Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Giáo trình- Mô phôi răng miệng - phần 3 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.57 MB, 16 trang )

24
SỰ KIẾN TẠO CHÂN RĂNG

1. ĐẠI CƯƠNG

Sự kiến tạo chân răng bao gồm:
- Kiến tạo ngà chân răng.
- Khởi đầu biệt hoá từ bao răng, tạo mô quanh chân răng, tạo ximăng, dây chằng
nha chu, xương ổ răng.
Sự kiến tạo chân răng tiếp liền quá trình sinh men và thành lập ngà cổ răng. Kết
quả của quá trình biệt hoá tế bào tiếp theo là sự biệt hoá mô tạo điều kiện cho sự lan
rộng cơ quan men: hình thành bao biểu mô Hertwig-Von Brunn.

2. BAO RĂNG

Bao răng được hình thành sớm: chỉ sau một chút của giai đoạn mủ răng ở giai
đoạn chuông răng. Bao răng bọc toàn bộ cơ quan men và nhú trung mô, tuy nhiên ở
phần đáy của nhú trung mô bao bị đứt đoạn bởi các trục mạch máu xâm nhập vào
nhú trung mô.
Bao răng là một mô liên kết giàu sợi collagene, những sợi này dày đặc ở trung mô
quanh răng và nhú răng, chúng có những xoang đệm, những tế bào trung mô kém
biệt hoá, những nguyên bào sợi chạy dọc theo các bó sợi collagene, mạch máu rất
phát triển, đặt biệt ở biểu mô men ngoài. Trong quá trình kiến tạo chân răng, những
tế bào biểu mô men sát với ngà răng tiêu biến, lớp nguyên bào sợi ở phía trong bao
răng sẽ biệt hoá thành nguyên bào cement, tạo khuôn hữu cơ bị khoáng hoá: cement
răng.
Tế bào lớp ngoài của bao răng biệt hoá thành tạo cốt bào, những tế bào này tổng
hợp và tiết chất căn bản tạo xương ổ răng.
Lớp trung gian tạo dây chằng nha chu. Dây chằng nha chu sẽ gắn một đầu vào lớp
ximăng, đầu kia gắn vào xương ổ răng. Những sợi này sẽ đạt được đến sự định
hướng sinh lý phù hợp cho quá trình mọc răng.


Trên một răng đang hoạt động, những tế bào dự trữ từ trung mô của bao răng (tạo
cốt bào, nguyên bào ximăng, nguyên bào sợi) được bảo tồn những tiềm năng chế
tiết theo một phương cách để phần nha chu tự đáp ứng được thường xuyên với
những lực kéo, nén sinh lý hoặc phản ứng mà một răng phải chịu sự tác động đó.
Đặc tính tự đáp ứng cho phép bảo tồn sự toàn vẹn nha chu một cách sinh lý hoặc
bù trừ trong trường hợp có sự thay đổi cân bằng giữa ổ răng - răng hoặc trong răng.

3. SỰ HÌNH THÀNH VÀ CẤU TRÚC BAO BIỂU MÔ HERTWIG - VON
BRUNN

Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển mầm răng, tiếp theo là sự tạo men
răng, sự tăng trưởng của cơ quan men tiến đến sự hình thành vùng tương phản, nơi
25
mà biểu mô men trong tiếp xúc gần như trực tiếp với biểu mô men ngoài, ngăn cách
bởi hai màng đáy tiếp xúc trực tiếp với nhau. Ở vùng này tế bào phân chia rất mạnh
mẽ.



