KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỰ
NHIÊN CỦA TỈNH LẠNG SƠN
I. Điều kiện địa lý tự nhiên
1. Vị trí địa lý
Lạng Sơn là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc, nằm ở vị trí đường
quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 279 đi qua, là điểm nút của sự giao lưu kinh
tế với các tỉnh phía Tây như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, phía
Đông như tỉnh Quảng Ninh, phía Nam như Bắc Giang, Bắc Ninh, thủ
đô Hà Nội và phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc, với 2 cửa khẩu quốc
tế, 2 cửa khẩu quốc gia và 7 cặp chợ biên giới. Mặt khác, có đường
sắt liên vận quốc tế, là điều kiện rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh
tế, khoa học – công nghệ với các tỉnh phía Nam trong cả nước, với
Trung Quốc và qua đó sang các nước vùng Trung Á, châu Âu và các
nước khác…
2. Đặc điểm địa hình
Địa hình ở Lạng Sơn chủ yếu là đồi, núi thấp, độ cao trung bình là
252 m so với mực nước biển, nơi thấp nhất là 20 m, cao nhất là đỉnh
Phia Mè thuộc khối núi Mẫu Sơn 1.541 m. Địa hình được chia thành
3 tiểu vùng, vùng núi phía Bắc (gồm các núi đất xen núi đã chia cắt
phức tạp, tạo nên nhiều mái núi có độ dốc trên 350), vùng núi đá vôi
(thuộc cánh cung Bắc Sơn – Văn Quan – Chi Lăng - Hữu Lũng có
nhiều hang động sườn dốc đứng và nhiều đỉnh cao trên 550 m),
vùng đồi, núi thấp phía Nam và Đông Nam bao gồm hệ thống đồi núi
thấp xen kẽ các dạng đồi bát úp, độ dốc trung bình 10 – 250…
3. Khí hậu
Nền nhiệt không quá cao là nét đặc trưng của khí hậu Lạng Sơn. Mùa
đông tương đối dài và khá lạnh, lượng mưa trung bình năm là 1.400
– 1.500 mm, với số ngày mưa là 135 ngày trong năm. Nền địa hình
cao trung bình là 251 m, do vậy tuy nằm ở khu vực nhiệt đới gió
mùa, nhưng khí hậu ở Lạng Sơn có nét đặc thù của khí hậu á nhiệt
đới. Độ ẩm cao (trên 82%) và phân bố tương đối đều trong năm. Sự
phân bố khí hậu này đã cho phép Lạng Sơn có thể phát triển đa dạng
phong phú các loại cây trồng ôn đới, á nhiệt đới, và nhiệt đới. Đặc
biệt là các loại cây trồng dài ngày như hồi, trám, quýt, hồng, đào, lê,
thông, cà phê, chè, và các cây lấy gỗ…
II. Tài nguyên thiên nhiên
1. Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 830.521 ha, có 3 loại đất
chính, đất feralit của các miền đồi và núi thấp (dưới 700), chiếm trên
90% diện tích tự nhiên, đất feralit mùn trên núi cao (700 – 1.500 m),
đất phù sa (9.530 ha), đất than bùn, đất nông nghiệp, cây đặc sản,
cây dược liệu, cây lâm nghiệp.
Diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng là 68.958 ha, chiếm 8,3%
diện tích đất tự nhiên trong đó đất trồng lúa nước là 38.876 ha.
2. Tài nguyên rừng
Diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 277.394 ha, chiếm 33,4% diện
tích đất tự nhiên, trong đó, rừng tự nhiên 185.456 ha, rừng trồng
91.937 ha. Diện tích đất chưa sử dụng, sông, suối, núi, đá là 467.366
ha, chiếm 43,02% diện tích đất tự nhiên. Như vậy, tiềm năng về đất
còn rất lớn cho việc thúc đẩy phát triển sản xuất nông – lâm nghiệp,
đặc biệt là phát triển nông nghiệp trong những năm tới.
