Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Giáo trình- Mô phôi răng miệng - phần 7 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 14 trang )

69
TUỶ RĂNG

1. ĐẠI CƯƠNG
Tuỷ răng chiếm phần trung tâm của phức hợp tuỷ-ngà. Là một mô liên kết với
thành phần cơ bản là các tế bào liên kết, mạch máu, thần kinh bảo đảm cho quá
trình phát triển và tồn tại của răng.
Tuỷ răng được bao bọc ở cổ răng, chân răng bằng ngà đã khoáng hoá, liên hệ với
cấu trúc quanh răng ở lỗ chân răng.

2. CẤU TRÚC MÔ HỌC
Những thành phần hữu hình của tuỷ răng phân bố trong chất căn bản liên kết.

2.1. Chất căn bản liên kết:

Chất căn bản liên kết tuỷ răng là môi trường chính đóng vai trò trao đổi chất của
ngà răng và máu. Đối với một răng trưởng thành đây là môi trường duy nhất qua đó
quá trình biến dưỡng, đào thải những sản phẩm của các tế bào sống của răng được
thực hiện.
Chất căn bản là một môi trường ở dạng keo do các phức hợp protein-
polysaccharid tạo thành. Những nhóm proteoglycan hình thành mạng lưới, qua đó
chất điện giải, các phân tử có trọng lượng nhỏ có thể lưu thông.
Các nhóm glycosaminoglycan chiếm 50-90% cấu tạo của proteoglycan, phần lớn
là chondroitine 4 sulfat và chondroitine 6 sulfat.
Chất căn bản có thể từ dạng keo biến thành dạng lỏng, tuỳ thuộc vào quá trình đa
trùng hợp của các proteoglycan, quá trình này làm trọng lượng phân tử của
proteoglycan có thể biến thiên từ 50.000 đến vài triệu Daltons.
Trong chất căn bản ngoài các sợi collagene xếp bó còn có sự phân bố của các
protein không collagene: các sợi fibronectine, protein của huyết tương,
phosphoprotein, carboxy-glutamic protein, glycoprotein.
Glycoprotein của chất căn bản là những chuỗi polypeptid kết hợp với các nhóm đa


đường, sự kết hợp này phụ thuộc vào quá trình trùng hợp của proteoglycan.

2.2. Những thành phần hữu hình:
2.2.1. Những thành phần hữu hình:

Theo hình thái và sự biến dưỡng tế bào mà người ta chia làm 3 nhóm tế bào liên
kết:
-Những tế bào căn bản của tuỷ răng.
-Những tế bào sinh ngà răng.
-Những tế bào có chức năng miễn dịch.
2.2.2. Những tế bào căn bản:

* Nguyên bào sợi: là những tế bào đa hình, có thể dạng sợi, hình sao với các
nhánh bào tương kéo dài, có thể dài tới 20m. Nhân nằm giữa tế bào, bào quan rất
70
phát triển và thường phân bố đều quanh nhân (lưới nội bào có hạt, bộ Golgi, ty thể,
vi ống, vi sợi, vi túi).
Nguyên bào sợi là tế bào chính tạo sợi collagene cho chất căn bản. Khi tế bào
thoái triển và kém hoạt động, chúng biến thành những tế bào sợi.
Về hình thái khó phân biệt được nguyên bào sợi của tuỷ răng với những nguyên
bào sợi của những mô liên kết khác, nhưng cần nhớ rằng những nguyên bào sợi của
tuỷ răng có nguồn gốc từ ngoại trung mô, do đó hoạt động của chúng cũng khác,
chúng mang tiềm năng tổng hợp và chế tiết chất căn bản, mà chất căn bản này có
thể bị khoáng hoá tuỳ điều kiện sinh lý (calci hoá tuỷ) hoặc do phản ứng (tạo chất
giả ngà-pseudodentin).
* Nguyên bào ngà: là những tế bào xếp sát nhau có nhiệm vụ tạo ngà vỏ và ngà
chân răng (xem bài ngà răng).
* Những tế bào ngà dự trữ: nằm dưới lớp nguyên bào ngà, có tên là tế bào Hohl,
tế bào Weil, được phân biệt với nguyên bào sợi do hình của chúng tròn hay bầu dục.
Hoạt động của chúng phụ thuộc vào điều kiện phản ứng (san chấn hoặc do điều trị).

