Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Giáo trình- Mô phôi răng miệng - phần 8 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 13 trang )

83
NƯỚU

Nướu là phần niêm mạc miệng bao phủ xương ổ răng và bọc quanh cổ răng.

* CẤU TRÚC ĐẠI THỂ
Nướu có màu hồng ,thường đậm màu hơn biểu mô miệng , màu sắc này khác
nhau ở từng người , ở từng vùng của nướu do sự phân bố các sắc tố khác nhau , ở
độ dày của lớp biểu mô và mức độ sừng hóa của biểu mô, sự phân bố mao mạch ở
lớp biểu mô liên kết ở bên dưới.
Bề mặt nướu lồi lên thành những hạt như da cam, lấm tấm da cam đặc trưng của
nướu bình thường .
Tùy vào vị trí và chức năng của nướu, người ta chia : nướu dính, nướu tự do hay
nướu viền (bờ) và nướu nhú.

+ NƯỚU DÍNH:
Nướu dính bao quanh vùng chân răng, dính với xương vỏ ngoài của xương ổ răng.
Nướu dính được phân biệt với niêm mạc miệng bởi đường niêm mạc nướu, khác
với nướu dính, niêm mạc miệng tách rời với cấu trúc bên dưới. Tuy nhiên ở khẩu
cái vì niêm mạc miệng dính liền với xương ở phía trên, nên không có giải phẫu giữa
nướu dính và niêm mạc miệng ở mặt trong hàm trên.

+ NƯỚU BỜ (VIỀN) HAY NƯỚU TỰ DO:
Nướu bờ hay nướu tự do được phân cách với răng bằng khe răng nướu hay khe
nướu, sâu chừng 1-1,5mm, ở đáy khe, sự liên kết của nướu và răng được thực hiện
bởi biểu mô bám dính.
Bờ cổ của nướu tự do có tên là bờ viền chạy quanh cổ răng.

+ NƯỚU NHÚ:
Nướu nhú là phần nướu ở giữa 2 răng, ở phần này nhú có hình tháp đỉnh nhọn ở
các răng phía trước, ở những răng phía sau đỉnh tháp lõm, sườn nướu nhú về mặt


khẩu cái thường ngắn hơn phía trước.

* CẤU TẠO MÔ HỌC
Nướu được cấu tạo bởi biểu mô liên kết sợi, phủ bên ngoài là biểu mô lát tầng
kiểu Malpighy. Biểu mô và mô liên kết ngăn cách nhau bởi một màng đáy đảm bảo
sự kết nối và trao đổi phân tử giữa 2 loại mô này.

+ MÀNG ĐÁY:
Màng đáy tạo bởi protein dạng sợi (collagene type IV, fibronectine, laminine) vùi
trong chất căn bản đa đường . Dưới kính hiển vi điện tử, màng đáy gồm 1 bản sáng
nằm sát lớp biểu mô và bản đặc nằm tiếp liền với mô liên kết. Bản sáng có những
sợi mảnh tỏa ra theo hình quạt chạy đến gắn với chất căn bản liên kết, mặt khác
84
những sợi neo xuất phát từ chất căn bản liên kết chạy đến gắn với bản đặc. Bản sáng
gắn với biểu mô nhờ các tơ trương lực đi từ thể bán liên kết.
Màng đáy chạy theo đường lượn sóng, tạo nhú chân bì ở mô liên kết và mào biểu
mô ở biểu mô. Đường này phẳng ở phần rãnh biểu mô kết dính, ở phần này không
có nhú chân bì.
Tất cả những thương tổn bệnh lý tại chỗ (bệnh lý nướu, bệnh lý nha chu ) hoặc
toàn thân (các bệnh về máu, tiểu đường ) đều có thể làm thay đổi cấu trúc màng đáy
và cấu trúc đường lượn sóng của màng đáy, làm đường này không còn lượn sóng
đều đặn.