3. Tài nguyên khoáng sản
Theo số liệu điều tra địa chất cho thấy, tài nguyên khoáng sản trên
địa bàn Lạng Sơn không nhiều, trữ lượng các mỏ nhỏ, nhưng lại khá
phong phú, đa dạng về chủng loại như than nâu ở Na Dương (Lộc
Bình); than bùn ở Bình Gia; phốtphorit ở Hữu Lũng; bôxít ở Văn
Lãng, Cao Lộc; vàng ở Tân Văn, Văn Mịch (Bình Gia); vàng sa khoáng
ở vùng Bản Trại, Đào Viên (Tràng Định); đá vôi, cát, cuội, sỏi có ở
hầu hết các nơi trong tỉnh với trữ lượng lớn và đang được khai thác
để sản xuất vật liệu xây dựng, thạch anh ở vùng Mẫu Sơn (Lộc Bình);
quặng sắt ở Chi Lăng và một số loại khác như măng gan, đồng, chì,
kẽm, thuỷ ngân, thiếc,… chưa được điều tra, đánh giá trữ lượng.
III. Tiềm năng kinh tế
1. Những lĩnh vực kinh tế lợi thế
Ngoài những điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, văn hoá
nhân văn phong phú… Lạng Sơn còn là tỉnh miền núi có hệ thống
giao thông thuận lợi, có đường biên giới chung với Trung Quốc dài
253 km; có 2 cửa khẩu quốc tế (cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị và cửa
khẩu đường sắt Đồng Đăng), 2 cửa khẩu quốc gia (Chi Ma, Bình
Nghi) và 7 cặp chợ biên giới tạo điều kiện cho Lạng Sơn trở thành
điểm giao lưu, trung tâm buôn bán thương mại quan trọng của tỉnh
trong cả nước với Trung Quốc, sau đó sang các nước Trung Á, châu
Âu.
Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi Nhà nước đang thực hiện chính
sách đầu tư phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, thì Lạng Sơn càng có
điều kiện để phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt kinh tế thương
mại - du lịch - dịch vụ. Khu kinh tế cửa khẩu là một trong những
vùng kinh tế trọng điểm, là khu vực phát triển năng động nhất, đóng
vai trò động lực thúc đẩy phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội, là
trọng tâm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả tỉnh.
Lạng Sơn có lợi thế về phát triển kinh tế thương mại, với điều kiện
về khu kinh tế cửa khẩu, hệ thống giao thông thuận lợi, nên việc
buôn bán trong những năm qua ở đây rất sôi động, hàng hoá trong
tỉnh, các tỉnh bạn trong cả nước qua Lạng Sơn xuất khẩu sang Trung
với số lượng, chủng loại lớn, năm sau cao hơn năm trước. Hàng năm
có hàng trăm doanh nghiệp trong cả nước tham gia xuất khẩu qua
biên giới, thu hút nhiều doanh nghiệp trong nước, nước ngoài, các
thành phần kinh tế tham gia kinh doanh thương mại - dịch vụ - du
lịch ở cửa khẩu và trên địa bàn tỉnh.
Thương mại Lạng Sơn phát triển nhanh chóng đã góp phần thúc đẩy
sản xuất phát triển, nâng cao mức sống của nhân dân, tăng thu nhập
cho ngân sách địa phương và trung ương. Hàng năm thu thuế hoạt
động thương mại chiếm trên 80% tổng thu ngân sách toàn tỉnh.
Cùng với buôn bán phát triển, ngành dịch vụ, du lịch, khách sạn, nhà
hàng trong những năm qua cũng đã phát triển nhanh chóng, đáp ứng
nhu cầu buôn bán, du lịch của khách trong nước và quốc tế.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 15 khách sạn của Nhà nước và hàng
trăm khách sạn, nhà trọ, nhà khách của các cơ quan, tập thể, tư nhân.
Các khách sạn, nhà khách được nâng cấp trang thiết bị có máy lạnh,
ti vi, điện thoại phục vụ ngày một tốt hơn nhu cầu xã hội.
Hệ thống ngân hàng tập trung ở địa bàn thành phố, các khu kinh tế
cửa khẩu hoạt động năng động và hiệu quả, thủ tục tương đối đơn
giản, chặt chẽ, thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, hoạt động trao
đổi buôn bán hàng hoá và ngoại tệ.