Trong trường hợp lớp nguyên bào ngà bị thương tổn, những nguyên bào ngà dự
trữ, tổng hợp và chế tiết chất căn bản có thể bị khoáng hoá. Trong trường hợp này
sẽ tạo ngà phản ứng: ngà không ống (ngà xơ) hoặc tạo những đám tế bào tân sinh
mạch (xương-ngà). Trong trường hợp này sẽ tạo ngà ống với những vi ống chạy lộn
xộn. Sự tạo ngà phản ứng là một quá trình ngà hoá thứ cấp quanh các nhánh bào
tương của tế bào ngà dự trữ.
2.2.3. Những tế bào có chức năng miễn dịch:

Được xem là những tế bào bảo vệ tuỷ răng trong phản ứng viêm, chống nhiễm
trùng.
-Tương bào: là những tế bào tròn, nhân lệch, chất nhiễm sắc phân bố đều làm
nhân có hình ảnh mặt đồng hồ. Tương bào do tế bào lympho B biệt hoá để tạo
kháng thể thể dịch.
-Dưỡng bào: là những tế bào hình tròn hoặc hình trứng. Bào tương chứa nhiều hạt
cho phản ứng nhuộm dị sắc, những hạt này phân bố đều trong bào tương, chứa
serotonine, histamine, heparine.
-Đại thực bào: là những tế bào lớn, đa hình, bào tương trải rộng dạng amibe. Chức
năng của nó là thực bào các sản phẩm thoái hoá do quá trình viêm.
-Mô bào: là những đại thực bào cố định, chức năng thực bào.
-Những tế bào lympho, bạch cầu hạt (xem bài cơ quan tạo máu-miễn dịch).

-Chu bào: thực sự đây không phải là tế bào của mô liên kết. Tuy nhiên 1 số tác giả
xếp nó trong thành phần tế bào của mô liên kết tuỷ răng, còn gọi là tế bào Rouget,
là những tế bào có khả năng co rút, bao quanh các mao mạch. Nhiệm vụ của chu
bào là điều hoà huyết lưu mao mạch.

2.3. Những phần tử sợi:

Sợi collagene: phần lớn là collagene type I và III (xem bài mô liên kết-sợi tạo
keo).

Sợi võng (xem bài mô liên kết).
71
Sợi Oxytalan: được xem như sợi có cấu trúc từ tropocollagene. Sự sắp xếp của
những đại phân tử làm cho chúng không mang những băng sáng tối có chu kỳ, sợi
này bắt màu nâu đen khi nhuộm ngấm bạc sau khi oxyt hoá bằng acid perfomic.

3. MẠCH MÁU

Hệ thống mạch máu của tuỷ răng rất phong phú. Tiểu động mạch chính xâm nhập
vào tuỷ răng qua lỗ chóp, quanh vùng lỗ chóp hệ thống mạch máu của tuỷ răng nối
với hệ mạch quanh chân răng. Động mạch sau khi qua lỗ chóp sẽ phân nhánh tạo
thành những mao mạch nằm sát lớp nguyên bào ngà.
Tiểu động mạch thường có đường kính dưới 100m gồm 3 lớp áo:
-Áo trong: lợp bởi một hàng tế bào nội mô nằm trên màng đáy.
-Áo giữa: gồm 2-3 hàng tế bào cơ trơn.
-Áo ngoài; là mô liên kết mỏng, khó xác định.
Tiểu động mạch sẽ đi vào các tiểu động mạch cận mao mạch, là một đoạn ngắn,
chứa các lớp tế bào cơ trơn mỏng chạy vòng hình thành cơ vòng tiền mao mạch,
nhiệm vụ của chúng là kiểm soát tuần hoàn mao mạch.
Mao mạch tuỷ răng là mao mạch có lỗ thủng (mao mạch không liên tục), đường
kính 5-30m.
Tĩnh mạch là những tiểu tĩnh mạch, gồm 3 lớp áo.
Tiểu động mạch và tĩnh mạch thường nối tắt, có thể hình dung tuần hoàn tuỷ răng
bằng sơ đồ 1.
* Hệ thống bạch mạch: là những ống cụt, kiểu xoang, có nhiệm vụ dẫn bạch dịch
về các hạch bạch huyết dưới hàm trên và hàm dưới, từ đó đến các hạch bạch huyết
vùng cổ.
* Sự phân bố thần kinh:
Tuỷ răng nhận những sợi thần kinh cảm giác và sợi vận mạch.
-Những sợi cảm giác vào lỗ chóp, dưới dạng những sợi thần kinh có myeline,