+ BIỂU BÌ NƯỚU:
Biểu bì nướu là 1 biểu mô lát tầng kiểu Malpighy, luôn luôn được đổi mới. Từ
màng đáy trở lên có:

-Lớp mầm: gồm một hàng hình khối vuông hay trụ, có nhiều hình ảnh gián phân
tạo nên những tế bào lớp trên.
Sự đổi mới tế bào biểu mô ở nướu cao hơn ở niêm mạc miệng, tùy theo từng vùng

của nướu và tốc độ đổi mới của nướu có thể khác nhau:
 Từ 4-9 ngày ở khe nướu và nướu tự do.
 Từ 8-15 ngày ở nướu dính.
Càng già thì tốc độ đổi mới càng chậm.
Trong lớp mầm còn có những tế bào khác: tế bào langerhans, tế bào Merkel, hắc
tố bào, số lượng các tế bào này thay đổi tùy theo chủng tộc,do đó màu sắc của nướu
có thể là sáng, xanh hoặc nâu.

-Lớp gai: nằm trên lớp mầm, gồm nhiều tế bào hình đa diện, những lớp phía trên
dẹp dần so với lớp tế bào mầm. Những tế bào lớp gai có đặc tính:
 Thể tích tế bào lớn hơn .
 Lượng ty thể giảm.
 Nhiều vi sợi.
 Thể liên kết nhiều hơn.
 Khoảng gian bào rộng hơn.
 Bào tương dần dần tích lũy các hạt đậm đặc với dòng điện tử.
Những tế bào trên cùng của lớp gai thay đổi tùy theo quá trình sừng hóa hay
không.
Sự sừng hóa là một quá trình sinh lý sinh hóa thay đổi cấu tạo bào tương của lớp
biểu mô trên cùng. Hiện tượng này xét về hình thái thì tế bào biểu mô dẹt dần, nhân
thường nằm sát màng tế bào, bào tương chứa nhiều sợi trương lực, xuất hiện nhiều
hạt. Hạt odland là hạt có dạng lá dưới kính hiển vi điện tử, nó được tạo bởi những
tấm có bản chất là lipide và phospholipide, những hạt này tiến sát màng tế bào và
đổ chất bên trong vào gian bào theo kiểu xuất bào. Một số hạt có hình cầu, hoặc có
85
nhiều thùy chứa kératohyaline, tiền chất của kératine – là 1 protein hình sợi giàu
cystein.
Những tế bào lớp trên tiến triển theo 3 cách:
 Không sừng hóa.
 Á sừng hóa.

 Sừng hóa.

* Biểu mô không sừng hóa: Biểu mô không sừng hóa thường hiện diện ở những
nơi ít xảy ra sự tiếp xúc cọ xát (mặt trong khe nướu ). Sự sừng hóa là một đáp ứng
nhằm gia tăng sức đề kháng của biểu mô bị cọ xát.
Trong biểu mô không sừng hóa, lớp tế bào trên cùng dẹp, nhân hình trứng cực dài
song song với chiều dài của tế bào, màng nhân có vài nếp gấp, lượng bào quan giảm
nhưng không bao giờ biến mất, thể liên kết ít, khoảng gian bào chứa chất vô định
hình hoặc dạng sợi.
* Biểu mô sừng hóa: Sự sừng hóa biểu hiện bằng bào tương của tế bào chứa nhiều
thể Odland, nhiều hạt kératohyaline, nhiều vi sợi, lượng ty thể giảm, chỉ có
ribosome quanh các hạt kératohyaline, thể liên kết ít sợi trương lực, nhiều nhất là
liên kết khe, khoảng gian bào hẹp. Những hạt trong bào tương làm cho tế bào có
dạng hạt, 2-4 lớp tế bào tạo lớp hạt. Lớp hạt sẽ biến thành lớp bong vảy theo 2 cách:
 Tạo lớp sừng chính thức: gồm những tế bào dẹp, bào quan và nhân thoái hóa,
tơ trương lực chiếm hầu hết tế bào. Thể liên kết bị tách rời do các bản đặc trong bào
tương bị vỡ, tế bào bong ra từng nhóm.
 Lớp á sừng: tế bào rất dẹp nhưng còn nhân,ở lớp trên nhân tiến sá gần màng
tế bào, bào tương chứa nhiều sợi kératine, tế bào bong từng nhóm do thoái triển thể
liên kết.
Quá trình sừng hóa là do biểu mô bị chà xát bởi lực nhai hay phát âm. Tại những
nơi không bị chà xát như ở khe nướu thì biểu mô không bị sừng hóa.

