Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " ảnh hưởng của việc bổ sung bột sắn vào khẩu phần ăn đến hiệu quả nuôi bò Laisind." ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.04 KB, 7 trang )




N. H. Minh, N. K. Đờng, N. H. Văn ảNH HƯởNG NUÔI Bò LAI SIND, tr. 32-38


32
ảNH HƯởNG CủA VIệC Bổ SUNG BộT SắN
VàO KHẩU PHầN ĂN ĐếN HIệU QUả NUÔI Bò LAISIND

Nguyễn Hữu Minh

(a)
,
Nguyễn Kim Đờng
(a)
, Nguyễn Hữu Văn
(b)


Tóm tắt. Nghiên cứu nhằm xác định ảnh hởng của bổ sung bột sắn và mức bổ
sung bột sắn vào khẩu phần ăn đến khả năng tiếp nhận thức ăn và hiệu quả chăn nuôi
của bò thịt. Thí nghiệm đã đợc triển khai trên 20 bò Laisind (không thiến, 15-18
tháng tuổi, khối lợng 150-180 kg), nuôi cá thể trong 5 lô thí nghiệm (I, II, III, IV và
V). Khẩu phần ăn của lô I là khẩu phần cơ sở (CT): cỏ voi (1,25% khối lợng sống
(VCK), lô II là CT + 0,33% bột sắn (có 2% ure), lô III là CT + 0,66%, lô IV là CT +
1,32% và lô V là CT + 1,98%. Thí nghiệm kéo dài 3 tháng và đã thu đợc các kết quả:
(i) lợng bột sắn tối đa bò thu nhận đợc là khoảng 1,4% (1,3-1,5%) and 1,32% là mức
tốt nhất. (ii) Mức bột sắn bổ sung lên tới 0,33% bắt đầu làm giảm lợng thức ăn xơ thô
(rơm rạ và cỏ voi) tiếp nhận và mức giảm sẽ tăng lên khi tăng mức bột sắn bổ sung vào
khẩu phần, nhng tổng lợng thức ăn thu nhận của bò vẫn tăng. (iii) Bổ sung bột sắn


vào khẩu phần ăn của bò sinh trởng đã thu đợc hiệu quả chăn nuôi cao hơn so với
không bổ sung.

ĐặT VấN Đề
Trong những năm qua ngành chăn nuôi Việt Nam đã có những bớc phát triển
mạnh cả về số lợng đàn vật nuôi và lợng sản phẩm sản xuất. Con bò đóng một vai
trò quan trọng trong đời sống của hàng triệu gia đình nông dân vì đó là nguồn cung
cấp thịt, sức kéo, phân bón và nó còn đợc coi là một loại ngân hàng di động.
Nói chung, nguồn thức ăn chính cho gia súc nhai lại ở các nớc nhiệt đới vẫn dựa
vào cỏ tự nhiên và phế phụ phẩm nông nghiệp giàu xơ (Koakhunthod và cs., 2001;
trích dẫn bởi Nguyễn Xuân Bả, 2006). Diện tích trồng cỏ bị hạn chế nên bò chủ yếu
đợc chăn thả trên đất công cộng, nh ven đờng, bờ ruộng, đất trống và cho ăn
thêm các sản phẩm phụ từ ngành nông nghiệp, do vậy tăng trọng thấp (Hassall và
cs, 1991; trích dẫn bởi Vũ Chí Cơng, 2002; Nguyễn Xuân Bả, 2006). Nguyên nhân
chủ yếu là do hàm lợng nitơ của các loại thức ăn này thấp (Jackson M. G. 1978;.
trích dẫn bởi Vũ Chí Cơng, 2002; Nguyễn Xuân Bả, 2006) và tỷ lệ tiêu hóa thấp
(Orskov và cs., 1985; trích dẫn bởi Vũ Chí Cơng, 2002; Nguyễn Xuân Bả, 2006).
Để phát triển chăn nuôi bò bền vững, phơng thức chăn nuôi bò chủ yếu dựa vào
nguồn thức ăn sẵn có cần đợc coi là một u tiên hàng đầu trong nghiên cứu dinh
dỡng gia súc nhai lại không những ở Việt Nam, (Hassall và cs., 1991; Lê Viết Ly,
1995; trích dẫn bởi Vũ Chí Cơng, 2002) mà ở cả các nớc đang phát triển nói chung
(Delgalo và cs., 1999; trích dẫn bởi Nguyễn Xuân Bả, 2006; Vũ Chí Cơng, 2002).
Theo số liệu của Tổng cục thống kê (2006) diện tích trồng sắn của cả nớc
khoảng 420 ngàn ha với sản lợng 6,6 triệu tấn củ tơi. Những năm gần đây sản
.


