Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tìm hiểu về WTO và những cơ hội, thách thức đối với ngành thương mại dịch vụ của Việt Nam khi hội nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.61 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong mấy thập kỉ gần đây, khu vực dịch vụ đã phát triển rất mạnh mẽ, và đóng
góp ngày càng lớn cho các nền kinh tế. Ở các nước phát triển giá trị ngành dịch vụ
chiếm tới 70 – 80% GDP, còn con số trung bình của các quốc gia đang phát triển là
gần 58% tổng sản lượng. Trong khi đó ngành dịch vụ của Việt Nam, dù đã có bước
tiến vượt bậc những năm vừa qua, hiện chỉ đạt khoảng 40% GDP.
Nhìn từ các nền kinh tế phát triển và đang nổi, có thể thấy dịch vụ là một lĩnh
vực không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của một quốc gia mà
Việt Nam là một thực thể trong nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam đã là thành viên chính thức Tổ chức thương mại quốc tế – WTO.
Nhưng trong khi đang lỗ lực để quay cùng vòng quay chung của thế giới, Việt
Nam lại phải đối mặt với những nguy cơ bị văng khỏi vòng quỹ đạo nếu không có
những bước đi hội nhập thích hợp.
Có thể nói, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đang và sẽ có nhiều cơ hội hơn
nữa để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển các ngành
kinh tế, cải thiện cơ sở hạ tầng và đời sống người dân. Song bên cạnh đó, Việt
Nam cũng sẽ phải đối mặt với rất nhiều thách thức lớn không chỉ cho toàn bộ nền
kinh tế mà còn cho cả từng ngành, từng lĩnh vực nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là
những ngành và lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế trước đây được sự bảo hộ và
trợ cấp của chính phủ Việt Nam như bảo hiểm, vận tải, viễn thông, ngân hàng…
Với mục đích đi sâu tìm hiểu về WTO và những cơ hội, thách thức đối với ngành
thương mại dịch vụ của Việt Nam khi hội nhập WTO, nên em xin chọn đề tài:
“Tìm hiểu về WTO và những cơ hội, thách thức đối với ngành thương mại dịch
vụ của Việt Nam khi hội nhập WTO”.

CHƯƠNG I
TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
1.1. TÍNH TẤT YẾU CỦA SỰ RA ĐỜI TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI
1.1.1 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại - tiền thân của Tổ chức
Thương mại Thế giới


1.1.1.1 Bối cảnh ra đời của GATT
Sau hơn 10 năm chính thức hoạt động, Tổ chức Thương mại Thế giới đã có
những đóng góp bước đầu vào sự phát triển của nền thương mại thế giới và từng
bước tỏ rõ sự thích ứng với vai trò của một cơ quan điều tiết mậu dịch quốc tế. Đạt
được như vậy một phần cũng vì Tổ chức Thương mại Thế giới đã kế thừa và phát
huy các thành quả mà các tổ chức tiền thân của nó là Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại đã tạo được. Do đó, để hiểu sâu hơn về Tổ chức Thương mại Thế
giới không thể không nghiên cứu về GATT.
Nhìn lại lịch sử ta nhận thấy phải đến cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV thị
trường thế giới mới bắt đầu được hình thành rõ nét. Thời gian sau đó cho đến chiến
tranh thế giới lần thứ II mặc dù thị trường thế giới liên tục phát triển song chưa có
Hiệp định thương mại đa biên nào điều chỉnh. Thời gian này, các cường quốc kinh
tế đồng thời cũng là các cường quốc quân sự thường chủ động sử dụng chiến tranh
để phân chia lại thị trường.
Kể từ sau năm 1945, với cục diện thế giới mới và thắng lợi của phe Đồng
minh trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, nước Mỹ có ý đồ thiết lập lại các thể chế
chính trị, kinh tế có lợi cho mình. Đồng thời, nhiều nước khác cũng có nhu cầu xây
dựng các cơ chế mới để điều chỉnh mối quan hệ quốc tế, duy trì hoà bình, ổn định,
tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài. Trong bối cảnh đó, hàng loạt tổ chức lớn
của thế giới được ra đời: Liên hợp quốc (UN) được thành lập; về tiền tệ có Quỹ
tiền tệ Quốc tế ra đời; về tài chính có Ngân hàng thế giới (WB); về thương mại là
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại.
Cụ thể, từ năm 1945, song song với việc chuẩn bị thành lập Tổ chức thương
mại quốc tế (ITO), 23 nước đã tiến hành 123 cuộc thương lượng kéo dài với các nỗ
lực nhằm đơn giản hoá các thủ tục, không ngừng nhằm giảm bớt hàng rào thuế
quan, tạo môi trường thương mại quốc tế tự do. Kết quả ngày 30/10/1947 Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại được ký kết, có hiệu lực từ 1/1/1948. Buổi
đầu thành lập GATT chỉ có 23 nước thành viên nhưng đến cuối năm 1994, tổ chức
này đã quy tụ được 129 nước thành viên và nhiều tổ chức liên chính phủ, chiếm
trên 90% kim ngạch thương mại của thế giới.