-Chân bì nướu: Chân bì nướu là 1 mô liên kết sợi, ở nướu viền, chân bì nướu
nằm trên dây chằng nha chu và tạo nên những sợi nối các răng và sợi nối nướu-
xương ổ- răng.
Tại vùng quanh chân răng, chân bì nướu nằm trên xương vỏ của xương ổ răng, tạo
sự kết nối chặt chẽ giữa xương và nướu của nướu dính.
Tại vùng cổ răng không có giới hạn giữa chân bì nướu và dây chằng nha chu.
Thành phần mô học của chân bì nướu gồm những tế bào như nha chu, sợi chính là

sợi collagene, và thường chia làm các nhóm:

* Sợi xương ổ - nướu: một đầu gắn vào mào xương ổ và xương vỏ, đầu kia phân
chia theo hình rẽ quạt gắn vào nướu, những sợi này đảm bảo cho nướu gắn chặt vào
xương.

86
* Sợi ximăng - nướu: một đầu gắn với lớp ximăng vùng cổ răng, phân tán và chéo
với sợi xương ổ - nướu, chạy trên mào xương ổ và đến bám vào nướu dính.

* Sợi ximăng - ximăng: nối 2 lớp ximăng của hai răng kế nhau bảo đảm sự kết nối
giữa hai răng.

* Sợi ximăng - ximăng: nối ximăng ở cổ răng và mào xương ổ, tương ứng với
phần trên của dây chằng nha chu chạy ngang.

* Sợi vòng: bao quanh cổ răng, tạo vòng bao quanh các răng kế cận.

* Sợi Elastine: là những sợi chia nhánh, đường kính trung bình 0,5-0,9µ, ít những
vạch có chu kỳ. Trung tâm của sợi là 1 vùng sáng dưới kính hiển vi điện tử, ngoại vi
được bao bọc bởi những vi sợi đường kính 10-14nm. Bản chất sợi là các protein gọi
là Elastine giàu analine, valine, leucine, nghèo hydroproline.



Sơ đồ nứu (mặt ttiền đình)
1. Nơi bám cơ 2. Nứu tự do (nứu bờ) 3. Nứu dính 4. Nhú giữa
các răng
5. Đường bám màng môi 6. Đường niêm mạc 7. Niêm mạc nứu 8. Khe
nứu

87


Sơ đồ nứu (mặt tiền đình – lưỡi)



Khe nứu
Bờ nứu tự do

Nhú biểu bì
Nứu dính
Màng đáy
Nhú trung mô
Ngà
Mào xương ổ
Xương ổ
Thành xương ổ
Cement
Men
Nứu bờ (tự do)
Niêm mạc miệng
Biểu mô bám dính
Chân bờ nứu
Lớp trên

Lớp dưới
Lớp gai

Lớp sinh sản

88



* SỰ PHÂN BỐ MẠCH MÁU
Cung cấp máu cho nướu có 3 nhóm chính:
+ Những nhánh xuất phát từ mào xương ổ và xương ổ giữa các răng.
+ Những nhánh nha chu vùng cổ răng.
+ Những nhánh từ xương vỏ tưới máu cho nướu dính.

* SỰ PHÂN BỐ THẦN KINH
Thần kinh phân bố cho nướu gồm:
+ Những sợi cảm giác: có nguồn gốc từ nha chu hay xương ổ và những sợi có
myeline chạy song song với mạch máu. Những nhánh tận cùng đến nhú chân bì
nướu và kết thúc dưới dạng sợi trần hay tận cùng đặc hiệu.
Sợi trần là những sợi thần kinh mất myeline và đến tận cùng bằng đầu tự do sát
màng đáy.
Tận cùng đặc hiệu tạo các tiểu thể xúc giác như tiểu thể Meissner, krause.
+ Những sợi vận động: là những sợi không myeline có nguồn gốc giao cảm hoặc
đối giao cảm, kiểm soát sự vận mạch của nướu.







Sừng hóa hoàn toàn

Sừng hóa một phần

nhưng c
òn nhân

Lớp dưới
Sừng hóa

Á sừng hóa


Lớp dưới


Lớp dưới
Sừng hóa

Biểu mô không sừng hóa

Lớp hạt







89
BIỂU MÔ BÁM DÍNH




Bao biểu mô bọc quanh cổ răng liên kết giữa nướu và răng gọi là biểu mô bám
dính. Rãnh biểu mô là phần kéo dài của biểu mô bám dính, chiều dài thay đổi từ
0,25-1,35mm. Vùng liên kết chính danh còn gọi là biểu mô bám dính, là tổng thể
sinh học phân cách môi trường bên trong và xoang miệng, là hang rào vật lí và sinh
lí tạo điều kiện kết dính bảo đảm tính thống nhất cho mô nha chu bên dưới.

