Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN CỦA TP HẢI PHÒNG ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.49 KB, 12 trang )

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỰ
NHIÊN CỦA TP HẢI PHÒNG


Diện tích : 1.526,3 km2 (năm 2003)
Dân số : 1.792,7 nghìn người (năm 2005)
Mã điện thoại : 031
Biển số xe: 16

Vị trí địa lý: Hải Phòng là thành phố ven biển, nằm phía đông miền
Duyên hải Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội 102km, có tọa độ địa lý từ
20030’39’’ đến 21001’15’’ vĩ độ Bắc và từ 106023’39’’ đến
107008’39’’ kinh độ Đông. Ngoài ra còn có huyện đảo Bạch Long Vỹ
nằm giữa vịnh Bắc Bộ, có tọa độ từ 20007’35’’ đến 20008’36’’ vĩ độ
Bắc và từ 107042’20’’ đến 107044’15’’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp
tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp tỉnh Hải Dương, phía Nam giáp tỉnh
Thái Bình, phía Đông giáp biển Đông. Hải Phòng nằm ở vị trí giao lưu
thuận lợi với các tỉnh trong nước và quốc tế thông qua hệ thống giao
thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và đường hàng
không.

Diện tích tự nhiên là 1.526,3 km2 (năm 2003), chiếm 0,45% diện
tích tự nhiên cả nước.

Dân số năm 2005 là 1.792,7 nghìn người, mật độ 1.175 người/km2.

Đơn vị hành chính: Hải Phòng ngày nay bao gồm 15 đơn vị hành
chính trực thuộc gồm 7 quận (Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Kiến
An, Hải An, Đồ Sơn, Dương Kinh), 8 huyện (An Dương, An Lão, Bạch
Long Vĩ, Cát Hải, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng, Thuỷ Nguyên, Vĩnh Bảo). Dân
số thành phố là trên 1.837.000 người, trong đó số dân thành thị là


trên 847.000 người và số dân ở nông thôn là trên 990.000 người.
(theo số liệu điều tra dân số năm 2009).

Địa hình Hải Phòng rất đa dạng, phản ánh một quá trình lịch sử địa
chất lâu dài và phức tạp. Phần Bắc Hải Phòng có dáng dấp của 1 vùng
trung du với những đồng bằng xen đồi trong khi phần phía Nam lại
có địa hình thấp và khá bằng phẳng của 1 vùng đồng bằng thuần túy
nghiêng ra biển.

Khí hậu: Hải Phòng nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa châu Á,
sát biển Đông nên chịu ảnh hưởng của gió mùa. Mùa gió bấc (mùa
đông) lạnh và khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Mùa gió
nồm (mùa hè) mát mẻ, nhiều mưa, kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10.
Nhiệt độ trung bình hàng tháng 20 – 30 độ C, cao nhất có khi tới 40
độ C, thấp nhất có khi dưới 5 độ C. Độ ẩm trung bình năm 80 – 85%.
Tổng số giờ nắng khoảng 1.692,4 giờ.

Thủy văn: Hải Phòng có mạng lưới sông ngòi dày đặc, mật độ trung
bình 0,6 – 0,8 km/km2. Sông ngòi Hải Phòng đều là các chi lưu của
sông Thái Bình đổ ra vịnh Bắc Bộ. Hải Phòng có 16 sông chính tỏa
rộng khắp địa bàn thành phố với tổng độ dài trên 300 km, bao gồm
sông Thái Bình, sông Lạch Tray, sông Cấm, sông Đá Bạc – Bạch Đằng,
và các sông nhánh lớn nhỏ chia cắt khắp địa hình thành phố như
sông Giá, sông Đa Độ, sông Tam Bạc…



Tài nguyên thiên nhiên:

Tài nguyên khoáng sản: Do đặc điểm lịch sử địa chất Hải Phòng ít có

dấu vết của hoạt động macma nên ít có các mỏ khoáng sản lớn. Tuy
nhiên theo kết quả thăm dò khảo sát thì Hải Phòng các loại khoáng
sản: kim loại (sắt, sa khoáng ven biển), phi kim loại (cao lanh, sét, đá
vôi, quaczi, tectit…).

Tài nguyên biển là 1 trong những nguồn tài nguyên quý hiếm của Hải
Phòng với gần 1.000 loài tôm, cá và hàng chục loài rong biển có giá
trị kinh tế cao. Nguồn nước biển với độ mặn cao và ổn định dùng để
sản xuất muối phục vụ công nghiệp hóa chất địa phương cũng như
đời sống nhân dân.

Tài nguyên đất của Hải Phòng có trên 57.000 đất canh tác, hình
thành từ phù sa của hệ thống sông Thái Bình và nằm ven biển nên
phần lớn mang tính chất đất phèn và phèn mặn, địa hình cao thấp
xen nhau và nhiều đồng trũng.