1.1.1.2 Các chức năng và nguyên tắc cơ bản của GATT
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại được thành lập nhằm tạo ra
một cơ sở đảm bảo về pháp lý, góp phần phát triển kinh tế, thương mại thế giới với
3 chức năng cơ bản sau:
+ Là một luật lệ kinh tế chung được các bên nhất trí để điều tiết mọi hoạt
động thương mại của các nước tham gia ký kết.
+ Là một diễn đàn thương lượng để thực hiện tự do hoá môi trường kinh
doanh quốc tế, không ngừng tăng cường và hoàn chỉnh các luật lệ mà Hiệp định đã
đề ra.
+ Là một "Toà án" quốc tế để Chính phủ các nước giải quyết tranh chấp
trong phạm vi các nước thành viên .
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại là một văn kiện dài với 4 phần,
38 điều quy định chi tiết nhiều lĩnh vực. Các nguyên tắc chủ đạo trong hoạt động
của GATT bao gồm:
1. Không phân biệt đối xử trong thương mại bằng cách dành cho nhau quy
chế đãi ngộ "Tối huệ quốc".
2. Thiết lập một cơ sở ổn định cho thương mại thế giới thông qua việc
thương lượng và thực hịên nghiêm túc các thoả thuận về thuế.
3. Quyền "Khước từ" và khả năng có hành động cấp thiết, không thực hiện
một số nghĩa vụ trong thời hạn nhất định khi có lý do chính đáng về kinh tế và
thương mại.
4. Bảo hộ mậu dịch bằng công cụ thuế quan là chính. Không tăng cường bảo
hộ, có cơ chế thương lượng hiệu quả để gỡ bỏ dần mọi rào cản thương mại.
5. Khuyến khích việc cạnh tranh công bằng, cho phép đánh thuế đối kháng,
thuế chống bán phá giá, hoặc chống trợ cấp nếu bị thiệt hại do sản phẩm của nước
khác bán phá giá hay trợ cấp gây ra.
6. Quan hệ "có đi có lại" bằng cách yêu cầu lẫn nhau những nhượng bộ
tương tự nhằm khuyến khích mở cửa thị trường.
7. Ưu tiên đặc biệt cho các nước đang phát triển, ví dụ như Hệ thống ưu đãi
phổ cập GSP, các ưu đãi trong việc tiếp cận thị trường, không phải "có đi có lại "

với các nước phát triển.
8. Công nhận các dàn xếp thương mại khu vực và sự hoà nhập chặt chẽ hơn
các nền kinh tế quốc gia thông qua các liên kết khu vực này. Tuy nhiên, thuế hay
các quy định điều chỉnh thương mại của các thành viên trong nhóm đối với các
nước không phải là thành viên không được hạn chế hơn những gì đã áp dụng trước
khi nhóm được thành lập.
1.1.2 SỰ RA ĐỜI TẤT YẾU CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Bên cạnh những thành công, GATT cũng gặp không ít trở ngại và còn nhiều
lĩnh vực hoạt động chưa có hiệu quả. Thắng lợi của GATT trong việc cắt giảm thuế
quan, cùng một loạt nhân nhượng kinh tế trong những năm 70, 80 đã khiến các
chính phủ đưa ra các hình thức bảo hộ khác như tự nguyện hạn chế xuất khẩu, trợ
cấp sản xuất, trợ cấp xuất khẩu, tăng cường các biện pháp kiểm dịch, nâng cao tiêu
chuẩn hàng hoá nhập khẩu...
Xu hướng quốc tế hoá đầu tư quốc tế và trao đổi dịch vụ ngày càng tăng
đang là mối quan tâm lớn của nhiều nước và đồng thời liên quan chặt chẽ đến sự
gia tăng liên tục của thương mại hàng hoá thế giới thì lại không được GATT điều
chỉnh.
Thậm chí ở một số lĩnh vực tuy đã được đưa ra xem xét nhưng còn nhiều lỗ
hổng đặc biệt là nông nghiệp và dệt may. Thể chế của GATT và hệ thống giải
quyết tranh chấp cũng bị một số nước thành viên chỉ trích .
GATT đứng trước thách thức mới khi thương mại thế giới trở nên phức tạp
hơn nhiều so với những năm 1940. Chưa bao giờ tính chất quốc tế của nền kinh tế
thế giới được thể hiện rõ nét như ngày nay. Quá trình phân công lao động quốc tế
được nâng cao và có ảnh hưởng rộng khắp, dẫn đến sự bùng nổ của hoạt động
thương mại quốc tế, dưới nhiều sắc thái đa dạng. Cùng với thương mại là vận tải,
thanh toán, đầu tư, du lịch, viễn thông quốc tế ... tăng trưởng với tốc độ chóng mặt.
Thực tế nêu trên đã dẫn đến một đòi hỏi tất yếu là phải cải cách GATT để có
một cơ chế mạnh hơn điều tiết thương mại thế giới, tăng cường và mở rộng hệ
thống đa biên này. Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, vòng đàm phán Urugoay
mở ra với một trong những kết quả quan trọng là Tuyên bố MaraKesh do 104 nước

