Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Quan hệ giữa cấu trúc và ngữ nghĩa câu văn trong tập truyện ngắn “Đêm tái sinh” của tác giả Trần Thuỳ Mai" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.43 KB, 10 trang )




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



93
Quan hệ giữa cấu trúc và ngữ nghĩa câu văn
trong tập truyện ngắn Đêm tái sinh
của tác giả Trần Thuỳ Mai

Nguyễn Thị Hải Yến
(a)


Tóm tắt. Cấu trúc câu ở dạng mô hình không có mối liên hệ nào với ngữ nghĩa,
nhng khi tham gia hành chức, cấu trúc câu văn sẽ có t cách là một tín hiệu nghệ
thuật, bởi nó biểu đạt ngữ nghĩa mang tính mã hoá của ngôn ngữ nghệ thuật. Thông
qua việc khảo sát cấu trúc và ngữ nghĩa câu văn tập truyện Đêm tái sinh chúng tôi
nhận thấy cấu trúc câu hội thoại trong truyện ngắn Trần Thuỳ Mai có vai trò biểu đạt
ngữ nghĩa, thể hiện tính hình tợng nhân vật, tính thẩm mĩ, tính sáng tạo mang phong
cách tác giả.

1. Đặt vấn đề
Cấu trúc câu văn và việc biểu đạt
ngữ nghĩa luôn có quan hệ biện chứng.
Tuy không qui định đợc sự tơng ứng
một cách cố định bất biến, tất yếu giữa
câu trúc câu và nội dung ngữ nghĩa của
nó, nhng xuất phát từ đặc điểm của


mỗi loaị cấu trúc và từ thực tiễn hoạt
động có thể thể suy ra những nội dung
ngữ nghĩa mà cấu trúc nào đó có thể
biểu đạt hiệu quả nhất. Bài viết của
chúng tôi đi sâu phân tích mối quan hệ
giữa cấu trúc và ý nghĩa do đơn vị câu
biểu đạt trong truyện ngắn Trần Thuỳ
Mai, để từ đó chúng ta thấy đợc phần
nào phong cách ngôn ngữ riêng của nữ
tác giả này.
2. Quan hệ giữa cấu trúc và ngữ
nghĩa câu trong truyện ngắn Đêm
tái sinh của Trần Thuỳ Mai (xét
trên câu hội thoại)
Giữa cấu trúc và ý nghĩa có mối
quan hệ chi phối lẫn nhau, đợc thể
hiện ở câu tờng thuật (hay còn gọi là
câu kể) của nhà văn và câu hội thoại
thể hiện lời của nhân vật khi tham gia
hội thoại. Qua ngôn ngữ hội thoại của
từng nhân vật, ta nhận ra tính cách, cá
tính, trình độ văn hoá, các mối quan hệ
xã hội của nhân vật, cũng nh cả
dụng ý nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm
qua nhân vật. ở bài báo này, chúng tôi
đề cập đến kiểu câu hội thoại, để nói
đến sự chi phối giữa cấu trúc câu và ý
nghĩa.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát
câu hội thoại của nhân vật qua 6 truyện

ngắn trong tập Đêm tái sinh và so sánh
với một một số truyện ngắn của hai tác
giả cùng thời Nguyễn Huy Thiệp và
Nguyễn Thị Thu Huệ (số trang viết
tơng đơng), kết quả khảo sát nh
Bảng 1.
Qua bảng thống kê, ta thấy câu
đơn bình thờng chỉ có một kết cấu Chủ
Vị làm nòng cốt câu xuất hiện nhiều
nhất (từ 37,7% trở lên) và có tỉ lệ đồng
đều giữa 3 tác giả. Sự khác biệt về các
kiểu câu thể hiện chủ yếu ở câu đơn
đặc biệt, câu đơn mở rộng thành
phần và câu ghép. Vì vậy chúng tôi
dừng lại phân tích ở ba nhóm này.

Nhận bài ngày 04/12/2006. Sửa chữa xong 20/12/2006.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



94

Bảng 1. Thống kê cấu trúc câu hội thoại ở một số truyện ngắn của các tác giả
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ và Trần Thuỳ Mai