Nhận bài ngày 17/10/2007. Sửa chữa xong 23/11/2007.





Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4A-2007


33
lợng lúa của nớc ta ngày một nhiều hơn nên vai trò lơng thực của cây sắn giảm
dần. Vì vậy, sắn trở thành loại cây cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và
làm thức ăn cho vật nuôi.
Trong các nguồn thức ăn tinh bổ sung rất giàu tinh bột, bột sắn là sẵn có và rẻ
tiền, nhng hàm lợng protein thô tơng đối thấp. Tuy nhiên, do hàm lợng tinh bột
cao nên nó có các ảnh hởng âm tính nếu cho bò ăn với lợng lớn. Bởi vì nó sẽ làm
giảm tỷ lệ tiêu hóa các thành phần dinh dỡng có trong thức ăn thô, đặc biệt là tiêu
hóa xơ.
Cho đến nay, ở nớc ta vẫn cha có nhiều nghiên cứu về ảnh hởng của các mức
bột sắn bổ sung đến lợng thức ăn thu nhận, tỷ lệ tiêu hóa thức ăn và tăng trọng của
bò Laisind (Red Shindhi x bò vàng) nuôi lấy thịt ở nớc ta.
VậT LIệU Và PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU
Gia súc thí nghiệm
Thí nghiệm tiến hành trên 20 bò đực Laisind (cha thiến) 15 - 18 tháng tuổi,
khối lợng TB 156 kg; chia làm 5 lô, 4 con/lô. Bò đợc nuôi mỗi con một ô, có máng
thức ăn tinh và máng thức ăn thô riêng, 2 ô chung một máng uống nớc. Trớc khi
vào thí nghiệm bò đợc nuôi 2 tuần làm quen với khẩu phần thí nghiệm. Trớc khi
vào thí nghiệm bò đợc tẩy ký sinh trùng đờng ruột và sán là gan, tiêm phòng vắc
xin tụ huyết trùng. Cân để kiểm tra khối lợng 2 ngày liên tiếp trớc khi bắt đầu và
kết thúc thí nghiệm và 1 lần/tuần trong thời gian thí nghiệm tiêu hóa, cân vào
06h30 - 07h30, trớc khi cho ăn.
Thí nghiệm đợc thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Vật nuôi Thủy An -
khoa Chăn nuôi Thú y, trờng Đại học Nông Lâm Huế từ tháng 3 đến tháng 6/2006.
Thức ăn cho bò