chạy song song với chân răng theo các bó mạch, tạo những nhánh hình rẻ quạt ở
vùng dưới ngà vỏ. Ở vùng ngà vỏ chúng tạo thành đám rối Rashkow, từ đó phân
nhánh chạy quanh nguyên bào ngà, chạy vào các tiểu quản ngà bằng các sợi không
myeline.
Phần lớn sợi thần kinh của tuỷ răng là những sợi delta A (80%) có đường kính 2-
20m, trụ trục của chúng cho những sợi mảnh với đường kính chừng 15nm, bao
myeline dày chừng 0,5-1m, bao này bị đứt đoạn bởi nút Ranvier.
1 tế bào schawnn thường tạo bao myeline cho 1-10 trụ trục delta A, những phần
tận cùng của trụ trục không có bao myeline gọi là sợi C. Sự xâm nhập các sợi C vào
tiểu quản ngà xảy ra chậm chạp sau khi răng mọc (nhiều năm).
Cùng với tuổi già, các đám rối thần kinh giảm dần.
-Sợi thần kinh vận mạch thuộc hệ trực giao cảm tận cùng ở lớp cơ động và tiểu
tĩnh mạch, được bao quanh bởi tế bào schawnn nhưng không có bao myeline.
Sợi Adrenaline đáp ứng co mạch và sợi Acétylcholine đáp ứng giãn mạch.
* Sự calci hoá tuỷ răng:
72
Ở tuỷ răng xảy ra quá trình calci hóa không điển hình, sự calci hoá có thể gắn với
thành của ngà tuỷ hoặc cô lập trong trung mô tuỷ răng tạo thành calci hoá lan toả
hoặc những khối calci hoá, kích thước rất thay đổi gọi là sỏi tuỷ.
Sự khoáng hoá tuỷ răng có thể xảy ra không do quá trình bệnh lý, người ta có thể
thấy sự khoáng hoá xảy ra ở răng chưa mọc hoặc răng vừa mới mọc, thường không
tạo một triệu chứng lâm sàng nào, phát hiện tình cờ khi chụp X quang.
Số lượng sỏi tuỷ gia tăng theo tuổi, có thể do quá trình vi san chấn hoặc do viêm
mãn. Sỏi phân tán thường do sự kết tủa vô tổ chức của những tinh thể
octophosphate calci dọc theo thành các mạch máu, hoặc các tinh thể hydroxyapatite
dọc theo các bó sợi collagene, những tinh thể này thường kết hợp thành những vi
nốt tròn, thường phát hiện tình cờ khi xem phim chụp X quang.
Sự hiện diện của sỏi lan toả là một dấu hiệu của quá trình thoái hoá tuỷ (thoái hoá
sợi, hội chứng viêm tuỷ mãn).
Kích thước của sỏi tuỷ rất thay đổi, có thể đạt tới vài mm. Sỏi tuỷ có thể đính vào

ngà tuỷ nằm trong buồng tuỷ hoặc lỗ chỏm.
Quá trình calci hoá tuỷ không đồng nhất, người ta thấy có các dạng calci hoá sau:
+ Calci hoá hướng tâm hay lá đồng tâm.
+ Calci hoá dạng tia.
+ Calci hoá giả ngà răng, với các vi ống chạy vô hướng.

4. MÔ SINH LÝ HỌC TUỶ RĂNG

Mô sinh lý học tuỷ răng gồm những hoạt động của tế bào sinh ngà, huyết động
học và sự nhạy cảm của ngà-tuỷ. Những yếu tố này tạo điều kiện cho răng thích ứng
và tồn tại.

4.1. Hoạt động của tế bào sinh ngà:

Hoạt động này gồm tổng hợp và chế tiết ngà chính danh và sửa sang ngà tuỷ, tức
là khả năng tạo mô sẹo hoặc mô phản ứng của những tế bào tuỷ. Tất cả những tế
bào này có nguồn gốc từ mào hạch thần kinh của dây thần kinh tam thoa, nói một
cách khác những tế bào sinh ngà mang tiềm năng thông tin di truyền cho phép sinh
tổng hợp chất căn bản, một mô có khả năng khoáng hoá. Tiềm năng thông tin này
có thể diễn tả bằng:
-Sự tương tác giữa trung mô với nguyên bào sợi, giữa trung biểu mô với lớp men
trong ở cổ răng, bao biểu mô Hertwig ở chân răng, kết quả là sự biệt hoá nguyên
bào sợi thành nguyên bào ngà chế tiết ngà sơ cấp hoặc thứ cấp.
-Trong trường hợp có hiện tượng viêm, có thể kích thích nguyên bào ngà, kết quả
là đắp thêm ngà phản ứng. Hiện tượng viêm cũng kích thích những tế bào nằm dưới
lớp nguyên bào ngà tạo ngà xơ.
Những tế bào này cũng có thể tự biệt hoá thứ phát bằng cách tân sinh nguyên bào
ngà, sự biệt hoá thứ phát này hình như bị cảm ứng bởi chất tiết của tế bào dự trữ.
Ngược lại, quá trình viêm mãn có thể làm bộc phát quá trình tái hấp thụ dưới ảnh
hưởng của các huỷ cốt bào. Hơn nữa các yếu tố san chấn đều dẫn đến sự xâm nhập

73
tế bào viêm vào tuỷ răng, những sản phẩm của quá trình viêm sẽ làm thay đổi sự
biến dưỡng của tế bào tuỷ răng.