2. Tiềm năng du lịch
Lạng Sơn là một tỉnh có lợi thế lớn về phát triển ngành du lịch, bởi
sự kết hợp phong phú, hài hoà giữa vị trí địa lý, thiên nhiên, lịch sử
và con người. Lạng Sơn là vùng biên giới, cửa khẩu ở phía Bắc nước
ta, lại nằm trên đường giao thông hết sức thuận lợi nối với thủ đô Hà
Nội, thường xuyên thu hút khách du lịch tham quan, giao lưu, trao
đổi, hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Ngoài ra, thiên nhiên đã ban tặng cho Lạng Sơn nhiều hang động, núi
rừng tự nhiên và phong cảnh đẹp với khí hậu mùa hè mát mẻ, dễ
chịu, được coi là một điểm nghỉ mát, an dưỡng lý tưởng đối với các
du khách từ xa đến như động Tam Thanh, động Nhị Thanh, núi nàng
Tô Thị, khu du lịch Mẫu Sơn… Lạng Sơn còn là nơi nổi tiếng với
nhiều địa danh lịch sử như ải Mục Nam Quan, ải Chi Lăng, Thành nhà
Mạc đã bao lần chứng kiến các trận đánh đuổi quân xâm lược trong
suốt tiến trình dựng nước và giữ nước, hay với nền văn hoá Bắc Sơn,
căn cứ Cách mạng Bắc Sơn. Con người cần cù mến khách cùng với
các lễ hội, truyền thống văn hoá làm cho Lạng Sơn luôn là điểm du
lịch hấp dẫn đối với khách thập phương
* Tài nguyên khoáng sản:
Khoáng sản kim loại đen:
- Sắt: Bao gồm 1 mỏ và 7 điểm quặng. Trước đây người Pháp và
người Nhật phát hiện và đã từng khai thác từ những năm 1937,
1938.
- Mỏ Sắt Gia Chanh nằm ở xã Mai Sao, huyện Chi Lăng, các điểm
quặng ở Nà mò, Khau khiêng, làng Diệu, Lân Nài, Lân Rì, Kẽm Càng.
Kim loại mầu:
Nhóm kim loại mầu gồm có Nhôm, Đồng, Chì, Kẽm và đa kim. Trong
số đó Nhôm có trữ lượng lớn nhất sau đó là Đồng, Chì, Kẽm và đa
kim.
- Nhôm: Có 37 mỏ và điểm quặng, phân bố chủ yếu ở khối núi Bắc
sơn, ngoài ra ở dọc đường Quốc lộ 1A từ Lạng sơn đi Đồng Đăng.
Quặng nhôm ở Lạng sơn gồm 2 loại : Bô xít và alit
- Các mỏ và điểm quặng Bôxít: Đã phát hiện đợc 8 mỏ và điểm quặng
bôxít tập trung ở khu vực gần Thành phố Lạng sơn: Ma Mèo, Tam
Lung, Bản loóng, Khỏn Pích khu vực Thanh Mọi, Nà Doòng và Nà
Chuông Trong đó mỏ Ma Mèo có trữ lượng khoảng 20 triệu tấn.
- Các mỏ và điểm quặng alít: Đã phát hiện được 12 mỏ và điểm ở khu
vực Cầu Bóng huyện Bắc Sơn. đặc biệt mỏ alit ở Ba Xã ở huyện Văn
Quan, nằm trong khối đá vôi Bắc Sơn với 7 dải quặng với trữ lượng
quặng nhôm khoảng 7 triệu tấn ( trong đó chủ yếu là quặng gốc ).
- Đồng: tồn tại dưới dạng các vành phân tán.
- Chì, Kẽm: Có hai mỏ ( Háp Cây và Mỏ Ba ), 2 điểm quặng ( Làng Nấc
và mỏ Trạng ) và 13 vành phân tán nguyên tố và 9 vành phân tán
khoáng vật của chì, kẽm. Trữ lượng chì, kẽm cả tỉnh khoảng 100.000
tấn.