Bò trong thí nghiệm đợc bố trí theo phơng pháp CRD trong 5 lô với ăn 5
khẩu phần ăn khác nhau nh sau:
- Lô I: Khẩu phần cơ sở (KPCS): cỏ voi 1,25% khối lợng sống của bò.
- Lô II: KPCS + bột sắn 0,33% khối lợng sống của bò + rơm ăn tự do.
- Lô III: KPCS + bột sắn 0,66% khối lợng sống của bò + rơm ăn tự do.
- Lô IV: KPCS + bột sắn 1,32% khối lợng sống của bò + rơm ăn tự do.
- Lô V: KPCS + bột sắn 1,98% khối lợng sống của bò + rơm ăn tự do.
Bột sắn dùng trong thí nghiệm đã đợc trộn 2% urê.
Bò đợc cho ăn bột sắn và cỏ voi từ 07h30 đến 18h00 với số lợng bữa khác
nhau; rơm lúa cho ăn tự do từ 18h 30 đến 07h sáng hôm sau.
Lợng bột sắn bổ sung đợc điều chỉnh hàng tuần theo sự tăng trởng của
từng con bò. Lợng bột sắn ở lô II và lô III đợc cho ăn 2 bữa vào lúc 07h15 và
13h00; ở lô IV và lô V cho ăn 3 bữa vào lúc lúc 07h15, 13h00 và 16h30. Lợng bột
sắn d thừa sẽ đợc thu và cân vào 06h00 hôm sau.
Cỏ voi đợc cắt ngắn (5-10cm) trớc khi cho bò ăn. Lợng cỏ cho bò ăn đợc
điều chỉnh theo tăng trởng của bò hàng tuần với mức 1,25% khối lợng sống. Cỏ



N. H. Minh, N. K. Đờng, N. H. Văn ảNH HƯởNG NUÔI Bò LAI SIND, tr. 32-38


34
đợc cho ăn 2 bữa: 07h30 và 13h15 hàng ngày. Rơm đợc băm ngắn (10cm) và cho bò
ăn tự do từ 18h30 hôm trớc đến 07h30 hôm sau.
Tất cả bò đợc cung cấp tảng liếm khoáng và nớc uống tự do suốt thời gian
thí nghiệm.
Các phân tích thành phần hóa học của thức ăn đợc thực hiện tại các phòng
thí nghiệm khoa Chăn nuôi Thú y, trờng Đại học Nông Lâm Huế, và phòng phân
tích thức ăn gia súc & sản phẩm chăn nuôi thuộc Viện Chăn nuôi Quốc gia, Hà Nội.

Các kết quả thu đợc trình bày trên bảng 1 sau đây.
Bảng 1. Thành phần hóa học của các loại thức ăn dùng cho thí nghiệm
Loại thức ăn
VCK
(%)
OM
(%)
NDF
(%)
CP
(%)

EE
(%)
Ash
(%)
GE
(Kcal/kgVCK)

Rơm lúa 88,0 88,5 77,1 5,1 1,6 11,5

4129
Cỏ voi 17,1 89,0 71,5 10,8

2,3 11,0

4199
Bột sắn 85,7 97,3 8,4 1,7 0,3 2,7 4071
Bột sắn (2% urê) 86,0 96,9 8,2 8,5 0,3 3,1 3977
Kết quả phân tích bảng 1 cho thấy không có sự biến động đáng kể về thành

phần dinh dỡng các loại thức ăn đợc dùng cho cả quá trình thí nghiệm. HCN trong
các mẫu bột sắn dùng trong thí nghiệm này ở mức 37mg/kg VCK.
Tập hợp và tính toán số liệu
Lợng thức ăn thu nhận đợc ghi chép hàng ngày và tính toán bằng lợng
cho ăn trừ đi lợng còn thừa của mỗi loại thức ăn.
Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng (TTTĂ/kg TT) đợc xác định theo công thức
tổng quát nh sau:
Lợng thức ăn thu nhận (kg/con/ngày)
TTTĂ/kg TT =
Tăng trọng (kg/con/ngày)
Tăng trọng của bò đợc tính bằng cách phân tích hồi qui tuyến tính dựa trên
kết quả của 28 lần cân cho mỗi bò kể từ khi bắt đầu cho đến kết thúc thí nghiệm.
Số liệu đợc phân tích thống kê sinh học trên phần mềm Microsoft Excel
2003 và Minitab version 13.0.
KếT QUả Và THảO LUậN
ảnh hởng của việc sử dụng bột sắn trong khẩu phần đến lợng thức
ăn thu nhận của bò
Qua theo dõi thí nghiệm đã thu đợc các kết quả ở bảng 2.
Kết quả bảng 2 cho thấy, lợng bột sắn thu nhận thực tế của bò tăng dần
theo mức bổ sung bột sắn (2% urê) trong khẩu phần theo thứ tự lô I, II, III, IV, V với