4.2. Mô sinh lý mạch:

Mạch máu của tuỷ răng được xem như một đơn vị vi tuần hoàn tự trị. Tạo điều
kiện cho sự tồn tại và phát triển của phức hợp ngà-tuỷ bằng cách đem lại những chất
cần thiết cho quá trình biến dưỡng.
Sự điều tiết huyết lưu được bảo đảm bằng cơ chế tự điều hoà và phản xạ co dãn
cơ thành mạch. Tất cả sự thay đổi huyết lưu bằng cách gia tăng áp suất động mạch
hoặc co thắt tĩnh mạch đều làm dãn hệ mao mạch (bảng 4). Tế bào nội mô của mao
mạch tuỷ răng rất dễ vỡ, do áp suất cao trong lòng mạch, tạo những vùng vi xuất
huyết, làm phù chất căn bản. Do tính chất cứng của mô ngà, sự phù sẽ ép lòng mao
mạch, làm ngừng chảy máu, mặt khác hệ nối tắt động tĩnh mạch cũng góp phần
ngừng chảy máu trong tuỷ răng. Ngược lại khi sự chảy máu gia tăng, kéo dài và
trầm trọng sẽ dẫn đến thương tổn không hồi phục của tuỷ răng.

4.3. Sự nhạy cảm của ngà tuỷ:

Tất cả những kích thích ngà tuỷ có thể gây đau. Sự kích thích có thể do tác nhân
vật lý (đè ép, nhiệt độ, sự quá tải), hoá học (acid), điện (test đánh giá sự sống của
tuỷ răng).
Sự kích thích và dẫn truyền cảm giác đau có thể tiếp nhận trực tiếp từ những đầu
thần kinh cảm giác tận cùng ở tuỷ răng hoặc bao quanh ống ngà hoặc gián tiếp bởi
sự thay đổi môi trường xung quanh.
Kích thích gián tiếp thường xảy ra trên vùng ngà ngoại vi tạo nên sự thay đổi áp
suất thẩm thấu lên ống ngà, làm biến dạng cấu trúc nguyên bào ngà truyền đến đám
rối thần kinh ở lớp dưới.
Những hiện tượng thuỷ động học làm chuyển dịch gian bào ngà là những kích

thích gián tiếp.
Những chuyển dịch gian bào do sản phẩm của các phản ứng viêm cũng bộc phát
phản ứng đau.

4.4. Lão hoá tuỷ răng:
Cùng với quá trình lão hoá, mô tuỷ răng trải qua nhiều thay đổi dẫn đến làm giảm
quá trình tiến triển hoặc biến dạng những cấu trúc của nó (bảng 5).
Thể tích tuỷ răng giảm dần khi ngà răng dày lên theo tuổi.
Tế bào sợi dần dần thay thế nguyên bào sợi.
Nguyên bào ngà ngừng phát triển và thoái hoá.
Mật độ sợi collagene tăng.
Sự tưới máu của tuỷ răng giảm do dày thành mạch hoặc do co hẹp.
Cấu trúc thần kinh giảm có lẽ là do thoái hoá vì khoáng hoá.


74
DÂY CHẰNG NHA CHU

1. ĐẠI CƯƠNG
Dây chằng nha chu hay dây chằng răng-xương ổ nối liền răng và xương hàm bằng
các sợi Sharpey.Sợi Shapey một đầu gắn chặt vào lớp xi măng răng, một đầu gắn
vào ổ xương.
Sự cố định nguyên phát của răng vào ổ xương xảy ra đồng thời trong quá trình
kiến tạo chân răng bằng cách gắn dần dần các bó sợi collagene từ bao quanh răng
vào lớp ximăng và vào xương ổ răng.
- Sự gắn nguyên phát này luôn luôn tự điều chỉnh và tự đáp ứng theo sự phát triển
của chân răng và tiếp tục thay đổi theo quá trình chuyển dịch của răng dẫn đến sự
mọc răng.
- Cuối cùng, khi răng bắt đầu đảm nhận chức năng, dây chằng nha chu vẫn luôn
luôn tái cấu trúc, sự tái cấu trúc này bảo đảm cho sự cân bằng về cấu trúc mô học,

sinh lí học của phức hợp răng-ổ răng.