Câu đơn

Bình thờng

T
T

Cấu trúc câu



Tác giả, tác phẩm

Đặc
biệt
1 Kết cấu
chủ - vị
Mở rộng
thành
phần

Câu
ghép

Tổng
số câu
hội
thoại
Trần Thuỳ Mai
1

Đêm tái sinh

40
33,3%

54
45%
9
7,5%
17
14,1%

120
2

Thể Cúc
27
17,7%

72
47%
15
9,8%
39
25,4%

153
3

Gió thiên đờng
48
29,9%


79
45,3%
14
8,8%
19
11,9%

160
4

Lên phố
47
35,7%

56
42,4%
4
3,0%
25
18,9%

132
5

Huyền thoại về chim
phợng
48
29,2%


98
59,8%
7
4,3%
11
6,7%

164
6

Thập tự hoa
10
12,6%

43
54,4%
8
10,1%
18
22,8%

79

Nguyễn Huy Thiệp


1

Tớng về hu
87

34%
141
55%
2
0,8%
26
10,2%

256
2

Không có vua
135
35%
210
54,4%
8
2%
33
8,5%

386
3

Trơng Chi
16
100%

0 0 0
16


Nguyễn Thị Thu Huệ


1

Một nửa cuộc đời
73
38,3%

99
51,8%
5
2,6%
14
7,3%

191
2

Ngời xa
33
62,2%

20
37,7%
0 0
53
3


Mại
58
45,0%

61
47,3%
3
2,3%
7
5,5%

129

Qua bảng thống kê, ta thấy câu
đơn bình thờng chỉ có một kết cấu Chủ
- Vị làm nòng cốt câu xuất hiện nhiều
nhất (từ 37,7% trở lên) và có tỉ lệ đồng
đều giữa 3 tác giả. Sự khác biệt về các
kiểu câu thể hiện chủ yếu ở câu đơn
đặc biệt, câu đơn mở rộng thành
phần và câu ghép. Vì vậy chúng tôi
dừng lại phân tích ở ba nhóm này.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



95

2.1. Quan hệ giữa cấu trúc và ngữ
nghĩa trong câu tĩnh lợc
Trong câu đơn đặc biệt, có thể có ba
tiểu nhóm: câu đơn đặc biệt tự thân,
câu tách biệt và câu tĩnh lợc. Câu tách
biệt, nh:

Hua Tát, mọi ngời đều có
một gia đình nề nếp của mình. Thật
cha bao giờ có một gia đính nào quái
gỡ nh thế này. Vợ không chồng. Con
không bố. Chín đứa con. Chín đứa
mà chẳng đứa nào giống đứa nào.
(Nguyễn Huy Thiệp, Nh những ngọn
gió Hua Tát, tr.489) có liên quan đến
cấp độ văn bản, gắn với ý đồ nghệ thuật
riêng của tác giả, nên trong phần câu
hội thoại này, chúng tôi không đi sâu
phân tích. Câu đặc biệt tự thân luôn tồn
tại nhờ ngữ cảnh nên chúng tôi cũng
không đề cập đến trong bài viết này.
Chúng tôi chỉ dừng lại phân tích ở kiểu
câu tĩnh lợc.

Bảng 2. Phân loại câu đặc biệt ở một số truyện ngắn của các tác giả
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ và Trần Thuỳ Mai

TT

Kiểu câu




Tác giả, tác phẩm
Tổng số câu
hội thoại
Câu đơn
đặc biệt
tự thân
Câu đơn
đặc biệt
tách biệt

Câu đơn
đặc biệt
tĩnh lợc

Trần Thuỳ Mai

1 Đêm tái sinh
120 9
7,5
0 31
25,8
2 Thể Cúc
153 5
3,3
1
0,7
21

13,7
3 Gió thiên đờng
160 1
0,6
47
29,3
4 Lên phố
132
1
0,8%
3
2,3%
43
32,6%
5
Huyền thoại về chim
phợng
164
14
8,5%
1
0,6%
33
20,1%
6 Thập tự hoa
79
2
2,5%
8
10,1%

Nguyễn Huy Thiệp


1 Tớng về hu
256
2
0,8%
4
1,6%
81
31,6%
2 Không có vua
386
4
1,0%
3
0,8%
128
33,9%
3 Trơng Chi
16
5
31,3%
11
68,8%
Nguyễn Thị Thu Huệ


1 Một nửa cuộc đời
191

12
6,3%
7
3,7%
54
28,3%
2 Ngời xa
53
6
11,3%
2
3,8%
25
47,1%
3 Mại
129
16
12,4%
1
0,8%
41
31,8%