ký ngày 15/4/1994 tại MaraKesh (Marốc), có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, quy định
thành lập Tổ chức Thương mại Thế giớí để thay thế GATT.
Có thể nói Tổ chức Thương mại Thế giới là hiện thân cho kết quả của vòng
đàm phán Urugoay và là sự kế thừa của GATT nhưng chặt chẽ hơn về tổ chức,
ràng buộc hơn về phạm vi, mức độ và khối lượng thương mại được điều chỉnh.
Với thể chế tương đối lỏng lẻo của GATT, các nước thành viên có thể lựa
chọn một số hiệp định trong một vòng thương lượng, thực hiện nghĩa vụ được
hưởng quyền lợi do hiệp định đó đem lại. Nhưng đối với Tổ chức Thương mại Thế
giới tất cả các nước thành viên phải chấp nhận và thực hiện tất cả các hiệp định đã
được thoả thuận trong vòng đàm phán Urugoay trừ hệ thống các hiệp định thương
mại đa phương. Về phương diện pháp lý, Tổ chức Thương mại Thế giới là một tổ
chức quốc tế, như các tổ chức quốc tế khác, quyết định của nó có tính chất ràng
buộc đối với các nước thành viên. Còn GATT là một hiệp định nêu những nguyên
tắc chung đã được thoả thuận cụ thể. Nói cách khác, GATT dựa trên cơ sở Ad- hoc
gồm các vòng thương lượng hơn là một cơ chế thường trực. Do vậy, WTO có thể
thúc đẩy các nước thực hiện nghĩa vụ hiệu quả hơn.
GATT chủ yếu chỉ điều chỉnh thương mại hữu hình còn WTO đảm nhận
trách nhiệm lớn hơn, bắt đầu quá trình điều chỉnh tự do hoá thương mại, dịch vụ
quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại và các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại. Đây là đòi hỏi cấp bách vì thực tế những lĩnh vực này ngày càng
trở nên quan trọng hơn trong cơ cấu thương mại quốc tế, đặc biệt đối với các nước
phát triển tỷ trọng này thường chiếm khoảng 65 - 70% thu nhập quốc dân.
Thông qua cơ chế xem xét định kỳ chính sách thương mại của các nước
thành viên WTO sẽ đưa hệ thống chính sách kinh tế, thương mại của các nước
thành viên vào một thể hài hoà, thống nhất nâng cao tính trong sáng, rõ ràng và sự
hiểu biết lẫn nhau trong môi trường mậu dịch toàn cầu.
Điểm mới nữa là WTO sẽ phối hợp nhiều hơn, chặt chẽ hơn với Liên hợp
quốc, Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế gắn kết các vấn đề thương mại với
tài chính, tiền tệ quốc tế, tạo điều kiện cho việc phát triển toàn diện quan hệ kinh tế
quốc tế.