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4A-2007


35
lợng thu nhận thực tế là 0; 0,63; 1,22; 2,28 và 2,41 kg/con/ngày, tơng đơng với tỷ
lệ: 0, 0.33, 0.66, 1.32 và xấp xỉ 1.40% so với khối lợng sống của bò.
R. W. J. Steen và cs.(2003) cho biết, bò thịt có thể ăn lợng thức ăn tinh hỗn

hợp tơng đơng với 2,2% khối lợng cơ thể. Dự án đa dạng hóa nông nghiệp, Hợp
phần khuyến nông thức ăn chăn nuôi cũng khuyến cáo nông dân nớc ta nuôi bò thịt
vỗ béo với mức đầu t thức ăn tinh hỗn hợp lên đến 2,5% khối lợng cơ thể. Trong
thí nghiệm này, mặc dù bò ở lô V đợc cho ăn bột sắn ở mức 1,98% trong suốt thời
gian thí nghiệm nhng lợng ăn vào bình quân chỉ xấp xỉ 1,40% (dao động 1,3-1,5%)
khối lợng cơ thể. Câu hỏi đặt ra ở đây là yếu tố nào hạn chế mức ăn vào của bò đối
với bột sắn? Thực tế là bò trong thí nghiệm này không thể thu nhận lợng bột sắn
quá 1,5% khối lợng cơ thể của chúng.
Bảng 2. Lợng thức ăn thu nhận của bò thí nghiệm

Loại thức
ăn
Đơn vị tính
I II III
IV
V
SEM

P
kg DM/con/ngày

0,00
a
0,54
b
1,05
c
1,96
d
2,07

d
0,11 0,001

Bột sắn
trộn 2% urê

kg/100kgP/ngày

0,00
a
0,30
b
0,58
c
1,10
d
1,17
d
0,04 0,001

kg DM/con/ngày

1,85
a
1,81
a
1,73
ab
1,64
ab

1,48
b
0,07 0,003

Cỏ voi
kg/100kgP/ngày

1,05
a
1,04
a
0,98
ab
0,92
bc
0,82
c
0,02 0,001

kg DM/con/ngày

1,72
a
1,39
b
1,28
b
0,57
c
0,68

c
0,05 0,001

Rơm
kg/100kgP/ngày

0,98
a
0,80
b
0,74
b
0,34
c
0,38
c
0,03 0,001

kg DM/con/ngày

3,57

3,73

4,17

4,16

4,22


0,22 0,191

Tổng lợng
ăn vào
kg/100kgP/ngày

2,02
a

2,15
ab
2,38
b
2,36
b
2,38
b
0,07 0,005

(Ghi chú: Trong cùng một hàng ngang, các chữ cái khác nhau có sự sai khác với P < 0,05.)
Khi bổ sung lợng bột sắn tăng dần ở các lô đã làm giảm lợng thu nhận
khẩu phần cơ sở (rơm và cỏ voi). Lợng rơm ăn vào có sự biến động ở các lô; giảm từ
lô I đến lô IV và có xu hớng tăng lên không đáng kể ở lô V, tuy nhiên vẫn có sự sai
khác so với lô I, lô II và lô III (P < 0,05), có sự sai khác giữa lô I so với các lô còn lại
và giữa lô II, III với lô IV, V (P < 0,05).
Cũng tơng tự nh lợng rơm mà bò thu nhận, khi tăng lợng bột sắn trong
khẩu phần đã làm giảm khả năng thu nhận cỏ voi, giảm từ lô I đến lô V. Có sự sai
khác có ý nghĩa giữa lô I với các lô còn lại và giữa lô II, III với lô IV, V (P < 0,05).
Nh vậy, khi mức bột sắn bổ sung trong khẩu phần tăng dần từ lô I đến lô V
đã làm giảm khả năng thu nhận thức ăn thô (rơm và cỏ voi) của bò. Điều này có thể