1. MÔ SINH HỌC
- Biểu mô bám dính nguyên phát: ở giai đoạn cuối của quá trình tạo men,nguyên
bào men sau khi chế tiết sẽ đi vào pha cuối cùng của sự hoạt động,giai đoạn này
được gọi là giai đoạn trưởng thành. chức năng chính của tế bào biểu mổ trong thời
kì này là tái hấp thụ hết các chất thừa của chất căn bản hữu cơ của men, giai đoạn
này được ghi nhận bằng những thay đổi hình thái của tế bào tạo men: thể tích
nguyên bào men giảm, nhú tomes thoái triển, màng bào tương ở nơi này có nhiều
nếp gấp và lõm vào trong, giữa bề mặt màng tế bào và bề mặt men có một khoảng
dày chừng 40 – 80nm, chứa các chất dạng sợi hạt mảnh.
Tiếp theo, nguyên bào men đi vào giai đoạn nghỉ, dồng thời những lớp khác của
cơ quan men cũng mất đặc trưng của về cấu trúc và hình thái của chúng: những tế
bào trở nên dẹp cùng với nguyên bào men, cơ quan men thoái triển.
Toàn bộ biểu mô phủ quanh men trong giai đoạn trước mọc răng được bao quanh
bởi một màng đáy, ngăn cách biểu mô với mô liên kết ở chung quanh.
- Nguyên bào men thoái triển hình vuông nằm trên màng đáy trong (biểu mô men
trong),cách với lớp men bởi một lớp màng mỏng không thoái hoá, đồng nhất hay
lớp sợi hạt, đó là biểu bì nguyên phát.
Ở vùng cổ răng, cơ quan tạo men thoái triển biến thành một lớp mỏng.
Toàn bộ gồm: màng đáy trong, cơ quan men thoái triển và màng đáy ngoài, tạo
nên biểu mô bám dính nguyên phát.
 Sự biến đổi biểu mô bám dính nguyên phát thành biểu mô bám dính thứ phát:
Khi răng bắt đầu mọc váo xoang miệng, lớp biểu mô miệng ở trên dày lên bằng
cách gia tăng gián phân ở lớp tế bào mầm, đồng thời lớp biểu mô men ngoài tăng
sinh, cơ quan tạo men thoái triển. Mặt khác, nguyên bào men thoái triển không phân

chia, dần dần biến thành một hang tế bào dẹp, những tế bào này vẫn còn gắn với lớp
men bởi thể bán liên kết và màng đáy.
Khi răng bộc phát mọc, lúc này lớp biểu mô niêm mạc miệng và biểu mô men
ngoài của cơ quan tạo men tiếp xúc, biểu mô miệng trượt trên biểu mô men ngoài.
Ở giai đoạn này, toàn bộ biểu mô của cơ quan tạo men là biểu mô men ngoài, tế bào
dạng lưới, lớp trung gian có tế bào lát(biểu mô lát tầng). Suốt quá trình mọc răng,
nguyên bào men vẫn không phân chia và biến đổi thành biểu mô lát đơn. Lớp tế bào
này dần dần mất đi khi vòng quanh răng nhú vào xoang miệng. Trong thời gian này,
biểu mô men ngoài tiếp tục phân chia tạo biểu mô lát tầng.
90
Sau mọc răng, ở phần biểu mô nối giữa biểu mô miệng và biểu mô men hầu như
giống nhau về hình thái và rất khó phân biệt. Tuy nhiên, biểu mô men gần như biến
mất dần dần và được thay thế bởi biểu mô có nguồn gốc từ miệng.

2. SỰ HÌNH THÀNH KHE NƯỚU

Cùng với quá trình răng mọc, một rãnh hẹp được hình thành giữa bề mặt men và
nướu, khe này được tạo nên do sự tan rã, tiêu biến của biểu mô kết nối (biểu mô
niêm mạc miệng, biểu mô men).
Vì cùng với sự mọc răng, môi trường viêm chung quanh chứa nhiều bạch cầu
trong biểu mô ở chỗ răng mọc làm tan rã tế bào biểu mô, những tế bào còn lại dính
vào men răng và từ từ bong vảy, tạo khe nướu. Khe nướu bọc quanh vòng răng sâu
1-1.5mm. Thành khe nướu gồm:
- Mặt của răng có thể dính với khe ở dưới đáy bằng 2-3 hàng tế bào, những tế bào
này và phần sót lại của biểu mô nối nguyên phát.
- Một biểu mô lát tầng không sừng hoá tiếp nối với biểu mô nướu ở trên. Đáy của
khe bị bịt kín bởi biểu mô bám dính.