2. CẤU TẠO Ổ RĂNG

Dây chằng nha chu là một lớp mô liên kết giàu sợi collagene, bao quanh chân
răng ở vùng cổ răng. Dây chằng nha chu nối cổ răng với nướu răng.
Độ dày nha chu trung bình từ 1mm-1,5mm

2.1. Chất căn bản:
Thành phần chất căn bản gồm các glycosaminoglycans, các protein của mô liên
kết.Chất căn bản chứa những tế bào, những phần tử sợi, mạch máu, dây thần kinh,
bạch mạch.Chất căn bản thường ở trạng thái nửa sol nửa gel, giúp cho các chất
dinh dưỡng có thể lưu thông dễ dàng và giữ được cấu trúc của mô.

Chất căn bản đóng vai trò như một chất đệm làm giảm áp lực do tác động của lực
nhai.

2.2. Những tế bào:
Những tế bào nha chu gồm:
- Những tế bào thuộc nhóm dự trữ sinh tế bào sợi:nguyên bào sợi, tế bào sợi có
nhiệm vụ đáp ứng sinh tổng hợp sợi collagene và các thành phần cho chất căn bản
(protein, glycoprotein, glycosaminoglycans).
- Những tế bào xương và tế bào sinh ximăng:biệt hoá từ những tế bào gốc dưới
ảnh hưởng của những cảm ứng có tính chất hệ thống hoặc kích thích tại chổ.
Những tế bào này có nhiệm vụ tái cấu trúc(đắp thêm, tái hấp thụ) xương và ximăng.
- Những tế bào chịu trách nhiệm viêm và kiểm soát miễn dịch: bạch cầu, tương
bào, dưỡng bào, đại thực bào, tế bào lympho.
75

2.2.1.Nguyên bào sợi:

Nguyên bào sợi là tế bào căn bản của mô liên kết, phân bố đều ở vùng trung tâm
nha chu, thường kết hợp chặt chẽ với sợi collagene.Mật độ tế bào và số lượng
nguyên bào sợi giảm dần theo tuổi và ở những vùng giảm chức năng.
Nguyên bào sợi là những tế bào đa hình (hình dạng biến đổi), nhân nằm giữa , bào
tương chia nhánh hình sao nhiều hoặc ít tuỳ theo hoạt động của tế bào. Hệ thống
bào quan của nguyên bào sợi rất phát triển, thường phân bố quanh nhân, màng tế
bào thường gấp thành nhiều nếp, trong các nếp gấp người ta thường thấy các
tropocollagene vừa được chế tiết.

2.2.2. Tế bào sợi:
Tế bào sợi thường có hình thoi, nhân nằm ở giữa, nhân kém phát triển.Tế bào sợi
là một kém hoạt động về mặt chuyển hoá.

2.2.3 Tế bào xương và tế bào ximăng:
Tế bào xương và tế bào ximăng được xem như là những tế bào được biệt hoá từ
nguyên bào sợi. Sự biệt hoá tế bào xương và tế bào ximăng bị kích thích bởi răng và
nha chu.
Sự biệt hoá huỷ cốt bào hoặc huỷ ximăng bào phụ thuộc vào môi trường viêm, ở
đó tạo nên một vùng chịu áp lực nén.

2.2.4. Những tế bào bảo vệ:
Những tế bào thuộc hệ miễn dịch xuất hiện nhiều ở mô nha chu trong trường hợp
sau chấn thương hoặc nhiễm trùng.
Ngay cả khi không xảy ra quá trình bệnh lí, theo chức năng phần nha chu thường
chịu nhiều lực : lực nhai, lực cọ xát, trong những trường hợp này những tế bào bảo
vệ vẫn xuất hiện với số lượng lớn ở vùng nha chu và vùng nướu răng.

2.2.5. Những tế bào biểu mô:
Sự sót lại của các tế bào biểu mô càon gọi là biểu mô sót lại Malassez-là những
thành phần còn lại của bao Hertwig, thường nằm ở gần lớp ximăng. Những tế bào

này thường có hình tròn, bao quanh bởi một màng đáy. Biến dưỡng tế bào xảy ra
chậm chạp, hầu như không còn. Lớp biểu mô còn sót lại này thường nằm trong lớp
ximăng, trong trường hợp này chúng thoái triển tạo trong lớp ximăng những khuyết
nhỏ hình tròn.
76
Những biểu mô sót lại không có chức năng gì quan trọng,tuy nhiên trong một vài
trường hợp, sự hoạt động của tế bào biểu mô sót lại có thể dẫn tới sự thành lập các u
bệnh lí, tạo các nang quang chân răng, nang bọc quanh đám biểu mô Malassez.