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



96


Câu tĩnh lợc là một tiểu loại trong
loại câu đặc biệt. Chúng tôi khảo sát số
lợng cả ba tiểu nhóm câu đơn đặc biệt:
câu đơn đặc biệt tự thân, câu đơn đặc
biệt tách biệt, câu đơn đặc biệt câu tĩnh
lợc (Xem Phan Mậu Cảnh, TLTK 2).
Giữa 3 kiểu câu này tần số xuất hiện
khác nhau trong các truyện ngắn, kết
quả phân loại nh Bảng 2.
Trong lời nói, câu tĩnh lợc có vai
trò quan trọng trong việc liên kết lời
thoại nhân vật và biểu đạt nghĩa tình
thái (nghĩa liên nhân). Thông qua câu
tĩnh lợc có thể biết đợc vị thế của vai
giao tiếp, tình cảm, thái độ của ngời
nói. Trong văn bản nghệ thuật, câu tĩnh
lợc còn góp phần tạo nên tính hàm ý,
đa nghĩa trong lời nói nhân vật. Qua t
liệu khảo sát, chúng tôi nhận thấy câu
tĩnh lợc trong lời hội thoại trong
truyện ngắn Trần Thuỳ Mai có tần số
sử dụng không cao (tỉ lệ trung bình
trong các truyện đã khảo sát của tác giả
Trần Thuỳ Mai là: 21,9%, ít hơn so với
hai tác giả Nguyễn Huy Thiệp (44,8%)
và Nguyễn Thị Thu Huệ (35,7%), sự
khác biệt không đậm nét ở số lợng mà
đặc biệt bộc lộ ở khía cạnh ngữ nghĩa.
Câu tĩnh lợc trong truyện ngắn Trần

Thuỳ Mai thể hiện những nội dung ngữ
nghĩa sau:
a. Biểu hiện cao trào xúc cảm của
nhân vật
Trong các câu mà tác giả Trần
Thùy Mai sử dụng, chúng tôi nhận thấy
kiểu câu tĩnh lợc thờng xuất hiện
trong những đoạn thoại nhân vật có
những xáo trộn, dằn vặt về tâm trạng.
ái Duy trong Nàng công chúa lạc loài
mồ côi mẹ từ nhỏ và em rất yêu ba, gần
nh tôn thờ nhng khi đối mặt với một
sự thật phũ phàng rằng ba cô có quan
hệ bất chính với một phụ nữ cùng cơ
quan và còn trù dập ngời ta thì lời cô
bé nh nghẹn lại:
(1) - Tại sao? Cô xé của ba tôi
Nhng lúc nào?
- Lúc ông ấy nằm trên bụng
tôi [5, tr. 336].
Bàng hoàng, đau đớn, những con
ngời trong gia đình Khôi trong truyện
Chuyện cũ quê nhà lại sử dụng lời thoại
rời rạc đứt đoạn:
(2) - Một lát sau, bà tôi hỏi, run
run:
- Mấy tháng rồi?
Mẹ tôi vẫn cúi gục đầu.
- Ba.
- Ai?

- Con không biết. Chỉ có một
lần [5, tr. 307].
b. Biểu đạt ý nghĩa hàm ngôn trong
lời.
Đặc điểm của câu tỉnh lợc là
nghĩa đợc xác định chính xác không
hiểu lầm, khi đặt trong ngữ cảnh, nó có
lợi thế trong việc tạo những phát ngôn
hàm ẩn, đa nghĩa. Câu tỉnh lợc ngắn
nhng có sức hàm chứa rất lớn, chính
cấu trúc khuyết chủ ngữ hoặc vị ngữ có
khi cả chủ - vị trong câu đã tạo nên ý
tại ngôn ngoại, tính đa nghĩa của câu
đợc nhân lên.
Câu tĩnh lợc trong lời thoại truyện
ngắn Khói trên sông Hơng rất ít, nh-
ng khi đợc sử dụng, nó tạo cho truyện
ý nghĩa đặc biệt. Tình yêu của Trang và
Tung đẹp nh những sợi tơ trời và cũng
h không nh những sợi tơ trời. Cốt
cách của con ngời Huế in dấu ấn trong
tình yêu, lặng lẽ, đằm thắm và sâu sắc.
Cảm tởng chung của ngời đọc là câu
truyện tạo nên một thế giới trong tâm
tởng, một thế giới đẹp lãng mạn mà
con ngời luôn hớng đến, luôn ngỡng
mộ. Nhân vật thờng sử dụng những




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



97
câu nói ý nhị, để nói lên lời của trái tim
đang thổn thức vì tình yêu, gửi gắm
những điều khó diễn đạt, vì vậy chúng
tạo nên nét riêng của truyện:
(3) - Thì bây giờ cũng không hề
khác. Em biết, chính vì em mà anh trở
về.
- Muộn quá rồi!
- ít ra cũng phải gặp nhau để nói
rằng đã muộn [5, tr.505].
(4) - Khách hàng là thợng đế, anh
đã đóng vai trò thợng đế, cho nên mới
giữ đợc em ở đây, giờ này, trên sông
này.
- Và chỉ có thế thôi Trang lạnh
lẽo đáp [5, tr.509].
Trong Gió thiên đờng Mi trả lời
Hiếu khi cô biết anh ta không chung
thuỷ trong tình yêu, một cách nói ý nhị,
sâu sắc: Mi đi đâu vậy?. Đi để nhìn.
Để thấy con ngời không đơn giản
Câu chứa nghĩa hàm ngôn xuất
hiện trong những đoạn thoại ngời nói
muốn diễn đạt những nội dung ý nhị có
khi để né tránh, cũng có khi gửi gắm