3. CẤU TẠO MÔ HỌC
Người ta goi chung danh từ “biểu mô bám dính” cho toàn bộ cấu trúc nối kết giữa

nướu và răng.
Từ răng đến mô liên kết của nướu, theo thứ tự biểu mô kết dính gồm:
+Biểu bì răng.
+Màng đáy trong.
+Thể bán liên kết.
+Biểu mô nối.
+Màng đáy ngoài.
Ở bề mặt của men răng, đôi lúc có thể còn có:
+Lớp cement không sợi.
+1 đường nối.

Cement không sợi hiện diện dưới dạng những cực hoặc đảo khoáng hoá bám vào
bề mặt cổ răng, một dải không quá 2mm. Cement không sợi được tạo nên khi răng
tiếp xúc trực tiêp với mô liên kết do sự thoái hoá cục bộ của biểu mô men thoái
triển, ở nơi này sự bộc lộ men răng kích thích mô liên kết (bao răng) hoạt hoá
nguyên bào cement tạo các đảo cement.
Sự khoáng hoá chất căn bản cement ở đây không có sợi collagene. Đây là một loại
cement không tế bào đắp song song với mặt cổ răng.

Đường nối hay bờ nối là một đường mảnh đậm đặc dưới kính hiển vi điện tử.
Đường này có khi có có khi không. Ở mức vành cổ, nằm giữa men răng và màng
đáy trong hoặc giữa cement không sợi không tế bào và màng đáy trong. Đường nối
dày chừng 12-20nm, được hình thành do sự tụ đặc các thành phần protein có nguôn
gốc từ dịch nướu. Khi biểu bì răng được thành lập, đường này trở nên khó phân
91
biệt. Ở chân răng ngoại mức nối men-cement, không bao giờ quan sát được đường
này ở cement sợi.
Biểu bì răng khởi đầu dưới dạng một lớp mỏng đậm đặc đối với dòng điện tử,
nằm giữa men răng và nguyên bào men thoái hoá, được chế tiết bởi nguyên bào
men khi chúng biến thành biểu mô lát. Dần dần, lớp màng dày lên đậm đặc và đồng

nhất, dày chừng 4-5, ít nhiều đều đặn, không bao giờ lớp này bị khoáng hoá. Lớp
này nằm giữa men răng và cement không sợi và biểu mô bám dính, hình thành do
quá trình tích luỹ các sản phẩm chế tiết của tế bào biểu mô.
Biểu bì răng có thành phần chủ yếu là protein nghèo glycoprotein và phức hợp đa
đường. Nó đóng vai trò chủ động cần thiết, không can thiệp vào hiện tượng thẩm
thấu, vận chuyển hoặc dính.
Biểu bì răng cũng có thể có một ít lipid, đường protein của máu hậu hoá của
nhiễm ngoại sinh (từ máu).

Màng đáy trong là một điển hình hiếm của cấu trúc nối 2 biểu mô có nguồn gốc
ngoại bì (men và biểu mô kết nối). Màng đáy trong có cấu trúc và thành phần hoá
học giống với màng đáy của biểu mô và mô liên kết chính thức, dày chừng
60±20nm, có nhiều tơ trương lực. Ở màng đáy trong, thể bán liên kết nhỏ hơn và ít
hơn lớp trung gian(5). Cùng với sự thoái hoá của tế bào, màng đáy trong dần biến
mất. Màng tế bào có nhiều nếp gấp tế bào dạng nón, khoảng gian bào rộng.

Màng đáy ngoài ngăn cách biểu mô kết dính với mô liên kết, dày chừng 100nm.
Màng đáy ngoài gồm 1 bản đặc dày 50nm và 1 bản sáng dày 50nm.