- Đa kim: Có mỏ Tình Sùng xã Gia Cát huyện Cao Lộc, trữ lượng khai
thác khoảng 500 tấn.
Kim loại quí:
Vàng được phát hiện thấy ở trên 35 mỏ, điểm khoáng hoá và vành
phân tán từ Hữu Lũng qua Bắc Sơn, Bình Gia, Văn Mịch, Thất Khê.
Trong khu vực này còn phát hiện hằng trăm mẫu đãi vàng sa khoáng
nằm rải rác trong các thung lũng, sông, suối.
Kim loại hiếm:
- Thiếc: 2 vành phân tán, đó là vành phân tán Gia Hoà ở tây nam thị
trấn mỏ Nhài huyện Bắc sơn và vành phân tán Kao Tiang ở trung
tâm đới khoáng hoá vàng nội sinh Bình Gia - Văn Mịch - Thất khê.
- Môlípđen: Chỉ gặp dưới dạng nguyên tố trong vành phân tán kim
lượng.
- Vanađi: Có nhiều ở vùng Thất Khê.
- Thuỷ ngân: gặp dưới dạng khoáng vật xinoba.
Khoáng sản phi kim loại:
Khoáng sản nhiên liệu:
- Than nâu ( Than lửa dài ): Có tại mỏ Na Dương huyện Lộc bình và
điểm quặng Thất khê. Mỏ Than Na Dương trữ lượng khoảng 96,6
triệu tấn.
- Than bùn: Có ở Nà Mò ( huyện Lộc bình ) và thị trấn Bình Gia. Điểm
than bùn thị trấn Bình Gia trữ lượng có thể tới vài trăm nghìn tấn.
Khoáng sản dùng làm nguyên liệu áp quang và áp điện ( Thạch anh
kỹ thuật).
Khoáng sản dùng làm nguyên liệu hoá học:
Trữ lượng Phốtphorít ở Lạng sơn khoảng 666.000tấn ( đã khai thác
555.513 tấn ) còn lại khoảng hơn 100.000 tấn .
Barit được phát hiện gần đây ở Đình Lập, trữ lượng chưa xác định.
Khoáng sản dùng làm vật liệu xây dựng:
- Đá cacbônat rất phổ biến ở Lạng Sơn, chiếm 1/4 diện tích của Tỉnh,
chủ yếu ở phía tây và tây nam. Đá sét trữ lượng khoảng 32.296.500
tấn .
- Cát, cuội, sỏi: Tập trung ở các dải dọc sông Kỳ Cùng và Sông Hoá.
- Sét và vôi sét: có mặt trong hệ tầng Mẫu sơn.
- Đá phun trào và đá mafic tuổi triat: Có thể làm đá ốp lát chất lượng
cao. Với khối lượng khá lớn và gần Quốc lộ 1B từ Lạng Sơn đi Thái
Nguyên.
* Thành phố Lạng Sơn:
Thành phố Lạng Sơn - vùng đất đã trải qua thời kỳ Châu lỵ, Trấn lỵ
và đến năm 1925 được thành lập, trở thành thị xã tỉnh lỵ, là trung
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của Tỉnh. Đây là nơi có nhiều
hang động, di tích lịch sử nổi tiếng như quần thể hang động Nhất,
Nhị, Tam Thanh, Nàng Tô Thị, Thành Nhà Mạc, Chùa Tiên, Giếng
Tiên cùng các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc đã
từng hấp dẫn khách bốn phương từ ngàn xưa. Sự hội tụ của các điều
kiện địa lý, thiên nhiên, hoàn cảnh lịch sử và con người đã tạo cho
Thành phố Lạng Sơn thế mạnh phát triển đô thị, trở thành trung tâm
Chính trị - Kinh tế - Văn hoá của tỉnh Lạng Sơn và vùng Đông Bắc Tổ
quốc.
Thành phố Lạng Sơn thuộc loại hình đô thị thương mại ra đời từ khá
sớm, được hình thành theo phương thức "Thị" có trước " đô " có sau.