đợc những ý nghĩa sâu xa trong đó.
Trong truyện Trần Thuỳ Mai có một bộ
phận câu tĩnh lợc đã đảm đơng việc
chuyển tải ý hàm ngôn của lời nói, nó
thực sự có ý nghĩa tô đậm thêm màu
sắc phong cách ngôn ngữ tác giả.
c. Thể hiện quan hệ gần gũi, thân
mật giữa những ngời tham gia giao
tiếp
Kết cấu câu tĩnh lợc có khả năng
biểu hiện quan hệ liên nhân trong giao
tiếp, và nó tỏ ra có u thế trong việc thể
hiện quan hệ khoảng cách. Theo tác giả
Đỗ Thị Kim Liên, quan hệ liên nhân là
quan hệ thể hiện sự gần gũi hay xa lạ
giữa các nhân vật giao tiếp xét theo
quan hệ thân tộc, quan hệ tình cảm,
quan hệ công tác, sự hiểu biết lẫn nhau
[5, tr. 44]. Trong giao tiếp câu tĩnh lợc
đợc dùng nhiều trong trờng hợp biểu
hiện thái độ không bằng lòng hoặc
không thân thiện, thái độ miễn cỡng
hoặc trốn tránh, bất hợp tác. Trong
truyện ngắn Bảy ngày trong đời của
tác giả Nguyễn Thị Huệ, câu tĩnh lợc
đợc sử dụng để biểu lộ thái độ nghi
ngờ, coi thờng của vị bác sĩ khoa sản
đối với nhân vật My và ngợc lại nhân
vật My thể hiện tâm trạng bực dọc, xấu
tính, hỗn xợc.

(5) - Ngời nhà của cô đâu?
- Anh ấy đi công tác.
- Có ai ở đây không? Giọng bà
hơi gắt. ánh mắt bà nhìn My nh nhìn
con mèo hoang.
- Không kịp báo cho ai biết.
- Nếu phải mổ đẻ thì ai là ngời
kí biên bản? [6, tr. 322].
Trong truyện ngắn của Trần Thuỳ
Mai có hiện tợng đặc biệt là câu tĩnh
lợc không nhằm hớng đến biểu đạt
quan hệ xa cách giữa các nhân vật.
Ngợc lại trong các đoạn thoại, câu tĩnh
lợc đợc sử dung thể hiện không khí
thân mật gắn kết của con ngời trong
quan hệ tình bạn, tình yêu, tình ngời.
Lời thoại giữa Chị Trúc và Hiệp,
nghe có vẻ gắt gỏng nhng trong đó
tràn ngập tình thơng:
(6) - Trời đất, có sao không, Hiệp
ơi!
- Thôi mặc xác tôi [5, tr. 8].
Nhân vật trẻ tuổi Tý và Dũng
trong Lên phố dùng câu tĩnh lợc trong
hội thoại với ý nghĩa thể hiện sự thân
mật, gần gũi, sự thông cảm và thấu
hiểu nhau:
(7) - Chị Sanh cời: Có anh sinh
viên mô cùng lớp làm mai cho hắn một
anh. T í háy chị Sanh một cái Mình

quê, ai thèm. Dũng đăm đăm nhìn Tí,
bảo: Sao lúc nào em cũng sợ mình quê.
Bộ quê là xấu sao? Không xấu nhng



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



98
mà thua thiệt. Dũng nắm tay Tí bảo:
Ngời ta hơn nhau là tấm lòng, còn tất
cả là khoai hết [5, tr. 28].
Câu tĩnh lợc còn xuất hiện nhiều
trong ngôn ngữ của giới trẻ, mà giữa họ
có quan hệ bạn bè hoặc quan hệ yêu
đơng:
(8) - Ngồi đồng trớc quán thế này,
không sợ ngời ta dòm ngó à?. Việc gì
đến ai đâu mà sợ. Chỉ sợ Mi không dám
đi vào quán một mình [5, tr. 60].
Ngoài ra, câu tĩnh lợc còn xuất
hiện trong những lời thoại nhằm thể
hiện sự bình đẳng về vị thế của các
nhân vật giao tiếp. Đây là sự gần gũi
thân mật của hai chị em gái:
(9) - Chị reo lên tố cáo khi ngửi
thấy mùi phấn trên má tôi: Đừng kể với
ai nhé. Em lấy phấn trong hộp trang

điểm của mẹ [5, tr. 446].