Sự hình thành chân răng
Men
Ngà
Cơ quan men
Bao răng
Bao biểu

Hertwig
von Brinn
Tiền nguyên
bào ngà

Nguyên bào ngà

26

Vào cuối kỳ sinh men răng, sự phân bào tiếp tục xảy ra ở vùng tương phản, theo
cách này sẽ phủ quanh nhú trung mô, tạo thành hai lớp tế bào: lớp ở ngoài sẽ tạo
thành biểu mô ngà răng ngoài, lớp bên trong tạo thành biểu mô ngà răng trong. Tất
cả gọi là bao biểu mô Hertwig-Von Brunn.
- Lớp tế bào biểu mô ngoài hơi dẹt trong khi lớp tế bào bên trong có hình vuông.
- Ở vùng đáy nhú trung mô, bao Hertwig gấp ngang tạo hoành biểu mô.
- Bao biểu mô Hertwig phân thành hai vùng: vùng ngà tuỷ ở trong và vùng nha
chu ở ngoài.
Bao biểu mô Hertwig tiếp tục phát triển cho đến khi vùng tương phản chấm dứt
sự tạo men, ở đây về sau sẽ là vùng cổ răng. Bao biểu mô phát triển về phía chỏm
răng để tạo chân răng.
Ngược với quá trình xảy ra ở vùng quanh cổ răng, lớp tế bào biểu mô trong không
biệt hoá để tạo nguyên bào men, mà chúng cảm ứng những nguyên bào sợi quanh
nhú trung mô biệt hoá thành nguyên bào ngà, tổng hợp và chế tiết ngà, điều này tạo
nên ngà chân răng.





Sự hình thành cement răng Tủy phụ


Men
Ngà
Cement

Xương ổ
Nguyên bào ngà
Biểu mô Hertwig
Bao răng
Xương nền hàm
Nguyên bào ngà
Hoành biểu mô
Men
Ngà
Bao răng
Nguyên bào ngà
Hoành biểu mô
Bao răng
Biểu mô Hertwig
Nguyên bào ngà
đang biệt hóa

27
4. SỰ HÌNH THÀNH NGÀ CHÂN RĂNG
Chân răng được thành lập dần theo sự phát triển của bao Hertwig, bao này
phát triển về đỉnh chỏm hàng tế bào mặt trong của biểu mô, kích thích nguyên bào
sợi của nhú trung mô biệt hoá thành nguyên bào ngà và ngà chân răng được thành
lập.
Người ta nhận thấy:
- Các nguyên bào ngà xếp thành lớp áp sát vào nhau.
- Tế bào dài ra, có nhiều nhánh bào tương, nhân dồn về phía đáy, bào tương chứa
nhiều bào quan mang tính chất chế tiết (bộ Golgi, lưới nội bào có hạt, ty thể).
- Tế bào ngừng gián phân.
- Có sự gia tăng thể tích tế bào.
- Phát triển phân cực và gia tăng số lượng bào quan và nguyên bào ngà hoạt động

tạo chất căn bản ngà.
- Ngà răng dần dần đắp theo hướng hướng tâm, càng chế tiết nguyên thân nguyên
bào ngà càng rút sâu vào phần tuỷ răng, chỉ để lại các nhánh bào tương nằm sâu
trong các tiểu quản ngà ở bên ngoài.
Trong quá trình phát triển có một vài vùng của chân răng biểu mô Hertwig bị
khiếm khuyết, sự khiếm khuyết này dẫn đến việc không tạo được ngà chân răng,
hậu quả là tạo các đường khuyết bên, gọi là tuỷ phụ. Trong quá trình điều trị sự bịt
các đường khuyết bên này rất khó thực hiện, tuy nhiên trong phần lớn trường hợp
sau khi bịt lỗ chân răng chính, tế bào trung mô của tuỷ phụ bị thoái hoá và tự
khoáng hoá.
Song song với quá trình phát triển ngà chân răng, theo hướng từ cổ đến đỉnh chỏm
chân răng dài ra và sự dài ra được định hướng và cảm ứng của bao biểu mô Hertwig
lúc này gọi là màng hoành biểu mô.
Sự đóng chóp đỉnh xảy ra một năm sau khi răng mọc, do đó cần cẩn thận khi
quyết định điều trị ngà răng khi răng chưa trưởng thành, tức là sự phát triển chân
răng chưa chấm dứt.
Trường hợp răng có nhiều chân thì ngà răng được phát triển dựa trên bao biểu mô
Hertwig, kết quả là với sự cảm ứng tạo nguyên bào ngà sẽ tạo ra hai hay nhiều chân
răng.
28