Sau hơn 14 năm kể từ ngày thành lập, GATT mới có trên 23 nước thành
viên. Sau gần 46 năm hoạt động, Tổ chức này mới có 129 nước tham gia, chiếm
trên 90% thương mại quốc tế. Nhưng Tổ chức Thương mại Thế giới thì chỉ 6 tháng
sau khi thành lập đã có hơn 132 nước gia nhập. Theo dự tính trong vòng 3 năm tới
số thành viên sẽ lên tới 145 nước chiếm gần 100% giá trị mậu dịch thế giới.
1

Trước đây trong cơ chế của GATT, các nước "lớn" thường ngăn cản hay trì
hoãn việc thi hành các quyết định của Ủy ban giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế khi chúng không có lợi cho họ. Nhưng đối với WTO, các quy định về giải
quyết tranh chấp thương mại chặt chẽ, mạnh mẽ hơn nên các nước có tiềm lực
mạnh cũng có ít khả năng trì hoãn việc khám xét và thi hành quyết định liên quan
đến tranh chấp thương mại.
1.2. GIỚI THIỆU CHUNG WTO
1.2.1 CÁC CHỨC NĂNG NGUYÊN TẮC CHỦ ĐẠO TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Có cùng mục tiêu chung với GATT trước đây là thiết lập và củng cố môi
trường thương mại tự do, lành mạnh trên toàn thế giới nên Tổ chức Thương mại
Thế giới cũng có các nguyên tắc cơ bản giống với Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại trước kia , đó là:
+ Không phân biệt đốỉ xử.
+ Bảo hộ bằng công cụ thuế.
+ Khuyến khích cạnh tranh công bằng.
+ Tạo lập cơ sở ổn định cho thương mại thế giới.
+ Quyền" khước từ" và khả năng có hành động cấp thiết.
+ Quan hệ "Có đi, có lại" .
+ Ưu tiên cho các nước phát triển.
Với tư cách là tổ chức thương mại lớn nhất từ trước đến nay, kế thừa và
được tăng cường khả năng hơn GATT, WTO đảm nhận các chức năng chính sau
đây:

+ Quản lý và giám sát việc thực thi các hiệp định thương mại đa biên.
+ Giải quyết các tranh chấp thương mại.
+ Hợp tác cùng các tổ chức quốc tế khác tham gia vào việc hoạch định chính
sách kinh tế toàn cầu.
1.2.2 BỘ MÁY TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Để thực thi đầy đủ, kịp thời cảc trọng trách nêu trên, WTO có một hệ thống
pháp lý bao trùm lên Hiệp định GATT 1947, đồng thời với 12 Hiệp định kèm theo
về thương mại hàng hoá các lĩnh vực riêng, Tổ chức thương mại thế giới mặc
nhiên công nhận giá trị pháp lý của khoảng 2000 hiệp định và thoả thuận đã được
thông qua trong thời kỳ GATT tồn tại.
Trong cơ cấu của WTO cơ quan cao nhất là Hội nghị cấp Bộ trưởng, bao
gồm đại diện của cả các nước thành viên, được triệu tập ít nhất 2 năm 1 lần. Hội
nghị này quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến mọi hiệp định thương mại đa
biên.
Tuy nhiên công việc hàng ngày của WTO sẽ do một số cơ quan chức năng
giải quyết; chủ yếu là Đại hội đồng bao gồm tất cả các thành viên của WTO, có
nhiệm vụ làm báo cáo cho Hội nghị cấp Bộ trưởng giải quyết các công việc thường
nhật, Đại hội đồng nhóm thành 2 Ủy ban: Ủy ban đánh giá chính sách thương mại
để đánh giá thường xuyên các chính sách thương mại của từng nước thành viên và
Ủy ban giải quyết các tranh chấp để giám sát các thủ tục giải quyết tranh chấp.
Đại hội đồng cũng chia sẻ trách nhiệm thành 3 Hội đồng:
- Hội đồng về thương mại hàng hoá
- Hội đồng về thương mại dịch vụ
- Hội đồng về sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại
Trực thuộc mỗi Hội đồng trên có các cơ quan chuyên môn.
Ba ủy ban khác được Hội nghị Bộ trưởng thành lập và có nhiệm vụ báo cáo
lên Đại hội đồng, đó là:
- Ủy ban về thương mại và phát triển.
- Ủy ban về cán cân thanh toán.

- Ủy ban về ngân sách.
Mỗi hiệp định trong 4 hiệp định đa phương của WTO có các cơ quan quản
lý riêng của mình với nhiệm vụ báo cáo lên Đại hội đồng.
Giúp việc cho bộ máy nêu trên là Ban thư ký. Ban này có trụ sở tại Geneva,
Thụy Sỹ, nơi đặt trụ sở chính của WTO. Ban thư ký có khoảng 450 nhân viên,
đứng đầu là Tổng giám đốc được chọn theo nguyên tắc nhất trí. Dưới Tổng giám

×