Đêm tái sinh sự xuất hiện câu
tĩnh lợc làm cho ngôn ngữ hội thoại tự
nhiên, gần với ngôn ngữ cuộc sống hơn
và đặc biệt nó thể hiện đợc đặc điểm
về tâm lí lứa tuổi của nhân vật. So sánh
với ngữ cảnh có câu tĩnh lợc trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta
thấy có sự khác biệt ở chỗ, câu tĩnh lợc
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
đợc dùng phổ biến ở hầu hết ở các
nhân vật, không phân biệt về tuổi tác
và vị thế. Ví dụ nh lời thoại giữa ngời
cha và ngời con:
(10) - Lão Kiền bảo: Làm ngời
nhục lắm. Đoài hỏi: Thế sao không lấy
vợ lẽ? [5, tr.100].
- Lão Kiền bảo: Tìm thấy
nhẫn rồi. Cấn hỏi: ở đâu? Lão Kiền
bảo Vợ mày dấu trong cạp quần chứ
đâu [5, tr.101].
d. Liên kết các đoạn thoại, chú
trọng biểu đạt thông tin chính
Một trong những vai trò của câu
tĩnh lợc là liên kết các đoạn thoại. Câu
tĩnh lợc xuất hiện khi đã có câu trớc
hoặc sau đầy đủ thành phần, nó tồn tại
dựa vào câu trớc hoặc sau nó, sự xuất

hiện của nó có tác dụng vừa dính kết
các câu hội thoại với nhau vừa hớng
ngời nghe vào thông tin chính.
(11) - Mạ ơi, hôm qua bà nội Rô đa
tới đây phải không ?
- ừ.
- Nói chi, mạ?
- Cũng nh mấy lần trớc [5,
tr. 512].
Bên cạnh việc sử dụng câu trúc câu
tĩnh lợc với ngữ nghĩa thể hiện quan
niệm của cá nhân nhà văn thì việc đặt
câu tĩnh lợc xen lẫn trong các câu đầy
đủ thành phần, dựa vào các câu đầy đủ
thành phần, phản ánh sự trọn vẹn về
mặt ngữ nghĩa làm cho đoạn thoại súc
tích hơn, liên kết lời thoại, biểu đạt
thông tin chính.
Nh vậy, việc sử dụng câu đơn tĩnh
lợc có liên quan mật thiết với nghĩa
của câu. Sự có mặt của từ, cụm từ trên
bề mặt phát ngôn và sự tĩnh lợc những
yếu tố khác là hết sức cần thiết, nó có
tác dụng nhấn mạnh thông tin chính
với ngời nghe cũng nh một số chức
năng khác.
2.2. Quan hệ giữa cấu trúc và ngữ
nghĩa trong câu đơn có thành phần
phụ
ở phần này, chúng tôi không bàn

về lý thuyết gắn với các quan niệm về
thành phần phụ mà chúng tôi chỉ chọn
cách quan niệm về thành phần chính và
thành phần phụ của câu để phân loại
theo Ngữ pháp tiếng Việt của tác giả
Diệp Quang Ban (TLTK 1).
Khảo sát câu văn của Nguyễn Huy
Thiệp, chúng tôi nhận thấy ông thờng
dùng câu đơn chỉ có một kết cấu C -V



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



99
không có thành phần phụ, nên độ dài
của phát ngôn thờng ngắn gọn:
(12) - Vừa may lúc Khảm về. Cấn
bảo: Thằng bạn mày lấy cắp nhẫn của
chị Sinh. Khảm tái mặt hỏi: Ai bảo
thế? Cấn bảo: Mắt tao trông thấy [8,
tr. 99]. Câu đơn không có thành phần
phụ nh ở ví dụ trên khi đợc sử dụng
liên tiếp trong đoạn thoại tạo nên
không khí căng thẳng, thiếu sự giao
thoa tình cảm trong giao tiếp. Đây là
dụng ý của ngời viết.
Trái lại, trong truyện ngắn Trần

Thuỳ Mai, câu có thành phần phụ lại
đợc sử dụng nhiều, nh trạng ngữ, liên
ngữ, tình thái ngữ. Mỗi thành phần phụ
có vai trò khác nhau trong biểu đạt nội
dung lời nói .
2.2.1. Thành phần trạng ngữ làm
rõ thêm, cụ thể hơn nội dung lời nói, thể
hiện thái độ tôn trọng và mong muốn
giãi bày của ngời trao lời thoại.
Lời từ biệt của Tung với Trang trên
dòng Hơng Giang nhoà khói, đó là lời
chia tay thẫm đẫm nỗi buồn và thất
vọng, nhng ngời nói vẫn muốn giải
bày tình cảm tha thiết của mình:
(13) - Bây giờ cả nhà đang cùng với
Xiu Xiu đứng ở phi trờng để tiễn đa -
Tung vừa nói vừa cời, còn Trang thì
chới với đa mắt nhìn một cánh diều
nào đó.
- Để rồi xem, em còn kiêu ngạo
với anh đợc bao lâu? Tung đột ngột
nâng cằm Trang lên, nhìn vào mắt cô - :
Một ngày kia, em sẽ biết rằng anh cũng
kiêu ngạo chẳng thua gì em đâu. Hãy
đợi đấy [5, tr. 514].
Thắng nói khi lòng trắc ẩn của anh
đợc đánh thức trớc cái ngây thơ trong
trắng của
á
i Duy. Sự trân trọng tình

ngời, tình đời tận đáy lòng mà trớc
đây anh đã đánh mất lại trở về trong lời
thoại của nhân vật:
(14) - Vâng. Hôm nay, nếu đồng ý,
anh sẽ đa em đi chơi để nhìn trời đất
giáng sinh [5, tr. 340].
Kiều Dung thổn thức trớc cuộc
gặp gỡ bất ngờ với ngời cô yêu thơng
và chờ đợi, cô bày tỏ lòng mình qua lời
nói, bằng trạng ngữ tạo điểm nhấn về
ngữ điệu mời sáu năm nay:
(15) - Anh biết không, mời sáu
năm rồi, em luôn mong gặp lại anh. Em
muốn hỏi anh một câu thôi!
- Em muốn biết ngày ấy có
đúng là anh đã ghi nguyện vọng khác
với nguyện vọng của em không? Mời
sáu năm nay em cứ trăn trở hoài vì câu
nói ấy [5, tr. 45].
2.2.2. Thành phần liên ngữ kết nối
các lời thoại tạo nên đoạn thoại liên kết
chặt chẽ thể hiện thái độ mong muốn
đạt mục đích giao tiếp các nhân vật
Lời thoại nhân vật trong Đêm tái
sinh ít có hiện tợng đứt gãy, chuệch
choạc dù trong trờng quan hệ giữa các
nhân vật đã có những rạn nứt nhờ sự
xuất hiện của thành phần liên ngữ, ví
dụ:
(16) - Em muốn ở lại đây vài hôm

Nhng bây giờ, tự nhiên em muốn về.
- Sao vậy?- Chàng loay hoay
chùm chìa khoá xe, vẻ bối rối.
- Bàn thờ tình yêu ở dới địa
ngục, nhng em biết anh không sẵn
sàng xuống địa ngục với em. Tôi nghĩ
vậy nhng chỉ nói bình thản:
- Chẳng sao cả. Chỉ vì em thấy
non nớc mùa hè khác hẳn mùa đông
[5, tr. 132].
Stéphacô rất mến Nh Nh, anh
mợn câu chuyện về Máccô Pôlô để thổ
lộ tình cảm thầm kín của mình. Lời
thoại của nhân vật có sự gắn kết giữa
lời trao và lời đáp có vai trò của thành
phần liên ngữ, nó là tín hiệu hồi đáp
của ngời đối thoại.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



100
(17) - Thế nhng cuối cùng ông ấy
cũng rời Trung Hoa, trên một con
thuyền.
- Nh Nh, ông ấy thật hạnh
phúc, đã ra đi cùng một nàng công chúa

[5, tr. 416].
2.2.3. Thành phần phụ tình thái
ngữ trong câu đơn có vai trò thể hiện
tình cảm, cảm xúc nhân vật
Thành phần phụ tình thái đợc sử
dụng trong ngôn ngữ hội thoại thể hiện
tình cảm, xúc cảm nhân vật, thờng là
quan hệ thân mật và mong muốn xích
lại gần nhau. Lời hội thoại thờng
hớng tới tính lịch sự, chứa đựng tình
cảm và mong muốn thiết lập quan hệ
gần gũi với ngời nghe:
(18) - Này Nh Nh, - Stéphacô bảo
tôi - trớc đây tôi cứ tởng Máccô chỉ
đơn giản đi tìm sự giàu có. Còn giờ đây
tôi tin là anh ta đã bị sự huyền ảo của
một thế giới khác thu hút.
- Thế nhng cuối cùng ông ấy
cũng rời Trung Hoa, trên một con
thuyền.
- Nh Nh, ông ấy thật hạnh
phúc, đã ra đi cùng một nàng công chúa
[5, tr. 416].
2.3. Câu đơn mở rộng thành phần
Câu đơn mở rộng thành phần là
câu có thành phần mở rộng là một kết
cấu C-V [3, tr.119]. Tác giả Diệp
Quang Ban gọi tên loại câu này là Câu
phức, theo tác giả ở câu phức, tuy có
hai (hoặc hơn hai) kết cấu chủ vị, nhng

trong số đó chỉ có một kết cấu chủ vị
nằm ngoài cùng và làm nòng cốt câu,
(các) kết cấu chủ vị còn lại bị bao bên
trong kết cấu chủ vị làm nòng cốt đó,
chứ không làm nòng cốt câu [1, tr.
161]. Câu đơn mở rộng thành phần
đang xét phức tạp hơn câu đơn chỉ có
một nòng cốt chủ vị về cấu trúc và cũng
không giống câu ghép ở chỗ bao nhau
và không bao nhau của các kết cấu chủ
vị [1, tr. 161]. Câu mở rộng thành phần
bổ ngữ:
(19) - Bạch thầy, thầy có cho con //
trồng cây Hoàng Lan không? [5, tr.75].
Câu đơn mở rộng thành phần bao
giờ cũng có độ dài tơng đối lớn và
nghĩa của câu đợc diễn đạt rõ ràng.
Câu đơn mở rộng thành phần về
hình thức là kéo dài thêm lời nói tơng
ứng với sự trọn vẹn trong ngữ nghĩa.
Lời nói của nhân vật không chỉ cung
cấp thông tin cho qua chuyện mà còn
giãi bày tìm tới sự đồng cảm chia sẻ của
ngời đối thoại. Vì thế, câu hội thoại
của nhân vật trong truyện ngắn Trần
Thuỳ Mai ngoài việc cung cấp thông tin
còn mang ý nghĩa tạo lập quan hệ.
Trong khi đó, 3 truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp chỉ có 1 truyện xuất
hiện loại câu này nhng chỉ chiếm

không quá 2%. Tác giả Nguyễn Thị Thu
Huệ có sử dụng loại câu này, nhng số
lợng hạn chế, chỉ chiếm 2,6%.
Đối với Trần Thuỳ Mai, tác giả sử
dụng câu đơn mở rộng thành phần
trong câu hội thoại với tỉ lệ cao so với
các tác giả khác, có tới 10,1% . Câu mở
rộng thành phần bao gồm ba loại: câu
mở rộng thành phần phụ bổ ngữ, câu
mở rộng thành phần phụ định ngữ và
câu mở rộng thành phần phụ chú thích.
Trong đó câu mở rộng thành phần phụ
bổ ngữ có tỷ lệ sử dụng cao nhất, chiếm
60,1% trong 10,1%.
(20) - Biết đâu cô có thể giúp tôi
đợc nhiều hơn ngời ta // tởng [5,
tr.478].
2.4. Câu ghép
Có một xu hớng đổi mới văn xuôi
hiện nay là tạo ngôn ngữ xù xì góc cạnh



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



101
nhằm thể hiện mặt trái của cuộc sống,
một lĩnh vực mà trớc đây văn học ngại

nói đến. Khi phản ánh những nội dung
này ngôn ngữ hội thoại thờng sử dụng
những kiểu câu tĩnh lợc hoặc là tìm
mọi cách rút ngắn lời thoại, cắt bỏ
những phần bày tỏ, diễn giải. Đó cũng
là một cách tạo hấp dẫn cho văn
chơng, độc giả nhận thức cuộc sống
mặt trái sâu sắc hơn, nhng nó sẽ
không phù hợp trong việc thể hiện nội
dung tình cảm nhẹ nhàng, sâu sắc và
lãng mạn. Trong lời hội thoại chúng ta
nhận ra một giọng điệu riêng của Trần
Thuỳ Mai, bao giờ cũng hớng tới sự
giải bày tâm trạng, câu thoại của chị
vợt ra khỏi yêu cầu cung cấp thông tin
mà hớng tới sự cởi mở tấm lòng, vì thế
câu ghép cũng là một trong những yếu
tố tạo nên đặc điểm đó.
Câu ghép trong ngôn ngữ hội thoại
trong tập Đêm tái sinh chiếm tỉ lệ
không nhiều so với các kiểu câu khác
nhng so với hai tác giả mà chúng tôi
đã khảo sát thì nó vẫn chiếm u thế. ở
bốn truyện của Trần Thuỳ Mai có số
lợng và tỷ lệ câu ghép đợc sử dụng
nh sau: Đêm tái sinh có 17 câu, chiếm
14,1%; Thể cúc có 39 câu, chiếm 25,4%;
Gió thiên đờng có 19 câu, chiếm 11,9%;
Lên phố có 25 câu, chiếm 18, 9%. Trong
khi đó ở tác giả Nguyễn Huy Thiệp có

số lợng là: Tớng về hu có 26 câu,
chiếm 10,2%; Không có vua có 33 câu,
chiếm 8,6% và ở Nguyễn Thị Thu Huệ
có số lợng là: Một nửa cuộc đời có 14
câu, chiếm 7,3%; Mại có 7 câu, chiếm
5,5%. Con số này cho thấy Trần Thuỳ
Mai sử dụng câu ghép trong hội thoại
nhiều nhất. Lý giải điều này có thể có
nhiều lý do, ở đây chúng tôi dừng lại ở
nhân tố cảm xúc, tâm lý nhân vật, nội
dung cần diễn tả đã chi phối đến việc sử
dụng câu ghép với sự kéo dài lời thoại
nhân vật.
Trong một số ngữ cảnh nếu sử
dụng câu đơn một kết cấu C-V hay câu
tĩnh lợc thì không thể chuyển tải đợc
tâm trạng cảm xúc của nhân vật. Ngân
trong Đêm tái sinh có tình yêu tha thiết
với nghệ thuật xiếc, nhng cuộc sống
vốn không đơn giản đã tớc đi của cô sự
nghiệp, và khát vọng cống hiến. Câu hội
thoại đợc kéo dài bằng cấu trúc câu
ghép, thể hiện nỗi niềm của ngời nói:
(21) - Tự nhiên sức//xuống hẳn,
em // không thể múa thêm nổi nữa, tim
em // đập ghê quá, cơ bắp // y nh
nhão ra, em // sợ rơi vòng mất không
hiểu vì sao [5, tr. 236].
Câu ghép hội thoại có khả năng
chuyển tải nhiều nội dung thông tin với

nhiều tầng nghĩa, thờng xuất hiện ở
những nhân vật có nhiều suy t, đời
sống nội tâm đợc chú ý thể hiện. Nhân
vật hớng ngoại, tìm đến sự đồng cảm
của ngời cùng tham gia đối thoại:
(22) - Bây giờ // thì quá muộn, thói
quen // đã gấp thành nếp không thể
vuốt thẳng ra đợc, anh // đã là một
con ngời // định hình với tất cả sự bất
lực và tồi tệ của nó, hôn nhân, đó là /
một hạnh phúc quá lớn mà anh / không
thể cu mang [5, tr. 151].
(23) - Khách hàng là thợng đế,
anh đã đóng vai trò thợng đế, cho nên
mới giữ đợc em ở đây, giờ này, trên
sông này [5, tr. 505].
Ta có thể bắt gặp khá nhiều lời
thoại nhân vật bộc lộ tâm trạng, nỗi
niềm, cảm xúc cá nhân cũng nh muốn
chuyển tải lợng tin hàng ngày quá lớn
nên hình thức cấu tạo câu phải là câu
ghép mới đủ sức chuyển tải.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007



102

3. Kết luận
Thông qua việc sử dụng đa dạng
các kiểu cấu trúc câu, câu văn hội thoại
trong tập truyện Đêm tái sinh không
còn giới hạn ở nghĩa trao đổi thông tin,
mà đã vợt lên biểu lộ nỗi lòng nhân
vật, thể hiện một thế giới nhận vật có
chiều sâu nội tâm, coi trọng những giá
trị tinh thần cũng nh các quan hệ liên
nhân.
Tìm hiểu cấu trúc câu trong quan
hệ với ngữ nghĩa là một hớng nghiên
cứu ngôn ngữ từ bình diện ngữ dụng học
cần đợc quan tâm. Cấu trúc câu ở dạng
mô hình không có mối liên hệ nào với
ngữ nghĩa, nhng khi tham gia hành
chức, cấu trúc câu văn là một tín hiệu
nghệ thuật biểu đạt ngữ nghĩa mang
tính mã hoá của ngôn ngữ nghệ thuật.


Tài liệu tham khảo
[1] Diệp Quang Ban, Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, Đại học Huế, 2004.
[2] Phan Mậu Cảnh, Câu đơn phần trong tiếng Việt, NXB Trờng ĐHSP Hà Nội,
2005.
[3] Đinh Trọng Lạc, 99 phơng tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục,
2005.
[4] Đỗ Thị Kim Liên, Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2002.
[5] Trần Thuỳ Mai, Đêm tái sinh, NXB Thuận Hoá, 2004.
[6] Nhiều tác giả, Truyện ngắn bốn cây bút nữ, NXB Văn học, 2002.

[7] Nguyễn Kim Thản, Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, NXBGD, 1997.
[8] Nguyễn Huy Thiệp, Nh những ngọn gió, NXB Văn học, 1999.
[9] Cù Đình Tú, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2001.


Summary

relationships between linguistic meanings and sentence
structures, through the study of the sentences in the short
story series "The reborn night", written by Tran Thuy Mai
An investigation in sentence strutures in relation to linguistic meaning is a
study method in the view of pragmatics. Sentence structures in the form of models
do not relate to linguistic meanings, but when they are in use, they play the role of
art aignal because they express linguistic meanings in the form of the coded art
language. Through the investigation of sentence structures and linguistic meanings
in the short story series "the reborn night", written by Tran Thuy Mai, we realize
that structures of conversational and descriptive narrative sentences in those stories
have the role of expressing linguistic meanings and relationships of linguistic
meanings and sentence strucures illustrate the typical stereotypes of images,
aesthetics and the style of the author.

(a)
Cao học 12 Ngôn ngữ, Trờng Đại học Vinh.

×