do khi lợng bột sắn ăn vào tăng đã có tác dụng dần thay thế lợng thức ăn thô ăn



N. H. Minh, N. K. Đờng, N. H. Văn ảNH HƯởNG NUÔI Bò LAI SIND, tr. 32-38


36
vào, làm cho nó giảm và có thể bột sắn trộn urê chứa nhiều năng lợng trao đổi mà
bò thu nhận đợc đã thay thế dần lợng năng lợng mà chúng cần từ rơm và cỏ voi.
Tổng lợng thức ăn tiếp nhận có sự tăng dần từ lô I đến lô IV, lô V bắt đầu
dừng lại. Tổng lợng thức ăn thu nhận cho 100 kg P của bò có sai khác giữa lô I với
các lô III, IV, IV với P < 0,05. Các lô có bổ sung bột sắn đều có lợng thức ăn tiếp
nhận cao hơn so với lô không bổ sung bột sắn. Điều này chứng tỏ rằng, bổ sung bột
sắn vào khẩu phần đã có ảnh hởng tích cực đến khả năng thu nhận thức ăn của bò.
Thông thờng khi bổ sung một lợng nhỏ thức ăn tinh vào khẩu phần ăn của
bò có vai trò nh tác nhân xúc tác làm tăng khả năng thu nhận thức ăn thô xơ,
ngợc lại khi bổ sung với lợng lớn thì nó có thể, làm giảm thu nhận thức ăn thô xơ.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, ở mức 0,33% bột sắn bổ sung đã xẩy ra hiện tợng
thay thế thức ăn. Tổng lợng ăn vào của bò ở các lô có bổ sung bột sắn đều cao hơn
so với lô không bổ sung và có xu hớng tăng dần rõ rệt (P < 0,05) ở lô III so với lô I.
Nh vậy, mặc dù lợng bột sắn thu nhận của bò trong thí nghiệm này chỉ giới
hạn ở mức khoảng 1,4% so với trọng lợng cơ thể bò, tổng lợng thức ăn vào của bò ở
các lô có bổ sung bột sắn đều cao hơn so với lô không bổ sung.
ảnh hởng của việc bổ sung bột sắn vào khẩu phần ăn của bò đến
hiệu quả chăn nuôi
Các kết quả thu đợc trong nghiên cứu đợc trình bày trên Bảng 3.
Qua Bảng 3 cho thấy, bổ sung bột sắn vào khẩu phần ăn với các mức khác
nhau đã ảnh hởng đến khả năng tăng trọng của bò. Tăng trọng (g/con/ngày) của bò
cao nhất là ở lô IV đạt 552 và thấp nhất là ở lô I với chỉ đạt 237, tăng trọng của các lô

II, III và IV lần lợt là 351, 403 và 480. Nếu tính tăng trọng theo phần trăm thì lô I,
II, III và lô V có tăng trọng thấp hơn so với lô IV lần lợt là: 57,70%; 36,41%; 27,00 và
13,03%. Đã có sự sai khác về tăng trọng của bò ở lô không sử dụng bột sắn với các lô có
sử dụng bột sắn với P < 0,05. Giữa các lô II với lô III, lô III với lô V và lô IV với lô V là
không có sự sai khác (P > 0,05).
Bảng 3. Hiệu quả của việc sử dụng bột sắn trong khẩu phần ăn
đến hiệu quả chăn nuôi bò thịt
Chỉ tiêu Lô I Lô II Lô III

Lô IV Lô V
Tăng trọng (g/con/ngày) 237
a
351
b
403
bc
552
d
480
cd
Tăng trọng hơn đối chứng (g/ngày) 0 114 166 315 243
TTTA (kg VCK/kg TT) 16,04