2.2.6. Những phần tử sợi:
Sợi là thành phần chính của nha chu, chúng liên kết răng và xương ổ răng.
Dây chằng được tạo bởi sự kết hợp của các bó sợi collagene, collagene được tổng
hợp từ nguyên bào sợi.
Sợi ngoại sinh chính là các sợi Sharpey nối ximăng với ổ răng, sợi phân bố khắp
nơi quanh chân răng.
Trên thành xương ổ răng, những sợi này thường dày và phân bố theo hình rẻ quạt
ở nha chu trên thành lớp ximăng, sợi biến thành những sợi cực mảnh và phân bố
dày đặc trong lớp ximăng.
Khi gắn vào xương hoặc ximăng, các sợi Sharpey dần dần bị khoáng hoá và
thường được gọi là những sợi ngoại sinh của xương đặc hoặc ximăng để phân biệt
với các sợi nội dinh thường được tạo ra bởi các tạo cốt bào hoặc nguyên bào
ximăng, những sợi ngoại sinh không bao giờ tự khoáng hoá hoàn toàn.
Toàn bộ dây chằng nha chu chịu sự tác động của răng trong suốt quá trình răng
tồn tại trên cung răng.Dây chằng tự tái cấu trúc và thay đổi vị trí cho phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của răng. Hoạt động của tế bào đảm bảo cho quá trình đổi
mới sợi collagene.Các sợi collagene liên tục được bổ sung vào chất căn bản nha
chu, chúng có thể kết hợp với các bó dây chằng nha chu, ngược lại sự thoái hóa các
phân tử collagene sẽ dẫn tới sự thoái hóa mô.
Sự tái cấu trúc dây chằng nha chu tự điều chỉnh ở phần trung tâm của nha chu, tức
ở phức hợp trung gian, 1 phần khác xảy ra ở phần dọc theo thành xương ổ và lớp

ximăng-theo hướng chạy mang tính chất chức năng của dây chằng nha chu, người ta
chia chúng ra thành 5 nhóm chính:
* Những sợi ngang: nằm ở vùng cổ răng, nối ximăng và mào xương ổ hoặc nối 2
lớp ximăng giữa 2 răng kế cận.
* Những sợi vòng: nằm ở vùng cổ răng, vuông góc với sợi ngang, có những sợi
bao quanh 1 răng, những sợi khác bao quanh từ 2 đến 8 răng (hình 3)
* Những sợi xiên: phần lớn nằm ở phần trên ngoài chân răng. Những sợi xiên
thường bị xuyên qua bởi mạch máu và dây thần kinh thông qua các lỗ thủng.
* Sợi đỉnh: có phần tia rẻ quạt bao quanh phần tận cùng của rễ răng.
* Những sợi nối các răng nhiều chân: đó là những sợi nối xương ổ răng với
ximăng của răng nhiều chân.

77

Sơ đồ dây chằng nha chu


Sơ đồ tổng quát dây chằng nha chu

Dây chằng nha chu
Nứu
Xương ổ
Cement
Sợi vòng
Sợi ngang
Sợi xiên
Sợi giữa chân răng
Sợi rẽ quạt
78