Sự kiến tạo chân răng










Nguyên bào ngà

Ngà tủy
Ngà
Tế bào cement
Chất căn bản
cement

Sợi Sharpey
Nguyên bào
cement





29

Sơ đồ kiến tạo chân răng

5. TIẾN TRIỂN CỦA BAO HERTWIG


Bao biểu mô Hertwig phát triển và tạo màng hoành biểu mô về phía lỗ đỉnh. Ở vùng cổ răng
thường xảy ra hiện tượng thoái hoá tế bào: những tế bào biểu mô Hertwig thoái triển, nhân tiêu,
bào tương hình thành những hốc, bao biểu răng trưởng thành ở dây chằng nha chu.mô bị đứt
quãng, những khối tế bào biểu mô còn bám vào ngà răng phân rã. Người ta thường thấy trên
Ở một số nơi không có sự thoái triển của bao Hertwig, những vùng này không

được ximăng hoá, làm lộ ngà răng, thường xảy ra ở vùng cổ răng. Hiện tượng này
gây cảm giác đau buốt do kích thích thần kinh nằm trong tiểu quản ngà.

6. SỰ HÌNH THÀNH XIMĂNG

Sự sinh ximăng được hình thành từ biểu mô ngoài của bao Hertwig, bắt đầu từ cổ
răng đến chân răng. Cùng với sự tan rã của bao biểu mô Hertwig, các nguyên bào
sợi của bao răng biệt hoá thành nguyên bào ximăng. Trong giai đoạn đầu nguyên
bào sợi áp sát và dọc theo lớp ngà chân răng, gia tăng thể tích tế bào, nhân lệch tâm,
bộ máy bào quan phát triển mang tính chất chế tiết, màng tế bào ở phần ngà chân
răng gấp lại thành nhiều nếp. Nguyên bào ximăng có cấu trúc tương tự tạo cốt bào,
chúng tổng hợp và chế tiết chất căn bản ximăng gồm:
Sợi Sharpey Cement Tế bào ngà
Ngà




Hoành biểu



30
- Collagene (80%), phosphoprotein, glycosaminoglycan, proteoglycan,
glycoprotein.
- Chất căn bản ximăng được khoáng hoá ngay khi được chế tiết, nguyên bào
ximăng dần dần rút ra khỏi lớp ximăng mà chúng bồi đắp.
- Lớp ximăng chạy song song với trục chân răng, vùi trong chất căn bản ximăng là
các sợi ngoại sinh (sợi Sharpey) về sau biến thành dây chằng nha chu.


7. SỰ HÌNH THÀNH RĂNG Ổ


Khi quá trình hình thành ximăng bắt đầu, ở vùng cổ răng, ở vùng trong của bao
răng có sự hình thành răng ổ. Ở vùng ngoài bao các nguyên bào sợi biệt hoá để tạo
thành các tạo cốt bào, tổng hợp và tiết chất căn bản xương. Những tạo cốt bào chế
tiết có những đặc tính:
-Tăng thể tích tế bào.
-Nhân lệch tâm.
-Bào quan phát triển và phân bố quanh nhân.
-Phần chế tiết nằm ở cực đối diện nhân.
Những tạo cốt bào xếp thành hàng để chất chế tiết chất gian bào tạo thành từng
lớp.
Sau khi tế bào trưởng thành, sự khoáng hoá chất căn bản xương bắt đầu kiến tạo
xương có dạng phôi, tạo thành những phiến xương có dạng bè bọc quanh tổ chức
liên kết mạnh (tuỷ xương). Xương cấu tạo dạng phôi được tái cấu trúc lại dưới các
lực của môi trường quanh răng ảnh hưởng của sự tái tạo chân răng và quá trình mọc
răng lên sự hình thành xương ổ là yếu tố quan trọng làm xương ổ hình thành các lá
xương dạng Have, các lá xương này bao quanh đỉnh răng và cổ răng cuối cùng
xương ổ sẽ kết nối với tấm của xương hàm.
Ở mặt ngoài của xương ổ dày và đặc, sự phát triển của xương chịu ảnh hưởng của
màng xương bao bọc ở phía ngoài tạo xương bằng cách đắp dần thành trong của
xương, hình thành các bè xương, cuối cùng thì các mào xương được nối ximăng
răng với mào xương ổ.

8. SỰ TẠO THÀNH NHA CHU


Dây nha chu là những dây chằng nối răng với xương ổ bằng những sợi collagene.
Những sợi này có vai trò neo răng vào ổ răng và luôn luôn được tái cấu trúc trong

quá trình phát triển của răng và mào xương ổ.
Nha chu thành lập cuối cùng là ở phần đỉnh chỏm chân răng, ở phần này trong
quá trình tái cấu trúc răng chưa được hình thành, ở thời kỳ đầu chúng hình thành
những sợi ngang gọi là dây chằng Hamac. Dây chằng này chỉ có tính chất tạm thời
về sau chân răng nối với xương ổ răng bằng những sợi hình rẻ quạt.
MEN RĂNG

31
1. ĐẠI CƯƠNG

Men răng bao quanh vùng cổ răng, là tổ chức cứng nhất cơ thể do sự khoáng hoá
cao độ.
Kết quả của sự khoáng hoá chất căn bản men được chế tiết từ nguyên bào men.

2. THÀNH PHẦN CỦA MEN RĂNG

2.1. Chất căn bản hữu cơ:
Chất căn bản hữu cơ của men răng chiếm 2% trọng lượng men răng ở người lớn.
- Thành phần protein chiếm 58%, lipid 40%, nước 2%. Thành phần protein gồm
protein cấu tạo men răng chiếm một lượng lớn acide amine: glycine, glutamique,
serine và aspartique; phosphoproteine.
- Thành phần lipide: thành phần chính là phospholipide và phospholipoprotein, là
thành phần chính của nhú Tomes kéo dài, bị vùi trong chất men trong.
- Những phức hợp proteines-saccharides chiếm một lượng rất nhỏ 0,4-0,5%.
Chất căn bản men do nguyên bào men chế tiết ở giai đoạn trưởng thành, sau đó
phần lớn bị tái hấp thụ bởi tế bào này khi quá trình khoáng hoá chất căn bản xảy ra.

2.2. Pha khoáng hoá:
Thành phần khoáng chiếm 96-98% khối lượng men, 2% nước. Pha khoáng hoá là
quá trình hình thành tinh thể hydroxyapatite (Ca₁₀(PO₄)₆(OH)₂). Mỗi tinh thể

hydroxyapatite là một thành phần cơ bản gồm 18 ion, hình lục giác dẹp cạnh
0,942nm tạo góc 120º và 60º, chiều cao (trục c) thẳng góc với cạnh a, b cao
0,688nm, các đơn vị này kết hợp tạo thành khối tinh thể. Ở men răng tinh thể
hydroxyapatite kết hợp thành dải, chứa nhiều chất hữu cơ bị thoái hoá và các khối
hình cầu của chất này. Một vài nơi sự khoáng hoá bị khiếm khuyết tạo thành những
đường khuyết.
Ở men răng tỷ lệ Ca/P chừng 2,08 (2,15 ở vùng men thuần nhất). Trong quá trình
khoáng hoá, một số ion được tích hợp vào men răng, do đó có thể có các ion khác
nằm trong men răng:
- Carbonate chiếm 1,5-2% của tinh thể. Lượng carbonate giảm dần trong quá trình
trưởng thành của men và thường được thay thế bởi magnésium.
- Fluor có thể kết hợp vào tinh thể bằng cách thế gốc OH hoặc kết hợp với gốc
OH tạo nối OH-F.
- Những ion khác: K, Cl, Si, Fe, Zn, S chiếm một lượng nhỏ (1%).
- Một số vi lượng: Ag, Sr, Br, Cr
Ở bề mặt của men, sau khi răng mọc thì bề mặt men chịu ảnh hưởng của các chất
trong môi trường xoang miệng, có sự trao đổi chất ở men, tuỳ theo thành phần thức
ăn và nước bọt. Có một sự tập trung Ca, Zn, Si, Fe, Pb cao ở mặt men so với vùng
trung gian, ngược lại ở vùng bên trong lớp men lượng carbonate, Mg, Zn, Na, nước
thường cao hơn vùng bên ngoài.
32
Lượng PO₄ và K đồng nhất suốt lớp men. Sự trao đổi ion thường xảy ra ở lớp bề
mặt men trong lúc lớp giữa các tinh thể men tương đối ổn định.
* Mật độ men trung bình là 2,9. Ở vùng ngoài cao hơn 2,98 ứng với trong 2,86,
điều này phản ánh sự tăng trưởng khác nhau của mỗi vùng và thành phần hữu cơ
của vùng nối men ngà so với bề mặt của men.
* Đường tăng trưởng: do quá trình tiết và tái hấp thụ của nhú Tomes của nguyên
bào men tạo ra các đợt sóng tiết và tái hấp thụ, hình thành các tinh thể
hydroxyapatite.
Tâm của trụ men thường song song với nhau, trục c của trụ men song song với

trục dài nhất.
Ở vùng ngoại vi trụ men tinh thể thường chạy xiên.
Đuôi của trụ men hướng một góc 40º so với trục thẳng đứng của tâm trụ men.
Giữa các trụ men là chất hữu cơ gọi là bao trụ.

3. ĐẶC TÍNH VẬT LÝ CỦA MEN RĂNG

Đặc tính vật lý của men răng có được là nhờ các thành phần khoáng.
- Độ cứng: theo thang điểm của Moss: 7º.
- Rất dễ vỡ.
- Rất cản quang (tia X).
- Đồng nhất.
- Dễ bị acid làm thương tổn.
- Ít bị bám bởi các chất hữu cơ ngoại sinh.
- Bóng, sáng.

4. CẤU TRÚC MÔ HỌC

4.1. Cấu trúc trụ men:
Men được hình thành bởi các trụ men xếp sát vào nhau. Những trụ là những dải bị
khoáng hoá chạy khắp vùng men, bắt đầu từ vùng nối ngà đến bề mặt của men.
Phần khoáng hoá dày đặc của trung tâm gọi là tâm trụ, phần kéo dài mỏng tạo thành
đuôi trụ. Trụ men này xếp gối lên trụ men kia, ở người khoảng cách gian trụ rất hẹp.
Đường kính tâm trụ chừng 7m, ở trung tâm trụ các tinh thể men xếp song song
với nhau, trục c của tinh thể song song với trục của trụ, ở đuôi trụ tinh thể chạy theo
hướng đuôi.
Bao quanh tâm trụ và đuôi trụ là chất căn bản gian trụ: bao trụ.
Khi men được khoáng hoá các trụ men chiếm phần kéo dài của nhú Tomes, giữa
là chất gian trụ. Quá trình tinh thể hoá đẩy chất gian trụ ra vùng ngoại biên, phần
lớn chất gian trụ được tái hấp thụ khi quá trình tạo men chấm dứt (bởi nguyên bào

men giai đoạn sau chế tiết).
Bao trụ chứa chất hữu cơ còn lại trong quá trình tái hấp thụ.
Trên tiêu bản cắt dọc, trụ men có cấu tạo:
+ Có những vùng dãn ra và hẹp lại.
33
+ Những đường chạy ngang đường kính 5-7m.
Điều này phản ánh nhịp độ của sự phát triển của men gồm:
+ Sự biến dưỡng của tế bào.
+ Sự đắp thành từng lớp men trụ.
+ Sự rút lui từng đợt của nguyên bào men.
Những hình ảnh lượn sóng bởi những xoang ở 2/3 lớp men trong, những xoang
nằm giữa 5-7 trụ, giữa các bó trụ men các trụ xếp song song, kết quả là các bó trụ
phát triển theo nhóm. Ở tiêu bản men phần trung tâm người ta thấy có sự thay đổi,
có những bó trụ bị cắt ngang và những bó trụ bị cắt dọc, tạo băng Hunter Schreger.
Ở tiêu bản mài dải Hunter Schreger cho hình ảnh những băng sáng và băng tối, điều
này do quá trình khoáng hoá các trụ men, tuỳ thuộc vào trụ bị mài ngang hoặc dọc.
Ở phía ngoài men răng, phần lớn các trụ men chạy thành từng lớp song song và
thẳng góc với bề mặt của men ngoài. (Băng tối: mài dọc. Băng sáng: mài ngang)



Hình ảnh Trụ men cắt ngang

Tâm trụ
Đuôi trụ
34


Hình ảnh trụ men cắt dọc (chú ý những vạch ngang)




Hình ảnh trụ men qua kính hiển vi điện tử tia quét, bao trụ màu trắng
35


Búi men ở đường nối men ngà




Đường nối men ngà (mũi tên)

36

4.2. Những đường tăng trưởng:

Ngoài những vạch có chu kỳ của trụ men phản ánh nhịp độ sinh men. Sự đắp
thêm dần các lớp men phản ánh đường tăng trưởng: đường Retzius. Đường Retzius
chạy quanh răng ngay khi men bắt đầu hình thành, chúng chạy đến bề mặt của răng,
dày chừng 30m, các đường xếp song song tạo đường tăng trưởng. Ở bề mặt của
men răng những đường này có hình ảnh tấm lợp gọi là perikymatie, những đường
gồ ghề perikymatie thường bị bào mòn trong quá trình nhai.




Đường tăng trưởng Retzius



4.3. Đường nối men ngà:

Sự thành lập men răng đầu tiên được thực hiện trực tiếp lên lớp ngà đã được
khoáng hoá sớm hơn một chút.
Đường nối men ngà bao quanh ngà, trừ phần cổ răng.
- Trong giai đoạn này nhú Tomes chưa hoàn toàn phát triển, do đó vùng này chưa
có trụ men, có độ dày 30-50m, gọi là đường nối men ngà.
- Ở trên lớp này trụ men bắt đầu hình thành, tuy nhiên ở người trưởng thành lớp
men ở trong sát với đường nối men ngà vẫn còn tồn tại, chất căn bản không bị hấp
thụ hết tạo nên hình ảnh những búi men.
Búi men thường kéo dài thường được chiếm bởi các chất hữu cơ, lá búi men đôi
lúc tiến tới bề mặt của men, lớp này thường nhiễm các protein có nguồn gốc từ
nước bọt. Búi men không phải là một trạng thái bệnh lý, cũng không phải là nơi xảy
ra sâu răng.
37
Ở đường nối men ngà có sự xâm nhập của các sợi ngà gọi là bó sợi men.

4.4. Men bề mặt:

Vào giai đoạn cuối quá trình tạo men, nguyên bào men mất khả năng chế tiết và
nhú Tomes thoái triển, nhưng sự ngừng chế tiết không xảy ra đồng thời. Một vài lớp
tế bào nhú Tomes vẫn còn hoạt động, điều này dẫn đến sự tạo thành lớp men không
trụ ở bề mặt, lớp men không trụ không đồng nhất, tạo thành hình ảnh lồi lõm trên bề
mặt men. Những vết lõm phản ánh dấu ấn của những nguyên bào men trên bề mặt.


Tế bào Tomes thoái triển


Mũi tên chỉ vùng dễ bị acid ăn mòn


Tinh th
ể men

Tr
ụ men h
ình l
ỗ khóa

38
4.5. Mô sinh lý học men răng:

Sau sinh men, cơ quan sinh men thoái triển., cơ quan men thoái biến khi răng
mọc. Theo cách đó men răng có một cấu trúc không có tế bào, không có sự tái cấu
trúc mô. Tuy nhiên có một số thay đổi nhỏ trong sự tạo men sau khi răng mọc.
- Tất cả những thay đổi này phản ánh những thương tổn:
+ Có thể bắt đầu bằng một sang chấn.
+ Độc chất ngoại sinh hoặc trị liệu.
+ Một nhiễm trùng tại chỗ (bệnh lý tuỷ răng trong quá trình tạo men răng sữa, kéo
theo thương tổn vĩnh viễn) hay phổ thông hơn là nhiễm virus.
Yếu tố bệnh lý di truyền (không hoàn thiện tạo men) thường rất khó phát hiện.
Thật vậy nguyên nhân cảm ứng gây ra sự thay đổi cấu trúc men thường rất khó xác
định và những thay đổi cấu trúc men hiếm khi đặc hiệu, thường phụ thuộc vào giai
đoạn mà những cảm ứng đó kích thích lên men.
Mặc dù không có cấu trúc tế bào, men cũng tồn tại một vài thay đổi mang tính
trưởng thành sau khi răng mọc, sự trưởng thành làm thay đổi cấu trúc hữu cơ mà
bản chất men răng sau khi mọc vẫn còn tồn tại.
Bề mặt của men luôn luôn phản ứng tương hỗ với môi trường của xoang miệng.
Sự phản ánh này làm thay đổi cấu trúc bề mặt của men:
* Những tái cấu trúc sau sang chấn: sự bào mòn các vết tích do dấu ấn của nguyên

bào men lên bề mặt men và đường lợp perikymatie, những vạch do đánh răng hoặc
thức ăn quá dai làm mòn bề mặt men, dẫn đến dự thay đổi cấu tạo bên trong.
* Sự thay đổi thành phần hoá học bề mặt do sự trao đổi với các chất trong xoang
miệng: các nhóm glycoprotein của nước bọt thường hấp phụ vào tinh thể
hydroxyapatite và thay đổi thành phần hữu cơ men răng; những ion khoáng có
nguồn gốc ngoại sinh, pH của nước bọt, sự thay đổi pH trong quá trình điều trị.
Sự hoà tan các trụ men do acid trước hết tiêu huỷ các trung tâm của các tinh thể
hydroxyapatite, các tinh thể này thường thẳng góc với trục c của trụ men trong lúc
chất gian trụ vẫn còn tồn tại. Quá trình này thường được dùng để áp dụng điều trị
những thương tổn men, acid bào mòn và làm sạch các chất khoáng của sâu răng, tạo
những lỗ nhỏ cho phép gắn Resin vào răng.
Trong trường hợp sâu răng, sự tấn công của các tác nhân acid do sự lên men vi
khuẩn, ở giai đoạn đầu thường bị ức chế bởi nước bọt (tạo môi trường đệm). Như
vậy nước bọt là một môi trường bảo vệ tốt cho men răng. Các tinh thể
Hydroxyapatite bị acid hoà tan sẽ được môi trường đệm của nước bọt tủa và trám
thương tổn. Tuy nhiên sự hiện diện thường trực của các vi khuẩn và các thức ăn có
đường là tác nhân chính gây thương tổn dọc theo đường Retzius, tạo thương tổn tiền
lâm sàng, về lâu dài các thương tổn này làm sụp men răng bề mặt.chính danh tạo ra
hốc sâu răng.

39

Bề mặt men phản ảnh dấu ấn của tế bào men thoái triển


Sau khi răng mọc, bề mặt men mang những vết xước do san chấn và ảnh hưởng
của môi trường nước bọt (trao đổi ion)

×