12,05

11,26

7,59

8,93


Chi thêm (đồng/ngày) 0 1096 2175 3912 4011
Thu thêm (đồng/ngày) 0 2508 3652 6930 5346
Lãi (đồng/ngày) 0 1412 1477 3018 1335
(Ghi chú: Giá rơm: 300 đồng/kg; giá cỏ voi: 200 đồng/kg; giá bột sắn có bổ sung urê: 2000
đồng/kg; giá bò hơi: 22000 đồng/kg).
Nh vậy, khi bột sắn bổ sung vào khẩu phần ăn của bò tăng dần từ 0 đến
1,32% khối lợng cơ thể của bò đã làm tăng khả năng tăng trọng của bò. Có thể việc



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4A-2007


37
bổ sung bột sắn vào khẩu phần ăn của bò đã làm tăng tính ngon miệng nên bò thu
nhận thức ăn tốt hơn, kết quả là tăng trọng của bò tăng. Nhng khi sử dụng bột sắn
trong khẩu phần cao hơn 1,32% thì tăng trọng của bò có xu hớng giảm.
Tiêu tốn thức ăn cho một kg tăng trọng của bò ở các lô thí nghiệm giảm dần
từ lô I đến lô V, cao nhất ở lô I (16,04), tiếp đến là lô II (12,05), III (11,26), V (8,93)
và thấp nhất là lô IV (7,59). Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng của bò ở các lô thí
nghiệm có sai khác với P < 0,05. Việc bổ sung bột sắn vào khẩu phần của bò đã giảm
tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng của bò.
Kết quả ở bảng 3 cũng cho thấy khi bổ sung bột sắn vào khẩu phần ăn của bò với
các mức khác nhau đã gián tiếp ảnh hởng đến một số chỉ tiêu hiệu quả chăn nuôi bò
thịt. Khi lợng bột sắn bổ sung tăng từ 0,33 đến 1,32 % thì tăng trọng tăng thêm so với
lô không bổ sung tăng dần. Tuy nhiên, trên mức 1,32% (lô V) thì lại giảm.
Khi bò tăng trọng tăng thêm thì chi phí thêm so với lô không bổ sung bột sắn
cũng tăng. Nhng số tiền thu thêm cũng tăng, tăng cao hơn so với mức chi phí tăng
thêm. Do vậy lợi nhuận cũng đợc tăng lên.

Nh vậy, việc bổ sung bột sắn trong khẩu phần ăn của bò đã mang lại hiệu
quả kinh tế trong chăn nuôi bò thịt. Có đợc kết quả này là do bò thu nhận nhiều
thức ăn hơn, tăng trọng của bò cao hơn và lợi nhuận thu đợc cũng tăng. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, khi bổ sung bột sắn 1,32% khối lợng sống của bò đem lại hiệu
quả cao nhất.
KếT LUậN Và Đề NGHị
Kết luận
- Lợng bột sắn (chứa 2% urê) thu nhận của bò trong thí nghiệm này tối đa
khoảng 1,4% (1,3-1,5%) khối lợng sống, mức bổ sung 1,32% có hiệu quả cao nhất.
- Khi bột sắn (chứa 2% urê) bổ sung đến mức 0,33% khối lợng sống của bò
thì lợng thức ăn thô xơ (cỏ voi và rơm lúa) thu nhận bắt đầu giảm và mức giảm
tăng khi lợng bột sắn bổ sung tăng lên, nhng tổng lợng thức ăn bò thu nhận vẫn
tăng.
- Bổ sung bột sắn (chứa 2% urê) từ 0,33-1,96 khối lợng sống của bò vào khẩu
phần cơ sở là cỏ voi và rơm lúa, tăng trọng của bò ở các đợc ăn bột sắn cao hơn
không đợc ăn bột sắn từ 114-315 g/con/ngày.
- Bổ sung bột sắn (chứa 2% urê)vào trong khẩu phần cơ sở là cỏ voi và rơm
lúa đã đem lại hiệu quả chăn nuôi bò thịt cao hơn so với không bổ sung.
Đề nghị
- Trong sản xuất, khi chỉ có bột sắn làm nguồn thức ăn tinh bổ sung thì mức
tối u nên trong khoảng 0,7-1,3% so với khối lợng sống của bò.
- Cần nghiên cứu sâu hơn về ảnh hởng của các mức bổ sung bột sắn đến sự
thay đổi môi trờng dạ cỏ, các chỉ tiêu sinh hóa máu và chất lợng thịt bò để có các
khuyến cáo đầy đủ hơn.