Đây là nơi có những địa danh nổi tiếng đã đi vào ca dao, dân ca Việt
Nam với những lời ca mượt mà, tha thiết:
" Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mảng vui quên hết lời em dặn dò "
Ngày nay Thành phố Lạng Sơn là một Thành phố trẻ, Thành phố
thương mại cửa khẩu đang trên đà phát triển sôi động, là cửa ngõ
giao lưu Kinh tế - Văn hoá của cả nước với đất nước Trung Quốc và
các nước Đông Âu, là địa bàn quan trọng có mối quan hệ mật thiết
với vùng tam giác kinh tế trọng điểm của miền bắc Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh.
Thành phố Lạng Sơn nằm ở vị trí từ 21, 45 đến 22 độ vĩ Bắc, 106, 39
đến 107, 03 độ kinh Đông. Có diện tích tự nhiên 79,18km2. Cách Thủ
đô Hà Nội 154km, cách cửa khẩu Quốc tế Hữu nghị 14km và cách 5
cặp chợ đường biên Việt - Trung thuộc huyện Cao Lộc, Lộc Bình, Văn
Lãng từ 25 đến 30km. Dân số của Thành phố ước tính có hơn 10 vạn
người với 104 khối thôn được chia thành 8 đơn vị hành chính ( 05
phường, 03 xã ). Cơ cấu kinh tế của Thành phố chủ yếu là phát triển
thương mại du lịch dịch vụ (chiếm 59,8%), công nghiệp - XD (chiếm
35,5%) và nông lâm nghiệp (chiếm 4,7%). GDP bình quân đầu người
năm 2005 đạt 14,9 triệu đồng/người/năm.
Hoạt động của các thành phần kinh tế phát triển ổn định, phong phú
và đa dạng. Hiện Thành phố có hơn 300 doanh nghiệp trong và ngoài
quốc doanh, hơn 4.000 hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động sản
xuất, kinh doanh trên địa bàn.
Trong thời gian qua, có thể nói những thay đổi về cơ sở hạ tầng đô
thị đã góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
Thành phố. Năm 2000, Thành phố Lạng Sơn được công nhận là đô
thị loại III. Thực hiện đề án thành lập Thành phố, giai đoạn 2000-
2002 Thị xã đã được đầu tư hơn 450 tỷ đồng vào việc xây dựng cơ
sở hạ tầng, kiến thiết đô thị. Sau khi được đầu tư, hệ thống các công
trình hạ tầng cơ sở trên địa bàn đã được cải thiện đáng kể, góp phần
làm thay đổi diện mạo của Thị xã. Tháng 10/2002 Chính phủ đã ban
hành Nghị định thành lập Thành phố Lạng Sơn.
Hiện nay, hệ thống giao thông của Thành phố đã được đầu tư thêm
21,7km, nâng cấp 26,15km mặt đường đổ bê tông xi măng hoặc bê
tông nhựa, nâng tổng chiều dài của hệ thống giao thông thành phố
lên 125,5km, trong đó có 48,4km đường cao cấp. Đặc biệt quốc lộ 1A
được đầu tư nâng cấp thành đường cao tốc với 3 làn xe theo dự án
của Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại, du
lịch, dịch vụ, giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa Lạng Sơn và các địa
phương khác.
Hệ thống điện sinh hoạt của Thành phố hiện có 2.397 km đường dây,
527 trạm biến áp. Điện chiếu sáng đô thị có hơn 36 km và 5 trạm
biến áp. Hệ thống cấp nước sinh hoạt hiện có 11 giếng khoan, 50km
đường ống f >100, 80km đường ống f <100. Hệ thống thoát nước có
10,2km đường ống, 2km mương, 580 hố ga.
Hệ thống thuỷ lợi hiện có 06 hồ đập lớn nhỏ, 11 trạm bơm. Thực
hiện tốt chương trình kiên cố hoá kênh mương, đến nay cơ bản đã
kiên cố hoá được hệ thống mương thuỷ lợi trên địa bàn Thành phố.