Tài nguyên rừng của Hải Phòng phong phú và đa dạng, có rừng ngập
mặn, rừng cây lấy gỗ, cây ăn quả, tre, mây… Đặc biệt có khu rừng
nguyên sinh Cát Bà với thảm thực vật đa dạng và phong phú, trong
đó có nhiều loại thảo mộc quý hiếm. Diện tích rừng khoảng 17.300
ha, trong đó có khoảng 580 ha rừng nguyên sinh như rừng nhiệt đới
Amazon thu nhỏ với nhiều loại động thực vật quý hiếm cần được
bảo vệ.

Quần đảo Cát Bà

Quần đảo Cát Bà là quần thể gồm 367 đảo trong đó có đảo Cát Bà ở
phía Nam vịnh Hạ Long), ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh
Quảng Ninh, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30 km,
cách thành phố Hạ Long khoảng 25 km. Về mặt hành chính, quần đảo

thuộc huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng.

Vị trí, địa lý

Quần đảo có tọa độ 106°52′- 107°07′Đông, 20°42′- 20°54′độ vĩ Bắc.
Diện tích khoảng gần 300 km². Dân số 8.400 người (năm 1996). Các
đảo nhỏ khác: hòn Cát Ông, hòn Cát Đuối, hòn Mây, hòn Quai Xanh,
hòn Tai Kéo,

Cát Bà, còn gọi là đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất trên tổng số 1.969
đảo trên vịnh Hạ Long.Theo truyền thuyết địa phương thì tên Cát Bà
còn được đọc tên Các Bà. Vì có một thời các bà, các chị ở đây đứng ra
lo việc hậu cần cho các ông đánh giặc trên một hòn đảo lân cận. Đảo
có tên là đảo các Ông. Như vậy, Cát Bà là đọc chệch của các Bà.
Cát Bà là một hòn đảo đẹp và thơ mộng, nằm ở độ cao trung bình 70
m so với mực nước biển (dao động trong khoảng 0-331 m). Trên đảo
này có thị trấn Cát Bà ở phía đông nam (trông ra vịnh Lan Hạ) và 6
xã: Gia Luận, Hiền Hào, Phù Long, Trân Châu, Việt Hải, Xuân Đám. Cư
dân chủ yếu là người Kinh.
Có thể đến Cát Bà bằng hai loại phương tiện giao thông:
 Đi tàu thủy từ Vịnh Hạ Long hoặc từ cầu Bính Hải Phòng;
 Cách khác là đi đường bộ từ Hải Phòng, qua phà cắt ngang cửa
sông Bạch Đằng với 2 chuyến phà, bao gồm phà biển Đình Vũ
nối Hải Phòng với đảo Cát Hải, và phà Bến Gót nối đảo Cát Hải
với đảo Cát Bà.
Lịch sử


Hoàng hôn trên thị trấn Cát Bà


Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà, là hậu phương cho Các
Ông theo Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có
đền Các Bà. Các bản đồ hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm
1938) còn ghi là Các Bà. Như vậy có lẽ tên gọi Các Bà đã bị đọc trệch
thành Cát Bà.
Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Bà, năm 1977 mới sáp nhập
với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Trước đây đảo thuộc
tỉnh Quảng Yên, sau thuộc khu Hồng Quảng, đến năm 1956 mới
chuyển về thành phố Hải Phòng.
Thị trấn Cát Bà hiện nay là huyện lị huyện Cát Hải. Trước năm 1945,
thị trấn Cát Bà là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà thuộc huyện Cát Hải,
tỉnh Quảng Yên. Sau năm 1945, trở thành thị xã Cát Bà. Đến năm
1957 thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn và huyện Cát Bà mới thành lập.

Khí hậu


Một số đảo trong quần đảo Cát Bà thuộc Vịnh Lan Hạ

Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của đại dương
nên các chỉ số trung bình về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa cũng tương
đương như các khu vực xung quanh, tuy nhiên có đặc điểm là mùa
đông thì ít lạnh hơn và mùa hè thì ít nóng hơn so với đất liền. Cụ thể
là:
 Lượng mưa: 1.700-1.800 mm/năm, dao động theo mùa. Mùa
mưa chủ yếu là tháng 7, 8.
 Nhiệt độ trung bình: 25-28°C, dao động theo mùa. Về mùa hè có
thể lên trên 30°C, về mùa đông trung bình 15-20°C nhưng có
thời điểm có thể xuống dưới 10°C (khi có gió mùa đông bắc).
 Độ ẩm trung bình: 85%.

