Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN CỦA TỈNH BẠC LIÊU ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.57 KB, 8 trang )

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỰ
NHIÊN CỦA TỈNH BẠC LIÊU

Diện tích : 2.525,7 km2 (năm 2003)
Dân số : 797,7 nghìn người (năm 2005)
Tỉnh lị : thị xã Bạc Liêu
Mã điện thoại : 0781
Biển số xe : 94

Vị trí địa lý: Bạc Liêu là một tỉnh thuộc bán đảo Cà Mau. Tỉnh có
chung địa giới với tỉnh Hậu Giang, Kiên Giang ở phía Tây Bắc, Sóc
Trăng ở phía Đông Bắc, Cà Mau ở phía Tây Nam, phía Đông Nam giáp
biển Đông. Bạc Liêu có bờ biển dài 56km nối các biển như Gành Hào,
Nhà Mát, Cái Cùng.

Diện tích tự nhiên 2.525,7 km2 (số liệu năm 2003).

Dân số năm 2005 là 797,7 nghìn người, mật độ 316 người/km2.

Đơn vị hành chính: Bạc Liêu có 6 huyện: Hòa Bình, Vĩnh Lợi, Hồng
Dân, Giá Rai, Phước Long, Đông Hải và thị xã Bạc Liêu – trung tâm
hành chính của tỉnh.

Địa hình: Bạc Liêu có đia hình tương đối bằng phẳng, chủ yếu nằm ở
độ cao trên dưới 1,2m so với mặt biển, còn lại là những giồng cát và
một số khu vực trũng ngập nước quanh năm. Địa hình có xu hướng
dốc từ bờ biển vào nội đồng, từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Trên địa
bàn tỉnh có nhiều kênh rạch lớn như kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp,
Cạnh Đền, Phó Sinh, Giá Rai.

Khí hậu: Bạc Liêu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2


mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11. Mùa khô từ tháng 12
đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000 -
2.300 mm. Nhiệt độ trung bình 26 độ C. Số giờ nắng trong năm 2.500
– 2.600 giờ. Độ ẩm trung bình mùa khô 80%, mùa mưa 85%. Vùng
này ít chịu ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới; không chịu ảnh
hưởng trực tiếp của lũ lụt từ hệ thống sông Cửu Long, nhưng lại chịu
tác động mạnh của thủy triều biển Đông và một phần chế độ nhật
triều biển Tây.

Tài nguyên thiên nhiên:

Tài nguyên đất: tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 258.247 ha.
Trong đó, đất có khả năng trồng lúa, cây lâu năm, hoa màu và cây
công nghiệp hàng năm là 98.295 ha,chiếm 38,1% tổng diện tích đất;
đất có khả năng trồng rừng, nuôi tôm, làm muối 125.546 ha, chiếm
48,62%. Phần lớn đất đai của Bạc Liêu là đất phù sa bồi đắp lâu năm
và ổn định, thích hợp phát triển nền nông nghiệp toàn diện.

Tài nguyên rừng: Diện tích rừng và đất rừng chiếm 1,87% diện tích
đất tự nhiên, trong đó chủ yếu là rừng phòng hộ ( 4.657 ha). Rừng
Bạc Liêu là rừng ngập mặn, úng phèn, có năng suất sinh học cao, có
giá trị lớn về phòng hộ và môi trường. Cây trồng chủ yếu là tràm,
đước.

Tài nguyên biển: Bờ biển dài 56km, diện tích vùng biển 4 vạn km2.
trữ lượng tôm có thể đánh bắt hơn 10.000 tấn/năm. Trữ lượng cá
đáy và cá nổi hơn 100.000 tấn/năm, có thể trở thành nơi xuất, nhập
khẩu trực tiếp.

Bạc Liêu là một tỉnh thuộc duyên hải vùng đồng bằng sông Cửu

Long, miền Nam Việt Nam. Phía bắc giáp tỉnh Hậu Giang, phía đông
bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, tây bắc giáp Kiên Giang, tây và tây nam
giáp Cà Mau, đông và đông nam giáp biển với 56 km bờ biển. Tỉnh lỵ
hiện nay là Thị xã Bạc Liêu, cách Thành phố Hồ Chí Minh 280 km.

Diện tích, dân cư

Bạc Liêu có diện tích tự nhiên 2.520,6 km² và dân số năm 2004 là
ước tính khoảng 786.200 người với mật độ dân số 300,2 người/km².
Nếu so với 64 tỉnh, thành phố thì Bạc Liêu đứng thứ 40 về diện tích
và thứ 48 về dân số.
Trên địa bàn Bạc Liêu có 20 dân tộc, nhưng chủ yếu là người Kinh,
tiếp đến là người Khmer và người Hoa. Theo tài liệu tổng điều tra
dân số (1999) thì trong tổng số dân trên địa bàn Bạc Liêu, người
Kinh chiếm gần 90,0%; người Khmer chiếm 7,9%; người Hoa chiếm
3,1%; các dân tộc còn lại, mỗi dân tộc chỉ có dưới 100 người, thậm
chí chỉ có trên dưới một chục người.
Diện tích, dân cư qua các thời kỳ:
 1971: 2.559 km², 352.230 người1
 1996 (số liệu Tổng cục Thống kê): 2.487,1 km², 768.900 người
 1997: 2.485 km², 768.900 người
 1998: 2.485 km², 800.100 người
 1999 (Tổng điều tra dân số 1-4): 2.521 km², 736.325 người;
(Tổng cục Thống kê) 738.200 người (trung bình năm)
 2000 (Tổng cục Thống kê): 744.300 người
 2001: 2.485 km², 756.800 người
 2002: 768.300 người
 2003 (TĐBKQSVN): 2.520,63 km², 770.000 người
 2004 (Tổng cục Thống kê): 2525,7 km², 786.200 người (trung
bình năm)