Sơ đồ phân bố sợi ở chân bì nứu



Sơ đồ phân bố sợi ở chân bì nứu

3. SỰ PHÂN PHỐI MÁU
Sợi cement – nứu
Sợi vòng
Sợi cement xương ổ
răng

Sợi xương ổ nứu
Sợi nối cement -
cement

Sợi xương ổ vách
giữa răng
S
ợi x
ương
ổ nứu

S
ợi v
òng

Xương ổ
79


3.1. Mạch máu:
Nha chu được cấo máu bởi hệ thống mạch bao quanh chân răng. Những hệ thống
mạch này xuất phát từ những nhánh của thân động mạch hàm trên và hàm dưới
Sự cấp máu xảy ra rất sớm, khi bao răng mới hình thành ở giai đoạn chuông răng,
những động mạch của hàm trên và hàm dưới phân nhánh và cấp máu cho từng răng.
Những mạch máu phân nhánh để cấp máu cho tủy răng và 1 phần nha chu.
Những mạch máu chính của nha chu phần lớn chạy song song với chân răng, giữa
các tấm sợi là những nhánh thứ cấp, sau đó tỏa ra thành chùm bao quanh chân răng .
Hệ thống mao mạch quanh thành xương ổ bao giờ cũng phong phú hơn quanh bao
ximăng răng. Mạch ở vùng nha chu thường có khe nối tắc hẹp.
*Ở đỉnh chân răng: các nhánh đi qua vách xương ổ răng vào sâu trong ổ xương,
có những nhánh xuyên qua lỗ đỉnh của tủy xương, những nhánh khác tái phân phối
cho vùng nha chu quanh đỉnh chân răng.
*Ở vùng giữa: nối với mạch máu nha chu tức là nối với những mạch máu của bờ
nướu tự do.
Sự liên lạc giữa các mạch máu của tủy răng nha chu, xương ổ và nướu hiện tại
người ta không thể xác định một cách chính xác về mặt giải phẩu cũng như mô sinh
lí học, từ đó dẫn đến quan điểm cho rằng mỗi răng có một đơn vị tuần hoàn gồm
một vùng cung cấp máu cho từng răng, một vùng cho nướu, một vùng cho xương ổ
răng.

3.2. Bạch mạch:
Bạch nạch thường chạy song song vói các mao mạch.Tế bào nội mô mao bạch
mạch bắt đầu bởi 1 đầu cụt, ở các bạch hạch lớn trong long có valve bạch mạch , là
hệ thống đưa trở lại máu cho các protein có trọng lượng phân tử lớn, và sự quay trở
lại vòng tuần hoàn của tế bào miễn dịch ;bạch mạch dẫn bạch huyết đến các hạch
hàm trên, hàm duới và hạch cổ .

4. SỰ PHÂN BỐ THẦN KINH
Sự phân bố thần kinh cho vùng nha chu được phân bố bởi các chùm thần kinh

chạy theo mạch máu.
Giống như mạch, người ta phân vùng thần kinh phân bố cho đỉnh chop, vùng
quanh chân răng, vùng cổ, vùng đỉnh chỏm giàu thần kinh nhất.
Những sợi thần kinh này xuất phát từ dây thần kinh số 5, phân thành nhánh trên
và nhánh dưới cho xương hàm trên và hàm dưới.
80
Các sợi thần kinh chính chạy song song với các trục của chân răng, các sợi này có
bao myelin, chúng phân nhánh và giao thoa với các sợi đến từ thành xương ổ và
nướu.
Phần tận cùng của thần kinh gồm có :
*Tận cùng thần kinh cảm giác (chạm, đau, đè, ép): xuất phát từ hạch bạch huyết,
đó là những sợi có myelin, sau đó khi đến phần tận cùng chúng mất myelin biến
thành những sợi trần hoặc được bọc trong các bao liên kết (tiểu thể Ruffini).
*Tận cùng thần kinh cảm giác vận động: cho những tín hiệu cần cho sự vận động,
cần cho tác động đóng, mở hàm, động tác nhai. Những nhân vận động nằm ở não
trung gian những sợi thần kinh này lớn, có myelin và thường có vỏ bọc (bao liên
kết).
-Thần kinh cận mạch : điều tiết lưu lượng máu lưu thông ở răng.

5. MÔ SINH LÝ HỌC
Chức năng của nha chu:
-Liên kết răng vào ổ răng.
-Kiểm soát vi chuyển động của răng.
-Kiểm soát sự dẫn truyền những tín hiệu liên quan đến cảm giác kích thích ngoại
lai và vận động.
-Kéo răng trong thời kì răng mọc.

5.1. Chức năng gắn răng vào ổ răng:
Được thực hiện bởi các bó sợi collagene giữa men răng và xương ổ. Bó sợi
collagene có những xoang, nhò vậy sự neo giữ răng vào ổ răng có tính đàn hồi, hơn

nữa ở phần trung tâm những sợi thường không liên tục, phần này được gọi là phức
hợp trung gian, có thể quan sát được trong quá trình tái cấu trúc chân răng hoặc thời
kỳ răng mọc.
Phức hợp trung gian cho phép tái phân bố vị trí của dây chằng nha chu. Ở giai
đoạn này các sợi collagene không còn nối với nhau.
Sự định hướng khác nhau của các bó sợi collagene đối nghịch với lực ép, kéo
hoặc xoắn vặn tác động lên răng.