 Dao động của thủy triều: 3,3-3,9 mét.
 Độ mặn nước biển: Từ 0,930% (mùa mưa) đến 3,111% (mùa
khô)
Lễ hội

Lễ hội của người dân Cát Bà giống như lễ hội của những người Kinh
ở khu vực khác, tuy nhiên có thêm ngày 1 tháng 4 dương lịch là lễ
hội khai trương mùa du lịch.

Du lịch

Trên đảo chính Cát Bà có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi là một
nơi đang được đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái. Phía Đông Nam
của đảo có vịnh Lan Hạ, phía Tây Nam có vịnh Cát Gia có một số bãi
cát nhỏ nhưng sạch, sóng không lớn thuận tiện cho phát triển du lịch
tắm biển, nghỉ dưỡng. Trên biển xuất hiện nhiều núi đá vôi đẹp
tương tự vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Ở một số đảo nhỏ, cũng có
nhiều bãi tắm đẹp.



Con đường độc đạo chạy ven biển và xuyên qua đảo Cát Bà
 Đường xuyên đảo Cát Bà: dài 27 km, có nhiều đèo dốc quanh
co, xuống khoăn, qua áng, men theo mép biển, xuyên qua vườn
quốc gia, phong cảnh kỳ thú, non nước hữu tình.
 Vườn quốc gia Cát Bà: có diện tích 15.200 ha, trong đó có 9.000
ha rừng, 5.400 ha biển tạo nên một môi trường sinh thái lý
tưởng.
 Động Trung Trang: Nằm cách thị trấn 15 km cạnh đường xuyên
đảo, có nhiều nhũ đá thiên nhiên. Động này có thể chứa hàng

trăm người.
 Động Hùng Sơn: Cách thị trấn 13 km, trên đường xuyên đảo.
Động còn có tên Động Quân Y vì trong Chiến tranh Việt Nam
người ta đã xây cả một bệnh viện hàng trăm giường nằm ở
trong lòng núi.
 Động Phù Long (Cái Viềng) mới tìm ra, được cho là đẹp hơn
động Trung Trang.

Bãi tắm Cát Cò 3
 Các bãi tắm: Cát Cò 1, Cát Cò 2, Cát Dứa, Cát Ông, Cát Trai Gái,
Đường Danh v.v là những bãi tắm nhỏ, đẹp, kín đáo, có nhiều
mưa, che nắng, cát trắng mịn, nước biển có độ mặn cao, trong
suốt tới đáy. Người ta dự định xây dựng ở đây những "thuỷ
cung" để con người có thể trực tiếp quan sát các đàn cá heo,
tôm hùm, rùa biển, mực ống, cá mập bơi lượn quanh những
cụm san hô đỏ.

Một bãi tắm đẹp trên Đảo Khỉ thuộc quần đảo Cát Bà

Cát Bà với vẻ đẹp nguyên sơ và hùng vĩ, nó được mệnh danh là Hòn
Ngọc của Vịnh Bắc Bộ

Khu dự trữ sinh quyển

Quần đảo Cát Bà có rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập
mặn, các rặng san hô, thảm rong - cỏ biển, hệ thống hang động, tùng
áng, là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, bảo
đảm các yêu cầu của khu dự trữ sinh quyển thế giới theo quy định
của UNESCO.
Cát Bà đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới

ngày 02 tháng 12 năm 2004. Ngày 1 tháng 4 năm 2005 tại đây đã
diễn ra lễ đón nhận bằng quyết định của UNESCO và kỷ niệm sự kiện
này. Việt Nam hiện có 06 khu dự trữ sinh quyển thế giới được
UNESCO công nhận là: Cần Giờ, Cát Tiên, châu thổ sông Hồng, miền
Tây Nghệ An, Kiên Giang và quần đảo Cát Bà.

Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển Cát Bà rộng hơn 26.000 ha, với
2 vùng lõi (bảo tồn nghiêm ngặt và không có tác động của con
người), 2 vùng đệm (cho phép phát triển kinh tế hạn chế song kết
hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển tiếp (phát triển kinh tế). Khu dự
trữ sinh quyển Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới
trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm rong và đặc
biệt là hệ thống hang động.

Sách đỏ Việt Nam

Gần 60 loài đã được coi là các loài đặc hữu và quý hiếm đã được đưa
vào Sách đỏ Việt Nam như các loài động vật: ác là, quạ khoang, voọc
đầu vàng, voọc quần đùi trắng và các loài thực vật như chò đãi, kim
giao (Podocarpus fleurii), lá khôi (Ardisia spp.), lát hoa (Chukrasia
tubularis),dẻ hương, thổ phục linh, trúc đũa, sến mật. Ngoài ra còn 8
loài rong, 7 loài động vật đáy cũng cần được bảo vệ.

×