Số trường học hiện có trên địa bàn là 25 trường, bao gồm: 08 trường
Tiểu học, 07 trường Trung học cơ sở, 02 trường Phổ thông cơ sở
(cấp I + II), 04 trường Trung học phổ thông; 04 trường Trung học
chuyên nghiệp. Về Y tế, có 04 bệnh viện cấp Tỉnh, 01 Trung tâm Y tế
thành phố và 08 trạm y tế của 08 phường, xã.
Cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại du lịch cũng có những thay đổi
mạnh mẽ, bước đầu đáp ứng được sự phát triển của ngành kinh tế
thương mại - du lịch - dịch vụ Thành phố. Nhiều khu di tích văn hoá -
lịch sử, danh lam thắng cảnh đã được đầu tư, tôn tạo như: Khu di
tích Thành nhà Mạc, khu di tích Nhất Nhị Tam Thanh, Chùa Tiên…
Đầu tư xây dựng các công trình phục vụ phát triển du lịch như: kè bờ
sông Kỳ Cùng, kè suối Lao Ly, cải tạo công viên Hồ Phai Loạn, xây
dựng Khu du lịch sinh thái hồ Nà Tâm, hồ Thâm Sỉnh, Khu du lịch
sinh thái Đèo Giang - Văn Vỉ nhằm tạo ra các điểm du lịch hấp dẫn,
thu hút khách đến tham quan, du lịch trên địa bàn. Hệ thống cơ sở
lưu trú phục vụ du lịch hiện có hơn 800 cơ sở hoạt động kinh doanh
dịch vụ khách sạn, nhà hàng trên địa bàn.
Một số công trình phục vụ cho sự phát triển thương mại - du lịch -
dịch vụ đã và sẽ tiếp tục được triển khai như: Khu vui chơi giải trí
liên doanh quốc tế, dự án Công viên nước, khách sạn 3 sao, dự án cải
tạo, nâng cấp chợ truyền thống Kỳ Lừa… Hiện Thành phố hiện có 03
chợ chính: chợ Đông Kinh (diện tích sàn 15.000m2), chợ Kỳ Lừa
(diện tích sàn 10.000m2), chợ Chi Lăng (diện tích 2.000m2) và một
số chợ cóc, chợ xép, chợ khu vực khác, trong đó chợ Đông Kinh là
một trong những điểm đến rất hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài
Tỉnh đến tham quan, mua sắm. Do ảnh hưởng của tốc độ đô thị hoá
nhanh, nhu cầu về nhà ở của nhân dân ngày càng bức xúc, trong thời
gian qua Tỉnh và Thành phố đã ưu tiên dành nguồn vốn đầu tư để
triển khai xây dựng nhiều khu tái định cư, khu dân cư, khu đô thị
mới trên địa bàn.
Những thay đổi về hệ thống cơ sở hạ tầng của Thành phố đã từng
bước cải thiện diện mạo đô thị, tạo ra nền tảng để thu hút được
nhiều nguồn lực đầu tư vào Thành phố nhằm khai thác có hiệu quả
những tiềm năng, thế mạnh của Thành phố về phát triển kinh tế
thương mại - du lịch - dịch vụ.
Lĩnh vực văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện. Tỷ lệ hộ
nghèo năm 2005 còn 3,67% (theo tiêu chí mới), hộ giàu và khá
chiếm trên 40%. 100% thôn bản có điện lưới quốc gia, 100% số hộ
được nghe đài phát thanh, trên 95% số hộ được xem truyền hình, tỷ
lệ thôn bản được dùng nước sạch chiếm khoảng 85%. Chất lượng
giáo dục - đào tạo ngày càng được nâng cao, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
bình quân từ 98-100%, số học sinh giỏi hàng năm đều tăng. Đảm bảo
các chương trình mục tiêu quốc gia về Y tế, Dân số, Gia đình và trẻ
em. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên duy trì ổn định ở mức 0,9%/năm. Tỷ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 16% vào năm 2005.
An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được ổn định và giữ vững,
tạo môi trường thuận lợi cho phát triển KT-XH. Hệ thống chính trị từ
Thành phố đến cơ sở được tăng cường, củng cố vững mạnh, năng
lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao,
từng bước đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Phát huy được khối đại
đoàn kết toàn dân, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước.