Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Đề tài: Tìm hiểu về WTO và những cơ hội, thách thức đối với ngành thương mại dịch vụ của Việt Nam khi hội nhập WTO ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.01 KB, 20 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
Tìm hiểu về WTO và những cơ hội, thách
thức đối với ngành thương mại dịch vụ của
Việt Nam khi hội nhập WTO
MỤC LỤC
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP 1
Đề tài 1
Tìm hiểu về WTO và những cơ hội, thách thức đối với ngành thương mại dịch vụ của Việt
Nam khi hội nhập WTO 1
MỤC LỤC 2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong mấy thập kỉ gần đây, khu vực dịch vụ đã phát triển rất mạnh mẽ, và đóng
góp ngày càng lớn cho các nền kinh tế. Ở các nước phát triển giá trị ngành dịch vụ
chiếm tới 70 – 80% GDP, còn con số trung bình của các quốc gia đang phát triển là
gần 58% tổng sản lượng. Trong khi đó ngành dịch vụ của Việt Nam, dù đã có bước
tiến vượt bậc những năm vừa qua, hiện chỉ đạt khoảng 40% GDP.
Nhìn từ các nền kinh tế phát triển và đang nổi, có thể thấy dịch vụ là một lĩnh
vực không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của một quốc gia mà
Việt Nam là một thực thể trong nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam đã là thành viên chính thức Tổ chức thương mại quốc tế – WTO.
Nhưng trong khi đang lỗ lực để quay cùng vòng quay chung của thế giới, Việt
Nam lại phải đối mặt với những nguy cơ bị văng khỏi vòng quỹ đạo nếu không có
những bước đi hội nhập thích hợp.
Có thể nói, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đang và sẽ có nhiều cơ hội hơn
nữa để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển các ngành
kinh tế, cải thiện cơ sở hạ tầng và đời sống người dân. Song bên cạnh đó, Việt
Nam cũng sẽ phải đối mặt với rất nhiều thách thức lớn không chỉ cho toàn bộ nền
kinh tế mà còn cho cả từng ngành, từng lĩnh vực nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là
những ngành và lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế trước đây được sự bảo hộ và
trợ cấp của chính phủ Việt Nam như bảo hiểm, vận tải, viễn thông, ngân hàng…


Với mục đích đi sâu tìm hiểu về WTO và những cơ hội, thách thức đối với ngành
thương mại dịch vụ của Việt Nam khi hội nhập WTO, nên em xin chọn đề tài:
“Tìm hiểu về WTO và những cơ hội, thách thức đối với ngành thương mại dịch
vụ của Việt Nam khi hội nhập WTO”.

CHƯƠNG I
TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
1.1. TÍNH TẤT YẾU CỦA SỰ RA ĐỜI TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI
1.1.1 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại - tiền thân của Tổ chức
Thương mại Thế giới
1.1.1.1 Bối cảnh ra đời của GATT
Sau hơn 10 năm chính thức hoạt động, Tổ chức Thương mại Thế giới đã có
những đóng góp bước đầu vào sự phát triển của nền thương mại thế giới và từng
bước tỏ rõ sự thích ứng với vai trò của một cơ quan điều tiết mậu dịch quốc tế. Đạt
được như vậy một phần cũng vì Tổ chức Thương mại Thế giới đã kế thừa và phát
huy các thành quả mà các tổ chức tiền thân của nó là Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại đã tạo được. Do đó, để hiểu sâu hơn về Tổ chức Thương mại Thế
giới không thể không nghiên cứu về GATT.
Nhìn lại lịch sử ta nhận thấy phải đến cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV thị
trường thế giới mới bắt đầu được hình thành rõ nét. Thời gian sau đó cho đến chiến
tranh thế giới lần thứ II mặc dù thị trường thế giới liên tục phát triển song chưa có
Hiệp định thương mại đa biên nào điều chỉnh. Thời gian này, các cường quốc kinh
tế đồng thời cũng là các cường quốc quân sự thường chủ động sử dụng chiến tranh
để phân chia lại thị trường.
Kể từ sau năm 1945, với cục diện thế giới mới và thắng lợi của phe Đồng
minh trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, nước Mỹ có ý đồ thiết lập lại các thể chế
chính trị, kinh tế có lợi cho mình. Đồng thời, nhiều nước khác cũng có nhu cầu xây
dựng các cơ chế mới để điều chỉnh mối quan hệ quốc tế, duy trì hoà bình, ổn định,
tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài. Trong bối cảnh đó, hàng loạt tổ chức lớn

của thế giới được ra đời: Liên hợp quốc (UN) được thành lập; về tiền tệ có Quỹ
tiền tệ Quốc tế ra đời; về tài chính có Ngân hàng thế giới (WB); về thương mại là
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại.
Cụ thể, từ năm 1945, song song với việc chuẩn bị thành lập Tổ chức thương
mại quốc tế (ITO), 23 nước đã tiến hành 123 cuộc thương lượng kéo dài với các nỗ
lực nhằm đơn giản hoá các thủ tục, không ngừng nhằm giảm bớt hàng rào thuế
quan, tạo môi trường thương mại quốc tế tự do. Kết quả ngày 30/10/1947 Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại được ký kết, có hiệu lực từ 1/1/1948. Buổi
đầu thành lập GATT chỉ có 23 nước thành viên nhưng đến cuối năm 1994, tổ chức
này đã quy tụ được 129 nước thành viên và nhiều tổ chức liên chính phủ, chiếm
trên 90% kim ngạch thương mại của thế giới.
1.1.1.2 Các chức năng và nguyên tắc cơ bản của GATT
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại được thành lập nhằm tạo ra
một cơ sở đảm bảo về pháp lý, góp phần phát triển kinh tế, thương mại thế giới với
3 chức năng cơ bản sau:
+ Là một luật lệ kinh tế chung được các bên nhất trí để điều tiết mọi hoạt
động thương mại của các nước tham gia ký kết.
+ Là một diễn đàn thương lượng để thực hiện tự do hoá môi trường kinh
doanh quốc tế, không ngừng tăng cường và hoàn chỉnh các luật lệ mà Hiệp định đã
đề ra.
+ Là một "Toà án" quốc tế để Chính phủ các nước giải quyết tranh chấp
trong phạm vi các nước thành viên .
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại là một văn kiện dài với 4 phần,
38 điều quy định chi tiết nhiều lĩnh vực. Các nguyên tắc chủ đạo trong hoạt động
của GATT bao gồm:
1. Không phân biệt đối xử trong thương mại bằng cách dành cho nhau quy
chế đãi ngộ "Tối huệ quốc".
2. Thiết lập một cơ sở ổn định cho thương mại thế giới thông qua việc
thương lượng và thực hịên nghiêm túc các thoả thuận về thuế.
3. Quyền "Khước từ" và khả năng có hành động cấp thiết, không thực hiện

một số nghĩa vụ trong thời hạn nhất định khi có lý do chính đáng về kinh tế và
thương mại.
4. Bảo hộ mậu dịch bằng công cụ thuế quan là chính. Không tăng cường bảo
hộ, có cơ chế thương lượng hiệu quả để gỡ bỏ dần mọi rào cản thương mại.
5. Khuyến khích việc cạnh tranh công bằng, cho phép đánh thuế đối kháng,
thuế chống bán phá giá, hoặc chống trợ cấp nếu bị thiệt hại do sản phẩm của nước
khác bán phá giá hay trợ cấp gây ra.
6. Quan hệ "có đi có lại" bằng cách yêu cầu lẫn nhau những nhượng bộ
tương tự nhằm khuyến khích mở cửa thị trường.
7. Ưu tiên đặc biệt cho các nước đang phát triển, ví dụ như Hệ thống ưu đãi
phổ cập GSP, các ưu đãi trong việc tiếp cận thị trường, không phải "có đi có lại "
với các nước phát triển.
8. Công nhận các dàn xếp thương mại khu vực và sự hoà nhập chặt chẽ hơn
các nền kinh tế quốc gia thông qua các liên kết khu vực này. Tuy nhiên, thuế hay
các quy định điều chỉnh thương mại của các thành viên trong nhóm đối với các
nước không phải là thành viên không được hạn chế hơn những gì đã áp dụng trước
khi nhóm được thành lập.
1.1.2 SỰ RA ĐỜI TẤT YẾU CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Bên cạnh những thành công, GATT cũng gặp không ít trở ngại và còn nhiều
lĩnh vực hoạt động chưa có hiệu quả. Thắng lợi của GATT trong việc cắt giảm thuế
quan, cùng một loạt nhân nhượng kinh tế trong những năm 70, 80 đã khiến các
chính phủ đưa ra các hình thức bảo hộ khác như tự nguyện hạn chế xuất khẩu, trợ
cấp sản xuất, trợ cấp xuất khẩu, tăng cường các biện pháp kiểm dịch, nâng cao tiêu
chuẩn hàng hoá nhập khẩu
Xu hướng quốc tế hoá đầu tư quốc tế và trao đổi dịch vụ ngày càng tăng
đang là mối quan tâm lớn của nhiều nước và đồng thời liên quan chặt chẽ đến sự
gia tăng liên tục của thương mại hàng hoá thế giới thì lại không được GATT điều
chỉnh.
Thậm chí ở một số lĩnh vực tuy đã được đưa ra xem xét nhưng còn nhiều lỗ
hổng đặc biệt là nông nghiệp và dệt may. Thể chế của GATT và hệ thống giải

quyết tranh chấp cũng bị một số nước thành viên chỉ trích .
GATT đứng trước thách thức mới khi thương mại thế giới trở nên phức tạp
hơn nhiều so với những năm 1940. Chưa bao giờ tính chất quốc tế của nền kinh tế
thế giới được thể hiện rõ nét như ngày nay. Quá trình phân công lao động quốc tế
được nâng cao và có ảnh hưởng rộng khắp, dẫn đến sự bùng nổ của hoạt động
thương mại quốc tế, dưới nhiều sắc thái đa dạng. Cùng với thương mại là vận tải,
thanh toán, đầu tư, du lịch, viễn thông quốc tế tăng trưởng với tốc độ chóng mặt.
Thực tế nêu trên đã dẫn đến một đòi hỏi tất yếu là phải cải cách GATT để có
một cơ chế mạnh hơn điều tiết thương mại thế giới, tăng cường và mở rộng hệ
thống đa biên này. Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, vòng đàm phán Urugoay
mở ra với một trong những kết quả quan trọng là Tuyên bố MaraKesh do 104 nước
ký ngày 15/4/1994 tại MaraKesh (Marốc), có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, quy định
thành lập Tổ chức Thương mại Thế giớí để thay thế GATT.
Có thể nói Tổ chức Thương mại Thế giới là hiện thân cho kết quả của vòng
đàm phán Urugoay và là sự kế thừa của GATT nhưng chặt chẽ hơn về tổ chức,
ràng buộc hơn về phạm vi, mức độ và khối lượng thương mại được điều chỉnh.
Với thể chế tương đối lỏng lẻo của GATT, các nước thành viên có thể lựa
chọn một số hiệp định trong một vòng thương lượng, thực hiện nghĩa vụ được
hưởng quyền lợi do hiệp định đó đem lại. Nhưng đối với Tổ chức Thương mại Thế
giới tất cả các nước thành viên phải chấp nhận và thực hiện tất cả các hiệp định đã
được thoả thuận trong vòng đàm phán Urugoay trừ hệ thống các hiệp định thương
mại đa phương. Về phương diện pháp lý, Tổ chức Thương mại Thế giới là một tổ
chức quốc tế, như các tổ chức quốc tế khác, quyết định của nó có tính chất ràng
buộc đối với các nước thành viên. Còn GATT là một hiệp định nêu những nguyên
tắc chung đã được thoả thuận cụ thể. Nói cách khác, GATT dựa trên cơ sở Ad- hoc
gồm các vòng thương lượng hơn là một cơ chế thường trực. Do vậy, WTO có thể
thúc đẩy các nước thực hiện nghĩa vụ hiệu quả hơn.
GATT chủ yếu chỉ điều chỉnh thương mại hữu hình còn WTO đảm nhận
trách nhiệm lớn hơn, bắt đầu quá trình điều chỉnh tự do hoá thương mại, dịch vụ
quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại và các biện pháp đầu tư liên quan

đến thương mại. Đây là đòi hỏi cấp bách vì thực tế những lĩnh vực này ngày càng
trở nên quan trọng hơn trong cơ cấu thương mại quốc tế, đặc biệt đối với các nước
phát triển tỷ trọng này thường chiếm khoảng 65 - 70% thu nhập quốc dân.
Thông qua cơ chế xem xét định kỳ chính sách thương mại của các nước
thành viên WTO sẽ đưa hệ thống chính sách kinh tế, thương mại của các nước
thành viên vào một thể hài hoà, thống nhất nâng cao tính trong sáng, rõ ràng và sự
hiểu biết lẫn nhau trong môi trường mậu dịch toàn cầu.
Điểm mới nữa là WTO sẽ phối hợp nhiều hơn, chặt chẽ hơn với Liên hợp
quốc, Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế gắn kết các vấn đề thương mại với
tài chính, tiền tệ quốc tế, tạo điều kiện cho việc phát triển toàn diện quan hệ kinh tế
quốc tế.
Sau hơn 14 năm kể từ ngày thành lập, GATT mới có trên 23 nước thành
viên. Sau gần 46 năm hoạt động, Tổ chức này mới có 129 nước tham gia, chiếm
trên 90% thương mại quốc tế. Nhưng Tổ chức Thương mại Thế giới thì chỉ 6 tháng
sau khi thành lập đã có hơn 132 nước gia nhập. Theo dự tính trong vòng 3 năm tới
số thành viên sẽ lên tới 145 nước chiếm gần 100% giá trị mậu dịch thế giới.
1

Trước đây trong cơ chế của GATT, các nước "lớn" thường ngăn cản hay trì
hoãn việc thi hành các quyết định của Ủy ban giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế khi chúng không có lợi cho họ. Nhưng đối với WTO, các quy định về giải
quyết tranh chấp thương mại chặt chẽ, mạnh mẽ hơn nên các nước có tiềm lực
mạnh cũng có ít khả năng trì hoãn việc khám xét và thi hành quyết định liên quan
đến tranh chấp thương mại.
1.2. GIỚI THIỆU CHUNG WTO
1.2.1 CÁC CHỨC NĂNG NGUYÊN TẮC CHỦ ĐẠO TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Có cùng mục tiêu chung với GATT trước đây là thiết lập và củng cố môi
trường thương mại tự do, lành mạnh trên toàn thế giới nên Tổ chức Thương mại
Thế giới cũng có các nguyên tắc cơ bản giống với Hiệp định chung về thuế quan

và thương mại trước kia , đó là:
+ Không phân biệt đốỉ xử.
+ Bảo hộ bằng công cụ thuế.
+ Khuyến khích cạnh tranh công bằng.
+ Tạo lập cơ sở ổn định cho thương mại thế giới.
+ Quyền" khước từ" và khả năng có hành động cấp thiết.
+ Quan hệ "Có đi, có lại" .
+ Ưu tiên cho các nước phát triển.
Với tư cách là tổ chức thương mại lớn nhất từ trước đến nay, kế thừa và
được tăng cường khả năng hơn GATT, WTO đảm nhận các chức năng chính sau
đây:
+ Quản lý và giám sát việc thực thi các hiệp định thương mại đa biên.
+ Giải quyết các tranh chấp thương mại.
+ Hợp tác cùng các tổ chức quốc tế khác tham gia vào việc hoạch định chính
sách kinh tế toàn cầu.
1.2.2 BỘ MÁY TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Để thực thi đầy đủ, kịp thời cảc trọng trách nêu trên, WTO có một hệ thống
pháp lý bao trùm lên Hiệp định GATT 1947, đồng thời với 12 Hiệp định kèm theo
về thương mại hàng hoá các lĩnh vực riêng, Tổ chức thương mại thế giới mặc
nhiên công nhận giá trị pháp lý của khoảng 2000 hiệp định và thoả thuận đã được
thông qua trong thời kỳ GATT tồn tại.
Trong cơ cấu của WTO cơ quan cao nhất là Hội nghị cấp Bộ trưởng, bao
gồm đại diện của cả các nước thành viên, được triệu tập ít nhất 2 năm 1 lần. Hội
nghị này quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến mọi hiệp định thương mại đa
biên.
Tuy nhiên công việc hàng ngày của WTO sẽ do một số cơ quan chức năng
giải quyết; chủ yếu là Đại hội đồng bao gồm tất cả các thành viên của WTO, có
nhiệm vụ làm báo cáo cho Hội nghị cấp Bộ trưởng giải quyết các công việc thường
nhật, Đại hội đồng nhóm thành 2 Ủy ban: Ủy ban đánh giá chính sách thương mại

để đánh giá thường xuyên các chính sách thương mại của từng nước thành viên và
Ủy ban giải quyết các tranh chấp để giám sát các thủ tục giải quyết tranh chấp.
Đại hội đồng cũng chia sẻ trách nhiệm thành 3 Hội đồng:
- Hội đồng về thương mại hàng hoá
- Hội đồng về thương mại dịch vụ
- Hội đồng về sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại
Trực thuộc mỗi Hội đồng trên có các cơ quan chuyên môn.
Ba ủy ban khác được Hội nghị Bộ trưởng thành lập và có nhiệm vụ báo cáo
lên Đại hội đồng, đó là:
- Ủy ban về thương mại và phát triển.
- Ủy ban về cán cân thanh toán.
- Ủy ban về ngân sách.
Mỗi hiệp định trong 4 hiệp định đa phương của WTO có các cơ quan quản
lý riêng của mình với nhiệm vụ báo cáo lên Đại hội đồng.
Giúp việc cho bộ máy nêu trên là Ban thư ký. Ban này có trụ sở tại Geneva,
Thụy Sỹ, nơi đặt trụ sở chính của WTO. Ban thư ký có khoảng 450 nhân viên,
đứng đầu là Tổng giám đốc được chọn theo nguyên tắc nhất trí. Dưới Tổng giám
đốc có Phó Tổng giám đốc (4 người ), Giám đốc các Ban chuyên trách do Tổng
giám đốc đề nghị và được Đại hội đồng thông qua.
Ngân sách của WTO vào khoảng 150 triệu USD (năm 2001) do các nước
thành viên đóng góp theo tỷ lệ nhất định trong tổng giá trị hoạt động thương mại
của chính mình. Một phần ngân sách của WTO được dùng để duy trì hoạt động của
trung tâm thương mại Quốc tế.
Chúng ta có thể thấy rõ hơn được bộ máy tổ chức và cơ chế hoạt động của tổ
chức thông qua sơ đồ sau :
1.2.3 NHỮNG THÀNH TỰU CHÍNH TRONG QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG
CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Tổ chức Thương mại Thế giới đã chính thức đi vào hoạt động được hơn 10
năm, trên cơ sở kế thừa và mở rộng về nhiều mặt Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại trước kia trong 10 năm hoạt động với tư cách của một tổ chức thương

mại đa biên lớn nhất thế giới, WTO đã làm được nhiều việc không nhỏ, tỏ rõ sự
thích ứng của mình trong vị trí mới. Thậm chí nhiều người đã coi Tổ chức này như
một liên hợp quốc về kinh tế.
Sau một năm chuyển đổi cùng tồn tại với GATT và một thời gian hoạt động
độc lập, đến nay WTO đã đứng vững và bắt đầu đi vào những năm tiếp theo một
cách vững chắc mà không để xẩy ra một biến động lớn. Đây là kết quả quan trọng
nhất bởi lẽ 150 nước thành viên, chiếm tới hơn 90% giá trị thương mại của một thế
giới hiện đại hết sức sôi động thì việc duy trì việc hoạt động kinh doanh quốc tế
không phải là dễ. Không những thế, hai năm đầu tiên của WTO còn được ghi nhận
từng mức tăng giá trị mậu dịch thế giới tới 100 tỷ USD cũng cho thấy phần nào kết
quả hoạt động của tổ chức này.
Về các nội dung hoạt động cụ thể, WTO đã kế thừa xứng đáng GATT thậm
chí còn hiệu quả hơn trong một số lĩnh vực. Trước hết phải kể đến việc giải quyết
các tranh chấp thương mại. Ngay từ khi thành lập các bên ký kết đã đạt nhiều hy
vọng vào chức năng giải quyết tranh chấp của WTO sau khi được bổ sung nhiều
quyền hạn cũng như thay đổi về cơ chế so với thời kỳ kém hiệu quả của GATT
trước kia. Nếu như trước thời GATT các cường quốc kinh tế thường gây áp lực đối
với việc giải quyết tranh chấp hay cố tình trì hoãn việc thi hành phán quyết thì với
các quy định mới tình trạng đó sẽ khó tái diễn. Thực tế là chỉ trong 3 năm WTO đã
thụ lý hơn 60 hồ sơ tranh chấp. Một đặc điểm về các bên tham gia tranh chấp là
bên cạnh những"gương mặt" quen thuộc như Mỹ, EU, Nhật, Canada, các nước
đang phát triển bắt đầu xuất hiện nhiều hơn, tiêu biểu như Brasil, Ấn Độ, Mehico,
Singpore, Thái Lan. Điều này cho thấy vị trí ngày càng quan trọng của các nền
kinh tế đang phát triển nói chung trong kinh tế thế giới. Và phải chăng cơ chế giải
quyết hiệu quả của WTO đã tạo cơ hội để những "kẻ yếu" này lên tiếng bảo vệ
quyền lợi cho mình ? Thành công còn thể hiện ở sự đa dạng của các vấn đề tranh
chấp, từ việc áp dụng biện pháp kiểm dịch động thực vật đến các thủ tục cấp giấy
phép hay hàng rào kỹ thuật đối với sản phẩm nhập khẩu hoặc bán phá giá hàng
hoá, trợ cấp hàng nông sản, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
Nếu giải quyết tranh chấp là nội dung nóng hổi thì việc điều tiết thương mại

hàng hoá lại là nội dung chính, truyền thống từ GATT, nay vẫn chiếm vị trí quan
trọng trong hoạt động của WTO. Hai năm qua các Ủy ban của WTO đã giám sát
việc thực hiện các Hiệp định của vòng đàm phán Urugoay, soạn thảo và đệ trình
hàng loạt văn bản mới liên quan để củng cố môi trường pháp lý cho thương mại
hữu hình trên thế giới, đặc biệt là các văn bản liên quan đến các hạn chế số lượng,
và các biện pháp phi thuế quan. Kể từ mười năm lại đây WTO cũng bắt đầu đưa
dần 2 lĩnh vực "nhạy cảm" vẫn từng nằm ngoài khuôn khổ các nguyên tắc chung
của GATT trước đây và hệ thống chung đó là hàng dệt may và nông nghiệp. Tuy là
những vấn đề phức tạp có tác động lớn đến quyền lợi sống còn của nhiều nước lại
được điều chỉnh bằng các hiệp định song phương trong thời gian dài (từ vòng đàm
phán Tokyo, 1974) nhưng việc hợp nhất các lĩnh vực này dưới sự điều chỉnh của
WTO đã được các nước hưởng ứng.
Về các thành công của WTO không thể không nói đến lĩnh vực lần đầu tiên
được điều chỉnh một cánh chính thức là dịch vụ, với hai thị trường nổi cộm là tài
chính và viễn thông. Thắng lợi rõ nét nhất là thoả thuận đạt được về thị trường
thông tin viễn thông quốc tế ký hồi 2/1997 và việc Nhật Bản mở cửa thị trường bảo
hiểm trị giá tới gần 400 tỷ USD, chấm dứt tình trạng phân biệt đối với nguyên tắc
cơ bản của GATT cũng như WTO lâu nay. Các thị trường hàng hải, dịch vụ
chuyên ngành cũng được xúc tiến ở các cấp độ khác nhau.
Ngoài các lĩnh vực quan trọng nêu trên WTO còn triển khai đồng thời nhiều
nội dung khác liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ các biện pháp tự vệ, các hoạt
động đầu tư liên quan đến thương mại, bốn hiệp định đa phương, công tác đào tạo,
trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên WTO cũng đã tạo được mối quan hệ
mới với các tổ chức quốc tế lớn như Liên hợp quốc, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân
hàng thế giới, tạo ra cơ chế hành động thống nhất trong điều hành kinh tế thế giới,
đồng thời khẳng định tính tổ chức lâu dài của WTO so với tính tạm thời của GATT
trước kia.
Triển khai được nhiều công tác và thu được kết quả bước đầu song WTO
còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục giải quyết. Ngay như công tác giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế, dù đã cải tiến nhiều nhưng một số trường hợp phức tạp

thì Ủy ban giải quyết tranh chấp vẫn tỏ ra chậm chạp, như tranh chấp giữa Mỹ và
Nhật trong thị trường phim ảnh, hay giữa Tây Ban Nha và Canada về đánh bắt cá
hoặc về luật Helms-Berton của Mỹ chống Cuba. Trong điều kiện mới, Ủy ban giải
quyết tranh chấp bắt đầu có tình trạng quá tải, ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả
hoạt động.
Lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ thì chưa tiến được bao nhiêu, trong khi khắp
nơi người ta phàn nàn về nạn xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tưởng chừng có thể
dẫn tới các cuộc chiến tranh thương mại quy mô thế giới như trường hợp của
Trung Quốc và Mỹ, hay Mỹ và Nhật.
Tuy đã đầu tư khá nhiều công sức nhưng có lẽ hồ sơ ít khả quan nhất của
WTO là quan hệ thương mại - phát triển và thương mại môi trường, có thể thấy
một số nước thành viên của WTO là các nước đang phát triển nhưng vị trí của họ
vẫn chưa cải thiện là bao, trừ một số nước đang phát triển lớn như Trung Quốc, Ấn
Độ, Mehico, Brasil. Phần lớn còn lại, nhất là các nước Châu Phi tham gia rất hạn
chế vào đời sống kinh tế thế giới so với tiềm năng của họ, hay có tham gia thì phải
chịu nhiều thiệt thòi. Tương tự, vấn đề môi trường được đề cập nhiều trong các
vấn đề hội nghị toàn cầu cũng như khu vực, nhưng vẫn còn thiếu nhiều biện pháp
thực tế hữu hiệu trong khi hàng hoá càng được sản xuất dồi dào bao nhiêu thì
lượng chất thải công nghiệp, chất thải tiêu dùng càng lớn, tài nguyên thiên nhiên bị
khai thác càng nhiều bấy nhiêu.
Thời gian tới WTO sẽ còn giải quyết không ít nhiệm vụ khó khăn. Cơ bản
nhất là tiếp tục thực thi các Hiệp định của vòng đàm phán Urugoay, các tuyên bố
của Hội nghị Bộ trưởng tại Singapore, các quyết định và giải thích kèm theo. Bàn
bạc và thống nhất về tương lai các nội dung còn chưa triệt để như thương mại và
đầu tư, chính sách cạnh tranh, nông nghiệp dệt may Vấn đề thương mại và môi
trường còn tiếp tục phải thảo luận, vì trong khi chưa có một hệ thống tiêu chuẩn
chung về môi trường có liên quan về thương mại thì các nước vẫn còn dùng vấn đề
này như một biện pháp phi thuế quan để bảo hộ hay phân biệt đối xử trong buôn
bán.
CHƯƠNG II

TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM
2.1. BỐI CẢNH VÀ PHƯƠNG THỨC GIA NHẬP WTO
Để trở thành thành viên của WTO, một nước hoặc vùng lãnh thổ phải tuân
theo các thủ tục công khai, rõ ràng và quá trình gia nhập của Việt Nam cũng đã
được thực hiện theo các thủ tục này. Các điều kiện gia nhập WTO phải được thỏa
thuận giữa các nước gia nhập và các thành viên WTO ( Điều XII ). Tiến trình gia
nhập thường phải thông qua một số bước, trong đó đàm phán gia nhập là giai đoạn
thực chất cuối cùng. Tóm lại các thủ tục liên quan là chính phủ thông báo mong
muốn trở thành thành viên WTO của mình thông qua việc gửi một bức thư thông
báo cho Tổng giám đốc ( trên thực tế nước xin gia nhập sẽ phải yêu cầu trở thành
quan sát viên trước khi gửi thư ). Sau khi nhận thư, tổng giám đốc WTO sẽ thành
lập một Ban công tác bao gồm các thành viên WTO có quan tâm để xem xét đơn
xin gia nhập. Chính phủ nước xin gia nhập sẽ phải đệ trình một bản Bị vong lục
mô tả cơ chế ngoại thương của mình. Trên cơ sở tài liệu này, Ban công tác sẽ thảo
luận và làm rõ cơ chế thương mại của nước xin gia nhập, thường là thông qua các
câu hỏi cụ thể dựa trên bản Bị vong lục cũng như kinh nghiệm thực tế của các
doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh ( trong quá trình gia nhập, Việt Nam đã nhận
được khoảng 3500 câu hỏi của các Thành viên ban công tác về việc Việt Nam gia
nhập WTO ). Những câu hỏi đó tập trung cụ thể xem cơ chế thương mại của nước
xin gia nhập có phù hợp với quy tắc của WTO hay không. Các quy định và thực
tiễn không phù hợp với WTO phải được điều chỉnh hoặc tuân theo các điều khoản
được đàm phán cụ thể .
Các nước đang gia nhập WTO phải chấp nhận một gói cam kết chung, được
gọi là “Cam kết cả gói” và thỏa thuận được với tất cả các Thành viên WTO có yêu
cầu nhượng bộ bổ xung để họ ủng hộ nước gia nhập. Yêu cầu thường được thỏa
thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương diễn ra trước khi gia nhập. Các
cuộc đàm phán gia nhập WTO được tiến hành giữa nước xin gia nhập và tất cả
thành viên WTO muốn tăng cường tiếp cận thị trường nước xin gia nhập. Trong
tiến trình gia nhập, nước xin gia nhập đàm phán các biểu nhượng bộ về thuế quan
và các cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ với các nước có quan tâm.

Mỗi thành viên WTO có quyền đặt ra yêu cầu cụ thể về thuế quan, các biện
pháp phi thuế và quy định ảnh hưởng tới thương mại dịch vụ với nước xin gia
nhập. Tuy nhiên, chỉ một nhóm nhỏ các thành viên WTO sử dụng công cụ này, hầu
hết các thành viên khác không đóng vai trò gì hoặc tự xác định sẽ tham gia hạn chế
vào các cuộc họp của Ban công tác. Không phải tất cả các khía cạnh của tiến trình
gia nhập WTO đều hoàn toàn minh bạch. Đặc biệt, thường có rất ít thông tin về các
cuộc đàm phán song phương được đề cập ở trên, trong các cuộc đàm phán này, các
vấn đề phi kinh tế cũng có thể được xem xét, Ví dụ như trong trường hợp các cuộc
đàm phán song phương Việt Nam – Hoa Kỳ được thảo luận dưới đây.
Khi các cuộc đàm phán song phương mở cửa thị trường và đàm phán đa
phương kết thúc, Báo cáo của Ban công tác được chuyển cho Đại hội đồng. Dự
thảo quyết định và nghị định thư gia nhập cũng như biểu thuế quan và biểu cam kết
cụ thể về dịch vụ đã được thỏa thuận sẽ được bổ xung vào Báo cáo. Lời văn của
Hiệp định WTO quy định rằng, muốn trở thành Thành viên phải có sự chấp thuận
của ít nhất 2/3 số thành viên WTO. Tuy nhiên, quy tắc bỏ phiều này chỉ mang tính
chất lí thuyết, do đó vào năm 1995 các Thành viên WTO đã quyết định không áp
dụng các điều khoản cho phép bỏ phiếu về việc gia nhập hoặc yêu cầu miễn trừ mà
thay vào đó phải tiếp tục áp dụng nguyên tắc đồng thuận (WT/L/93). Nguyên tắc
đồng thuận được áp dụng trong việc quyết định trường hợp gia nhập của Việt Nam
cũng như hầu hết các vấn đề khác của WTO. Nguyên tắc này cho phép một nước
dù có khối lượng thương mại rất nhỏ cũng có thể cản trở các thỏa thuận của WTO.
Đồng thuận không có nghĩa là tất cả các nước phải đồng ý mà là không có ai phản
đối.
Sự ra đời của WTO đã khiến cho các điều kiện gia nhập ngày càng chặt chẽ
hơn giai đoạn GATT trước đây và các cuộc đàm phán của Việt Nam đã bị ảnh
hưởng rất rõ bưởi xu hướng này. Các nước xin gia nhập WTO bị yêu cầu phải rằng
buộc biểu thuế của họ ở mức bằng hoặc xấp xỉ mức thuế áp dụng. Hơn nữa, các
nước mới gia nhập phải tự do hóa việc tiếp cận thị trường nội địa của họ nhiều hơn
đáng kể so với giai đoạn trước năm 1995. Có một số lý do giải thích cho việc tại
sao tiến trình gia nhập WTO lại “phức tạp” hơn trước đây.

Trước hết, phạm vi của WTO đã mở rộng hơn nhiều so với GATT. Bên cạnh
lĩnh vực truyền thống về GATT là thương mại hành hóa, WTO điều chỉnh cả
thương mại dịch vụ, các vấn đề về sở hữu trí tuệ và các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại.
Thứ hai, có thể thấy sự thay đổi quan điểm đáng kể của các cường quốc
thương mại, đặc biệt là Hoa Kỳ. Trước khi Liên bang Xô Viết sụp đổ vào cuối
những năm 80 của thế kỷ trước, Washington sẵn sàng chấp nhận các chính sách
thương mại có thể tổn hại tới các lợi ích thương mại của mình để đổi lấy các ưu
tiên trong chính sách đối ngoại (Kostecki, 1979). Từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước,
việc theo đuối các quyền lợi kinh tế quốc gia trở nên quan trọng hơn, cho thấy đã
có nhiều quan tâm hơn tới các thỏa thuận thương mại cụ thể (VanGrasstek, 1995,
Naray, 2000).
Thứ ba, các cường quốc thương mại chính ngày càng coi việc gia nhập
WTO là một bước đi lớn của nước xin gia nhập nhằm hội nhập vào nên kinh tế
toàn cầu. Việc trở thành Thành viên WTO là một cách để khuyến khích nước gia
nhập xóa bỏ các chính sách kinh tế mang tính can thiệp, thay vào đó là việc áp
dụng các cách tiếp cận ít mang tính bảo hộ và theo định hướng thị trường nhiều
hơn. Việc này giải thích tại sao tiến trình gia nhập sẽ hiệu quả nhất khi tiến hành
song song với một chương trình cải cách trong nước. Khía cạnh này trở nên đặc
biệt quan trọng trong các cuộc đàm phán gia nhập của những nước như Trung
Quốc, Nga hoặc Việt Nam, những nước mà khối lượng thương mại hiện tại hoặc
trong tương lai rất có thể sẽ ảnh hưởng lớn tới hệ thống thương mại trong các thập
kỷ tới.
Cuối cùng, Và cũng liên quan tới lý do trên, rõ ràng là các Thành viên WTO
có su hướng muốn các nước gia nhập đưa ra các cam kết cao hơn các quy định ghi
trong lời văn của các Hiệp định WTO hay còn gọi là hiện tượng “WTO cộng”. Ví
dụ, một nền kinh tế đang chuyển đổi đã bị yêu cầu phải đưa ra các cam kết và báo
cáo về tiến trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước trong khi đó GATT/WTO
hoàn toàn không quy định hì về vấn đề này (Kostecki, 1979, Bernier, 1982). Một ví
dụ của yêu cầu này là hiện nay vấn đề sở hữu ngành năng lượng vẫn là nội dung

cản trở tiến trình gia nhập WTO của Nga, ngay cả khi Việt Nam đã gia nhập tổ
chức này. Việt Nam cũng bị yêu cầu phải đưa ra các cam kết liên quan tới cổ phần
hóa trong tiến trình gia nhập của mình.
Vấn đề cốt lõi trong các cuộc đàm phán gia nhập nằm ở chỗ nước muốn gia
nhập là bên “bị động”. Điều này có nghĩa nước này có nghĩa vụ phải đàm phán với
các Thành viên hiện tại của WTO và thông thường có rất ít quyền trong quá trình
đàm phán này. Nói cách khác, tiến trình gia nhập mang tính bất công bằng, theo
nghĩa nước gia nhập không thể đưa ra các yêu cầu về quyền lợi bổ xung vượt quá
những gì đang được quy định trong các hiệp định hiện tại của WTO trong khi các
thành viên WTO có thể - và thường thực hiện – đưa ra các yêu cầu cao hơn mức độ
hiện tại (Hoekaman, Kostecki, 2001). Trong một số trường hợp, các nước xin gia
nhập bị yêu cầu phải thực hiện các nghĩa vụ thậm chí cao hơn mức độ cam kết của
các thành viên cam kết hiện tại. Một ví dụ tiêu biểu là mức độ cam kết về thuế,
trong khi quy tắc phổ biến hiện nay là mức độ cam kết phải toàn diện và thuế ràng
buộc không cao hơn hai lần mức thuế áp dụng bình quân gia quyền theo khối
lượng nhập khẩu áp dụng tại các nước OECD (khoảng 10%). Trong khi mức độ
cam kết bình quân của các Thành viên đang phát triển là khoảng 20% đối với các
dòng thuế cam kết ( rất nhiều dòng thuế chưa cam kết ). Các ví dụ khác là xóa bỏ
trợ cấp hàng nông sản trong khi rất nhiều Thành viên phát triển của WTO, kể cả
EU, Hoa Kỳ, vẫn duy trì các khoản trợ cấp này, ngoài ra còn có cả các cam kết
trong Vòng đàm phán Uruguay cũng như việc yêu cầu thực hiện đày đủ các cải
cách cần thiết (thay vì cách chuyển đổi một cách từ từ) trở thành một điều kiện của
tiến trình gia nhập.
2.2. TIẾN TRÌNH VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung trong đó có nhà nước đóng vai trò chủ đạo cho tới tận giữa những năm 80
của thế kỷ trước. Kể từ năm 1986, dưới chính sách “đổi mới”, tăng cường định
hướng thị trường và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu đã trở thành mục tiêu chính
của Việt Nam. Tiến trình cải cách tập trung vào việc tái cơ cấu các ngành công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong nước, tổ chức lại hệ thống hành chính và

thiết lập các mối quan hệ kinh tế với thế giới. Nhằm tăng cường các mối quan hệ
kinh tế với khu vực, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn hợp tác Á – ÂU và Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái
Bình Dương (APEC). Việt Nam cũng duy trì các mối quan hệ thương mại chặt chẽ
với Trung Quốc, được điều chỉnh theo Hiệp định Thương mại năm 1991 và các
Hiệp ước hợp tác kinh tế khác. Tham gia vào các thể chế khu vực nói trên tạo ra
bước hội nhập đầu tiên của Việt Nam vào hệ thống thương mại để chuẩn bị cho
việc trở thành Thành viên WTO.
Các mối quan hệ của Việt Nam với WTO được bắt đầu vào năm 1995 với việc
nộp yêu cầu gia nhập chính thức. Vào tháng 1 năm 1995, Đại Hội đồng của WTO
đã thành lập Ban công tác để xem xét đơn xin gia nhập của Việt Nam. Ban công
tác đã tiến hành 14 cuộc họp trong giai đoạn gần 12 năm – một quá trình đàm phán
gia nhập khá dài. Các thành viên của Ban công tác bao gồm Áchentina, Úc, Braxin,
Brunây, Bungari, Campuchia, Canađa, Chilê, Trung Quốc, Côlômbia, Croatia,
Cuba, Cộng Hòa Đôminíc, Ai cập, En Sanvađo, Liên minh châu âu và các thành
viên của mình, Honđuras, Hồng Kông, Ixơlen, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Cộng hòa Kyrgyzxtanxtan, Malaysia, Mêhicô, Marốc, Myanma, Niu Dilân,
Na Uy, Pakistan, Panama, Paraguay, Philíppin, Rumani, Singapo, Sri Lanka, Thụy
sĩ, Đài Loan, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ, và Uruguay (www.wto.org). Việt
Nam đã chuẩn bị bản Bị vong lục về chế độ ngoại thương của mình vào năm 1996
nhưng phải tới tận năm 1998 thì kế hoạch cho các cuộc định kỳ của Ban công tác
mới được đưa ra. Các cuộc đàm phán diễn ra chậm chạp do các lo ngại về chính trị,
nhu cầu cần có những thay đổi hệ thống quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và
các Thành viên WTO đặt ra yêu cầu Việt Nam phải đưa ra các nhượng bộ lớn.
Các mốc lớn trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam
 1994, Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam và thiết lập
quan hệ ngoại giao bình thường vào năm 1995. Điều này đã thúc đẩy việc mở
cửa nền kinh tế Việt Nam.
 1995, Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO vào tháng 1 năm 1995.
 1996, Bắt đầu cuộc gặp thường kỳ của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập

WTO.
 1998, Các cơ quan quản lý Việt Nam quyết định đẩy nhanh tiến trình gia nhập
WTO.
 2001, Phiên đàm phán đa phương lần thứ 9 của WTO/GATT – vòng đàm phán
Đôha vì sự phát triển – được khởi động vào tháng 11 năm 2001.
 2002, Việt Nam đưa ra bản chào đầu tiên đối với hàng hóa và dịch vụ.
 2004, Việt Nam đưa ra bản chào sửa đổi tham vọng hơn về tiếp cận thị trường
vào tháng 6 năm 2004 tại phiên họp lần thứ 8 của Ban công tác, Bản chào này
thể hiện một bước đột phá trong đàm phán gia nhập WTO.
 2004, Bắt đầu các cuộc đàm phán song phương với các Thành viên WTO. Một
thỏa thuận đột phá được ký kết với Liên minh châu Âu.
 2005, Ký thỏa thuận với Trung Quốc về việc Việt Nam gia nhập WTO.
 2006, Hoa kỳ và Việt Nam ký Hiệp định song phương về các cam kết gia nhập
WTO của Việt Nam, đây là Hiệp định song phương cuối cùng và dường như là
khó khăn nhất trong số 28 Hiệp định song phương với các Thành viên WTO.
 2002 – 2006, Các cơ quan quản lý Việt Nam đã rà soát sâu rộng hầu hết luật và
quy định của Việt Nam trong các lĩnh vực liên quan tới WTO cũng như các lĩnh
vực khác và đã đưa kế hoạch hành động liên quan tới WTO vào kế hoạch phát
triển lăm năm 2006 – 2010 (SRV, 2006).
 2007, Việt Nam trở thành Thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế
giới vào ngày 11 tháng 1 năm 2007.
 2007, Việt Nam đưa ra các chương trình hành động thực thi các cam kết gia
nhập WTO.
Vào năm 2002, Việt Nam đưa ra bản chào đầu tiên về mở cửa thị trường hàng
hóa và dịch vụ, sau đó Bản chào sửa đổi tháng 7 năm 2004 mang tính tham vọng
hơn. Cả hai bản chào đều được các Thành viên WTO hoan nghênh. Sau một số
vòng đàm phán, các đối tác thương mại của Việt Nam đồng ý bắt đầu dự thảo Báo
cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO và tiến hành các cuộc đàm
phán song phương cần thiết để đạt được thỏa thuận gia nhập giữa các bên.
Việt Nam tiến hành các cuộc đàm phán song phương với 28 Thành viên của

WTO, bao gồm cả Liên minh châu Âu (tính là một thành viên mặc dù Liên mình
châu Âu này đại diện cho 25 nước), Hoa Kỳ và Trung Quốc. Thỏa thuận với Hoa
Kỳ vào tháng 5 năm 2006 là thỏa thuận song phương cuối cùng và có lẽ là thỏa
thuận song phương khó khăn nhất mà Việt Nam đã đàm phán. Việc ký kết thỏa
thuận này cho phép Tổng thống Hoa kỳ có thẩm quyền cần thiết để giành cho Việt
Nam quy chế “quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn” (PNTR) – Đây là điều
kiện tiên quyết để Hoa kỳ công nhận Việt Nam là một Thành viên WTO.
Trọng tâm cải cách kinh tế và chính sách phát triển dựa vào xuất khẩu của Việt
Nam đã khiến cho quá trình gia nhập, vốn kéo dài và rất phức tạp trở nên đơn giản
hơn. Việc ký Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA) và tham gia
Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) rất hữu ích trong bối cảnh này, do các
thỏa thuận này đã khởi động quá trình tự do hóa và tiến trình “phi điều tiết hóa”
(US Aid, 2007). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng các cuộc đàm phán mở
cửa thị trường là dễ dàng. Các bên đã phải mất rất nhiều thời gian và đàm phán
diễn ra rất căng thẳng trước khi đạt được thỏa thuận gia nhập. Bộ trưởng Trương
Đình Tuyển và đoàn đàm phán Việt Nam do Thứ trưởng Thương Mại Lương Văn
Tự đã tập trung toàn bộ sức lực vào các cuộc đàm phán gia nhập, thường phải làm
việc thâu đêm, đặc biệt trong giai đoạn cuối cùng của cuộc đàm phán gia nhập.
Quyết tâm trở thành Thành viên WTO của Việt Nam có thể đã được thúc đẩy
bởi kinh nghiệm thành công của các nền kinh tế hướng về xuất khẩu tại Đông Á,
những thay đổi hệ thống tại các nước thuộc Liên bang Xô Viết cũ và sự quan tâm
của Trung Quốc đối với tổ chức này. Có thể một động lực nữa là quyết tâm của
đảng cộng sản Việt Nam trong việc tạo ra việc làm cho hơn một triệu lao động mới
gia nhập thị trường lao động

×