N. H. Minh, N. K. Đờng, N. H. Văn ảNH HƯởNG NUÔI Bò LAI SIND, tr. 32-38



38
TàI LIệU THAM KHảO
[1] Nguyễn Xuân Bả, Đánh giá khả năng sử dụng cây dâu tằm (Morusalba), cây
dâm bụt (Hisbicus Rosa Sinensis L.) làm thức ăn cho gia súc nhai lại ở Miền
Trung Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Huế, 2006.
[2] Vũ Chí Cơng, Nghiên cứu sử dụng có hiệu quả thức ăn protein trong nuôi dỡng
bò thịt, NXB Nông nghiệp Hà Nội, 2002.
[3] Hassall H., A. Conway and Le Ba Lich, Polices and Strategies for the
Deverlopment of Cattle and Buffalo Production in Vietnam, (Report prepared for
the Government of the Socialiat Republic of Vietnam), UNDP, FAO, Roma, 1991.
[4] Koakhunthod S., Wanapat M., Wachirapakorn N., Nontaso N., Rowlinson P. and
Sorsungnern, Effect of cassava hay and high-quality feed block supplementation
on milk production in lactating dairy cows, In International Workshop on
Current Reseach and Deverlopment on Use of Cassava as Animal feed, Konkaen
University, Khon kaen, Thailand, 2001, 21-25.
[5] Lê Viết Ly, Nuôi bò thịt và những kết quả nghiên cứu bớc đầu ở Việt Nam, NXB
nông nghiệp, 1995, 38-44.
[6] R. W. J. Steen, N. P. Lavery, D. J. Kilpatrick and M. G. Porter, Effect of pasture
and hight concentrate diets on the perfonmance of beef cattles carcass composition
equal growth rate and the fatty acid coposition of beef, New Zealand Joural of
Agricultural Research, 46, 2003, 69-81.

SUMMARY
The effect of tapioca supplying in growing
cattle diet on feed intake and live weight gain of laisind

The sudy aimed at indentifying the effect of tapioca supplying in growing
cattle diet on feed intake and live weight gain. The study was carried out on 20
Laisind uncastrated male (15-18 months of age, 150-180 kg of live weight), which
raised individually in five experiment groups (I, II, III, IV & V). The diet of group I

is conventional (CT): green elephant grass (1.25% in DM of live weight), group II is
CT + 0.33% tapioca (with 2% urea), group III is CT + 0.66%, group IV is CT + 1.32%
tapioca and group V is CT + 1.98% tapioca. The experiment prolonged 3 months.
Results showed that: (i) maximum of tapioca intake by cattle was about 1.4% BW
(1.3-1.5%) and the supplementation at 1.32% BW showed the best results. (ii)
Tapioca supplying up to 0.33% of BW, intake of roughage (rice straw & elephant
grass) began to decrease and rate of decreasing and rate of decreasing increased
with the increasing of tapioca level in diet, but total of feed intake was still
increased. (iii) Supplying tapioca in conventional diet of growing cattle has got
higher economic efficiency in comparison with conventional diet.

(a)
Khoa Nông Lâm Ng, Trờng Đại học Vinh
(b)
Khoa Chăn nuôi thú y, Trờng ĐH Nông Lâm Huế.

×