Sự hình thành biểu mô bám dính
92

Sự hình thành biểu mô bám dính
1. Men 2. Màng đáy biểu mô men ngoài 3. Biểu mô
bám dính
4.Màng đáy biểu mô men trong 5. Biểu bì răng 6.
Đường viền
7.Cement không sợi 8. Cement có sợi



Vùng cổ răng

Vùng cổ răng

Sợi vòng

Sợi cement-
cement

Nứu: Nhú nứu giữa các răng

Sợi cement nứu

93


2. Ngà 3. Men 4. Màng đáy trong

5. Biểu mô thoái triển 6. Màng đáy ngoài 7. Mô liên kết răng



Sơ đồ nứu và sự liên quan của nứu với chung quanh
Vùng quanh cổ răng

Vùng cổ răng

Khe nứu
Biểu mô bám dính

Bề mặt răng
Vùng đáy
Vùng trung gian
Vùng cổ
94


Sơ đồ biểu mô bám dính

 Mô sinh lý học:

-Sự kết dính: Sự kết dính răng nướu được bảo đảm một phần bởi sự áp sát và
tương quan của các cấu trúc hình thành biểu mô kết dính. Mặt kkhác, do hiện tượng
lý hoá, sặ kết dính giữa biểu mô bám dính và bề mặt của răng được thực hiện ở lớp
sang dưới của màng đáy trong, lớp này tạo lực tĩnh điện (lực Van der Waals) giữa
hai cấu trúc biểu mô bám dính và răng có điện tích âm, các ion Ca
++
điện tích dương
tạo nên sự hút đẩy hỗ tương của hai lớp này, bản chất của lá biểu bì đóng vai trò
như 1 loại keo sinh học.
Từ răng đến biểu mô kết dính theo thứ tự màng có 3 lớp:
+Lớp sáng ở dưới, dày chừng 9,5nm, phân biệt rõ nhờ màng biểu bì đậm
đặc ở dưới. Lớp sáng ở dưới có vai trò lực tĩnh điện.
+Lớp đậm đặc, dày 40nm, đậm đặc với tia electron, thành phần gồm phức
hợp glycoprotein kết hợp với collagen type IV.
+Bản sáng dày 15nm.
Biểu mô bám dính

Khe nứu
Bề mặt răng

Màng đáy trong
Màng đáy ngoài
Biểu bì
95
Màng đáy trong là sản phẩm của nguyên bào men thoái triển, dần dần được thay
bởi sản phẩm của biểu mô kết dính. Ở vùng gần cổ biểu mô bám dính, tế bào thoái
triển và bong vảy, theo phương thức này ở đây không còn màng trong.
-Thể bán liên kết nối màng đáy và màng bào tương của biểu mô bám dính. Bên
trong bào tương của biểu mô bám dính, có những bản đặc với dòng điện tử, từ đây
xuất hiện các sợi trương lực xuyên màng tế bào đến gắn với màng dấy trong.
-Biểu mô kết nối là biểu mô lát tầng không sừng hoá bao quanh cổ răng. Khi mới
hình thành gồm 4-5 lớp tế bào, dày lên theo tuổi (20-30 lớp tế bào), những tế bào
nối với nhau bằng những thể liên kết hay những liên kết khe, thể tích tế bào chiếm
80%, 20% là thể tích gian bào, gian bào thưòng có mono bào và bạch cầu.
Người ta phân biệt biểu mô kết nối thành 3 vùng:
+Vùng đáy: hình thành bởi những tế bào hình khối vuông hoặc bầu dục,
nhân lớn. Bộ máy nội bào phát triển, đặc biệt là bộ Golgi, chỉ số gián phân cao.
+Vùng trung gian: ở vùng này thể bán liên kết ở màng đáy trong phát triển,
ít thể liên kết, tế bào hẹp dần từ dưới lên trên, bào tương nhiều tiêu thể và không
bào, khoảng gian bào rộng, giữa những tế bào biểu mô đôi khi có sự hiện diện của
những bạch cầu.
+Vùng cổ răng: tế bào biểu mô kết nối dẹt hơn, bộ máy nội bào phát triển
và chứa ít hạt lipid, các tơ trương lực của thể bán liên kết làm gia tăng thêm khả
năng nối kết.
-Sự đổi mới biểu mô bám dính: những tế bào biểu mô bám dính tự đổi mới bắng
sự gián phân của những tế bào lớp căn bản nằm trên màng đáy ngoài. Sự đổi mới
của biểu mô kết dính xảy ra nhanh hơn so với sự đổi mới biểu mô miệng, sự đổi
mới diễn ra từ 5-10 ngày.













×