Chú giải 1: Whitfield, D. Historical and Cultural Dictionary of
Vietnam. Metuchen, NJ: The Scarecrow Press, 1976.
Địa hình, thổ nhưỡng

Bạc Liêu là vùng đất trẻ, được hình thành chủ yếu do sự bồi lắng phù
sa ở các cửa biển tạo nên. Phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh là đất
bằng nằm ở độ cao trên dưới 1,2 m so với mặt biển, còn lại là những
giồng cát và một số khu vực trũng ngập nước quanh năm. Địa hình
có xu hướng thấp dần từ đông bắc xuống tây nam và khu vực nội
đồng thấp hơn vùng gần bờ biển. Trên địa bàn tỉnh có
nhiều kênh rạch lớn như kênh Quản Lộ-Phụng Hiệp, kênh Cạnh Đền,
kênh Phó Sinh, kênh Giá Rai. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch của Bạc
Liêu nối với biển bằng cửa Giành Hào, cửa Nhà Mát và cửa Cái Cùng.
Ngoài phần đất liền còn có vùng biển rộng 40.000 km². Biển Bạc Liêu
có tiềm năng hải sản tương đối lớn với 661 loài cá và 33 loài tôm,
cho phép đánh bắt mỗi năm 24-30 vạn tấn cá và khoảng 1 vạn tấn
tôm.

Đơn vị hành chính

Hiện nay, Bạc Liêu có 7 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thị xã
Bạc Liêu và 6 huyện (với 52 xã, phường và thị trấn) là:
 Phước Long
 Hồng Dân
 Vĩnh Lợi
 Giá Rai
 Đông Hải
 Hòa Bình (mới thành lập tháng 7 năm 2005)
Lịch sử


Tỉnh Bạc Liêu được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1900 theo Nghị
định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi
tất cả các hạt tham biện thành tỉnh, gồm 7 tổng: Long Thủy, Quảng
Xuyên, Quảng Long, Quảng An, Thạnh Hòa, Thạnh Hưng, Long Thới.
Trước kia Bạc Liêu tách từ tỉnh Hà Tiên ra. Địa bàn tỉnh Bạc Liêu khi
đó bao gồm cả tỉnh Cà Mau hiện nay.
Năm 1904, Bạc Liêu có 3 quận: Vĩnh Lợi, Cà Mau và Vĩnh Châu. Năm
1914, lập thêm quận Giá Rai. Năm 1947, quận Phước Long được
nhập từ tỉnh Rạch Giá, còn quận Cà Mau được tách ra thành 1 tỉnh
riêng.
Ngày 22/10/1956, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã nhập tỉnh Bạc
Liêu với tỉnh Sóc Trăng thành tỉnh Ba Xuyên. Tỉnh Bạc Liêu được tái
lập theo Sắc lệnh 245-NV ngày 8/9/1964, gồm 4 quận: Giá Rai,
Phước Long, Vĩnh Lợi và Vĩnh Châu, với 5 tổng, 17 xã. Dân số năm
1965 là 76.630 người.
Năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, hai tỉnh Bạc Liêu và An
Xuyên (Cà Mau) hợp nhất thành tỉnh Minh Hải. Ngày 6 tháng 11 năm
1996, tỉnh Minh Hải được chia thành hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau.
Hai tỉnh mới chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm
1997.

Văn hóa

Bạc Liêu xưa kia nổi tiếng là đất ăn chơi với nhiều giai thoại về "công
tử Bạc Liêu", bởi người dân xứ này có tư duy khoáng đạt, thích giao
lưu tìm bạn qua hội hè và qua sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Do cởi
mở và có phần sành điệu nên đất Bạc Liêu không chỉ giữ được đôi
chân phiêu lãng của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, tác giả bài Dạ cổ hoài
lang bất hủ, mà còn có sức hút mạnh mẽ đối với tầng lớp đại điền
chủ Nam Kỳ lục tỉnh vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20,

buộc họ phải đến đây xả túi xây cất dinh thự. Bởi thế, nhiều người
tới thị xã Bạc Liêu ngày nay đã không khỏi ngỡ ngàng khi nhìn thấy
tại nơi đất chua phèn ngập mặn tận cùng của đất nước lại có những
dãy nhà Tây sang trọng và đường bệ, khác hẳn những biệt thự Pháp
ở Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt. Đáng chú ý là những vật liệu chủ yếu trang
trí nội thất các biệt thự này như cửa và chấn song cửa, gạch và
đá cẩm thạch ốp tường hoặc lát nền đều được các đại điền chủ bỏ
công tốn của sang tận Paris mua về.

×