5.2. Kiểm soát vi chuyển động của răng:
Sự kiểm soát vi chuyển động của răng và sự duy trì toàn vẹn của nha chu được
đảm bảo bởi :
81
-Phương cách tái phối trí xương và xi măng : những pha đắp vào và tái hấp thụ
xen kẽ cho phép tái phân bố dây chăng nha chu một cách hợp vói chức năng khác
nhau tùy giai đoạn mà một răng phải chịu đựng.
-Bằng cách đổi mới liên tục sợi collagene: sự đổi mới này thực hiện đựoc là nhờ
quá trình suy thoái và tái tạo nguyên bào sợi diễn ra liên tục trong suốt đời của 1
răng. Quá trình đổi mới liên tục sợi collagene sẽ làm sợi Sharpey tái cấu trúc vị trí
trong khi răng thay đổi vị trí. Khi lực kéo hoặc ép phát sinh trong quá trình di
chuyển sinh lí hoặc phản ứng với thời gian và cường độ có thể chịu đựng được đối
với quá trình chuyển hoá của tế bào thì cấu trúc của nha chu được bảo tồn. Khi thời
gian và cường độ của lực vượt quá khả năng chịu đựng của tế bào sẽ đưa đến hậu
quả “trong suốt hoá” 1 vùng nha chu: đó là những khoảng trống không có tế bào, tế
bào bị huỷ hoại, phản ứng thứ cấp là sự xâm nhập các tế bào viêm, các đại thực bào
sẽ thực bào các xác tế bào bị huỷ hoại, sự kiện này dẫn đến sự tân sinh các mạch
máu và tái tạo mô trong trường hợp nguợc lại, vùng hoại tử có thể xuất hiện dẫn đến
1 vùng bệnh lí không hồi phục .
Sự gia tăng (hay sự khuyếch đại) những vi chuyển động của răng ngoài sự thích
nghi cho phép răng sẽ làm dung dịch ngoại bào ( chất căn bản – máu ) chảy vào nha
chu, điều này cũng làm giảm khả năng đệm của mô

nha chu đối với các lực ép nén .Sụ thay đổi lí hoá của chất căn bản cũng gây 1 phản
ứng dội lên sự biến dưỡng tế bào và lên các sợi collagene. Điều này làm thay đổi
lực nén, kéo. Sự ép lên răng sẽ làm co mạch, nguợc lại sự làm giảm áp lực nén sẽ
làm giãn mạch.
Sự thay đổi áp suất thẩm thấu, pH của máu cũng ảnh hưởng đến biến dưỡng tế
bào.

5.3. Sự dẫn truyền những kích thích ngoại lai và nội tại:
Sự dẫn truyền này theo dây thần kinh số V, một kích thích nhẹ có thể khởi phát
phản xạ há miệng: ví dụ sự hiện diện một vật nhỏ trong miệng mà bệnh nhân không
biết trước hoặc 1 vật rất nhỏ nằm giữa kẻ răng ngay khi vật đó chỉ vài m.
Tất cả những kích thích trực tiếp lên đầu tận cùng thần kinh nha chu đều bộc phát
đáp ứng đau, ngay cả những kích thích gián tiếp, bịt răng, trám răng, làm răng giả,
sang chấn răng.
Cuối cùng sự nhận biết về sự cứng, mềm của thức ăn một phần được nhận biết bởi
đầu thần kinh tận cùng của nha chu - điều này làm hàm có thể tự điều hoà được lực
nhai .

5.4. Góp phần của nha chu vào sự mọc răng:
82
Mọc răng là một quá trình bao gồm toàn bộ những sự kiện hướng răng mọc theo
trục chân răng .
-Pha tiền mọc răng gồm quá trình di chuyển mầm răng đến cung nướu, sự di
chuyển này được dánh giá bằng các diễn biến:
*Quá trình sinh ngà, khi mầm răng cùng với sự tăng trưởng của xương hàm trên
và xương hàm dưới, hình thành cung răng.
*Quá trình cấu trúc chân răng được hướng dẫn bởi mầm răng đến biểu mô miệng.
-Pha mọc răng tích cực liên quan đến sự chọc thủng của răng vào xoang miệng .
-Pha thụ động duy trì sự lấp đầy khoảng hở giữa các răng và mặt phẳng dọc đứng
.

Toàn bộ cơ chế mọc răng được xem là quá trình tái cấu trúc tế bào, mô và
mạch.Quá trình mọc răng được thực hiện một phần do lực kéo, một phần do lực ép.
Nhịp độ mọc răng phụ thuộc vào nhiều yếu tố :
+Dự gia tăng cấu trúc mô chân răng và vùng quanh răng .
+Áp lực máu .
+Áp lực của dịch mô quanh răng .
+Vai trò của các sợi nha chu .
+Khoảng trống ở trên .
+Sức cản cơ học .
Người ta cho rằng lực kéo của sợi collagene của dây chằng nha chu là quan trọng,
trong quá trình mọc răng, chiều dài của sợi collagene răng nướu giảm 10%.















×