáo dục Trung
Kỳ và nêu lên đợc ít nhiều nguyện
vọng của nhân dân. Tuy nhiên, tiếng
nói ấy còn yếu ớt trớc thực trạng của
đất nớc, tình cảnh của nhân dân và
bất khả thi trớc âm mu và lòng tham
vô đáy của thực dân cai trị.
Thực chất của những yêu cầu đó là
nhằm đáp ứng nhu cầu học tập cho
quảng đại nhân dân trong Xứ, nhng
đằng sau đó chúng ta thấy, chính
những nghị viên trong Viện dân biểu
Trung Kỳ muốn thực hiện chính sách
"chấn hng dân trí" nh các nhà Duy
tân của Việt Nam đầu thế kỷ XX từng
hô hào: "Khi nào dân ta có trình độ hiểu
biết nh ngời các nớc văn minh thì tự
nhiên vấn đề độc lập đợc giải quyết
nh lật bàn tay" [3, 257]. Rõ ràng,
những thỉnh nguyện, yêu cầu cải thiện
tình hình giáo dục cho nhân dân Trung
Kỳ và phản ứng gay gắt chính sách
"trói buộc dân tộc ta trong vòng tăm tối,
lạc hậu" dới ách cai trị của thực dân
phong kiến đã thể hiện tinh thần yêu
nớc, ý thức dân tộc của các nghị viên
trong Viện dân biểu Trung Kỳ mà trong
đó có những con ngời "cả một đời vì
nớc vì dân".






Trần Văn Thức, Đậu Đức Anh Viện dân biểu Trung Kỳ với việc, tr. 63-70


70

Tài liệu tham khảo

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, NXB Sự thật, Hà Nội, 1981.
[2] Dơng Kinh Quốc, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trớc Cách mạng Tháng
Tám 1945, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005.
[3] Nguyễn Quang Thắng, Huỳnh Thúc Kháng-con ngời và thơ văn, NXB Văn học,
TP. Hồ Chí Minh, 2006.
[4] Trung kỳ Nhân dân Đại biểu Viện, Biên bản kỳ Hội đồng năm 1928, NXB Đắc
Lập, Huế, 1928.
[5] Trung kỳ Nhân dân Đại biểu Viện, Biên bản kỳ Hội đồng năm 1929, NXB Đắc
Lập, Huế, 1929.
[6] Trung kỳ Nhân dân Đại biểu Viện, Các bản thỉnh cầu của nghị viên Thanh Hoá,
Nghệ An và Hà Tĩnh, NXB Đắc Lập, Huế, 1926.

Summary

Central Vietnam Institute of Peoples Representatives in the
Struggle for Its Peoples Educational Interests (1926 1930)

This paper aimed to clarify the establishment of the Central Vietnam Institute
of Peoples Representatives in the label French Vietnamese Cooperation of the

French colonialists. According to regulations, the operation of this organization was
to consult economic, financial and social issues of central Vietnam for the
protectorate and southern Vietnam. However, with the patriotism and compassion
for the peoples of the representatives of the Institute in the first term (1926 1930),
its operation extended out of the regulations of the French colonialists. One of its
striking activities was to struggle for the peoples educational interests in central
Vietnam.

(a)
Khoa Lịch sử, trờng Đại học Vinh
(b)
cao học 13 Lịch sử Việt Nam, trờng Đại học Vinh.

×