Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Mở rộng tín dụng tài trợ Xuất nhập khẩu tại Vietcombank - 3 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.67 KB, 10 trang )




+ Hàng hoá đã được cung ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng cho những khoản
thanh toán này.
+ Thời hạn thanh toán này tối đa là 180 ngày.
+ Không có quyền cấm chuyển nhượng các khoản thanh toán này của người nhập
khẩu hoặc nước nhập khẩu.
- Bao thanh toán từng phần (forfaiting): cũng là nghiệp vụ mua bán những khoản
thanh toán chưa tới thời hạn như factaring nhưng khác ở một số điểm sau:
+ Forfaiting chỉ bao những khoản thanh toán cụ thể riêng lẻ trong toàn bộ quá
trình XNK dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu riêng.
+ Thời hạn thanh toán của factoring tối đa là 6 tháng trong khi thời hạn đối với
forfaiting là 6 tháng đến 10 năm. Forfaiting được coi là hình thức tín dụng trung
và dài hạn.
+ Factaring phục vụ cho những hoạt động XNK không sử dụng tới tín dụng
chứng từ còn forfaiting lại dựa vào chúng và sự bảo đảm của ngân hàng.
* Tín dụng thuê mua
Thuê mua là hình thức tài trợ vốn, ra đời ở Mỹ vào năm 1952, sau đó nhanh
chóng thâm nhập vào Châu Âu đầu những năm 1960 và dần dần hiện nay đang
được các nước trên thế giới áp dụng.
Thuê mua là hình thức thuê tài sản dài hạn mà trong thời gian đó người cho thuê
chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người đi thuê sử dụng. Người
thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê và khi kết thúc
thời hạn họ có thể được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được mua lại tài sản thuê
hay là được quyền thuê tiếp. Điều này tuỳ thuộc vào thoả thuận của hai bên khi
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -



ký hợp đồng thuê. Có hai loại hình thức thuê mua. Đó là: cho thuê vận hành và


cho thuê tài chính.
- Cho thuê tai chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho
thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên đi thuê được chuyển quyền sở
hữu hoặc tiếp tục thuê khi kết thúc thời hạn thuê.
- Cho thuê vận hành: bên đi thuê thuê máy móc, thiết bị trong thời gian ngắn để
sử dụng vào mục đích tạm thời. Mọi rủi ro và lợi ích đem lại đối với quyền sở
hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc người cho thuê.
So với hình thức cho vay truyền thống, hình thức thuê mua này có những ưu
điểm sau:
+ Các doanh nghiệp sẽ không phải bỏ tiền mua thiết bị ngay lập tức mà trả tiền
thuê thiết bị theo định kỳ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn về
vốn để tập trung cho sản xuất. Hình thức này có ý nghĩa nhất đối với doanh
nghiệp không đủ vốn nhưng vẫn có thể đi thuê thiết bị thiết bị để sản xuất và
dùng một phần lợi thu được từ sản xuất để trả tiền thuê định kỳ.
+ So với đi vay ngân hàng, việc thế chấp để được thuê máy móc thiết bị đơn giản
hơn nhiều do thiết bị thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê trong suốt thừoi
gian thuê, nên khi bên thuê không trả được nợ, bên cho thuê có thể lấy lại toàn bộ
tài sản cho thuê. Ngày nay các ngân hàng thường lập công ty tài chính riêng để
hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp và làm phong phú thêm hoạt động của mình.
* Tài trợ bảo lãnh và tái bảo lãnh
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -



Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện trong các
thương vụ khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện hợp đồng). Từ đó
nảy sinh nhu cầu bảo lãnh để hạn chế rủi ro.
Trong mua bán quốc tế, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm chắc được khả năng tài
chính để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu. Do vậy, nhà xuất
khẩu sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức thường là ngân hàng đứng ra

bảo lãnh thanh toán. Ngược lại, do không biết rõ hoặc không tin tưởng nhau, nhà
nhập khẩu có thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh giao hàng
hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Ngân hàng nhận bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng, dùng để vay vốn nước
ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng tài chính. Trách nhiệm
của ngân hàng bảo lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong
trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đủ nghiệp vụ nào đó với nước
bên ngoài.
Bảo lãnh cũng có nhiều hình thức khác nhau:
+ Mở thư tín dụng trả chậm
+ Ký bảo lãnh hay ký chấp nhận trên các hối phiếu
+ Phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài
+ Lập giấy cam kết trả nợ với nước ngoài .
Các lợi thế của các bên liên quan trong nghiệp vụ này
- Đối với nhà nhập khẩu (bên được bảo lãnh): được hưởng một khoản vốn của
bên xuất khẩu mà không phải trả lãi (thực chất có thể giá bán đã tính lãi rồi) chi
trả một khoản phí cho người bảo lãnh.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -



- Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toàn yên tâm rằng đến hạn sẽ được thanh toán nợ.
Nếu cần tiền, nhà xuất khẩu cũng có thể đem bộ chứng từ chiết khấu tại một ngân
hàng khác để đáp ứng nhu cầu vốn của mình.
- Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bất kì ngân hàng nào, khi tiến hành bảo lãnh,
nghĩa là được sự tín nhiệm, được sự tin tưởng về phía bên xuất khẩu, bên nhập
khẩu. Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chỉ cho vay trừu tượng nghĩa là
ngân hàng không bỏ ra một khoản vốn nào cả, mà chỉ lấy uy tín, danh dự của
ngân hàng ra cho vay, làm cơ sở cho vay.
Thủ tục bảo lãnh cho vay ngắn hạn theo phương thức cho vay thông thường

nghĩa là khi bảo lãnh cho khách hàng thì khách hàng phải có mục đích xin vay,
có khả năng thanh toán và có tài sản thế chấp. Khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu
không có đủ khả năng thanh toán, thì cần phải làm thủ tục xin vay tại ngân hàng.
Như vậy, mục đích bảo lãnh đã được thực hiện, nghĩa là ngân hàng bảo lãnh
muốn khách hàng của mình vay nhằm thu thêm được một khoản lãi, có khách
hàng mới về mặt tín dụng và chi phí bảo lãnh.
3. Rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK của ngân hàng thương mại
Rủi ro trong hoạt động tín dụng tài trợ XNK là một dạng rủi ro trong hoạt
động của ngân hàng thương mại. Đó là những biến cố bất thường, không mong
đợi xảy ra, dẫn đến tổn thất cho ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường với xu
hướng toàn cầu hoá ngày càng rõ rệt và quan hệ thương mại quốc tế ngày càng
được mở rộng thì đồng thời hoạt động XNK cũng đồng thời cũng phát triển với
quy mô ngày càng lớn. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy lợi
thế của các quốc gia trong quan hệ kinh tế đối ngoại với các quốc gia khác. Tuy
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -



nhiên, cùng với sự gia tăng của hoạt động XNK thì vai trò của ngân hàng trong
việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong hoạt động XNK ngày càng lớn, và cũng
do vậy những rủi ro với các ngân hàng cũng ngày càng lớn hơn. những rủi ro tín
dụng tài trợ XNK là rất đa dạng và khó quản lý. Bởi vì khác với hoat động tín
dụng thông thường, hoạt động tín dụng tài trợ XNK chịu tác động của nhiều yếu
tố ngẫu nhiên, bất ngờ khó nắm bắt như: tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới,
các cuộc khủng hoảng kinh tế chính trị ảnh hưởng rất lớn đến các quan hệ kinh tế
đối ngoại, tác động trực tiếp đến tâm lý, nhu cầu cũng như nguồn cùn cấp các
mặt hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, các yếu tố liên quan đến tỷ giá, yếu tố thời vụ
cũng ảnh hưởng đến giá trị hàng hoá XNK, qua đó tác động xấu đến hoạt động
của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến lợi ích của ngân hàng, dẫn tới tổn thất cho
ngân hàng và nền kinh tế.

Như chúng ta đã biết,trong quan hệ XNk thường luôn có một phía đối tác
nước ngoài, và như vậy, các doanh nghiệp kinh doanh XNK trong nước cũng như
ngân hàng tài trợ rất khó nắm bát được tất cả các thông tin cần thiết về đối tác
một cách chính xác. Do đó, khả năng xảy ra rủi ro đã xảy ra thì tổn thất không
thể tránh khỏi đối với doanh nghiệp cũng như ngân hàng. Mặc dù, về nguyên tắc
trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và đơn vị được tài trợ luôn có những
điều khoản quy định roc ràng quyền hạn của ngân hàng cũng như trách nhiệm
của doanh nghiệp, các điều khoản này nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh
nghiệp và sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả. Đông thời đơn vị được tài trợ
cũng luôn phải có tài sản thế chấp đảm bảo khoản vay. Tuy nhiên, những tài sản
thế chấp này lại chính là lô hàng đó. Thậm chí ngay cả khi hợp đồng XNK hàng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -



hoá của doanh nghiệp là hoàn hảo và doanh nghiệp thực hiện hợp đồng một cách
suôn sẻ thì rủi ro vẫn có thể xảy ra do sự vi phạn các điều khoản trong hợp đồng
tín dụng, ngay cả khi các đơn vị được tài trợ hoàn toàn có khả năng thực hiện các
cam kết đó.
Xét một cách tổng thể, ta có thể thấy rằng, rủi ro trong tín dụng tài trợ
XNK cũng giống ngư của tín dụng ngân hàng nói chung nó luôn là một yếu tố bất
lợi, tiềm ẩn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, với hậu quả không thể lường trước được.
Vị vậy, đòi hỏi các ngân hàng phải tìm ra biện pháp phòng ngừa, hạn chế tối đa
rủi ro và thiệt hại có thể xảy ra. Muốn vậy các ngân hàng phải têưjc hiện có hiệu
quả trong việc tìm hiểu thông tin về đối tác, về thị trường, về dự báo và đưa ra
các biện pháp phòng ngừa rủi ro.
Các biện pháp phải được thiết lập một cách đồng bộ và phải được thưc
hiện một cách nghiêm túc và có sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng chuyên
trách. Có như vậy mới có thể thực hiện tốt được công tác phòng ngừa ruỉ ro, hạn
chế tối đa tổn thất, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động XNK nhằm tăng nguồn

thu ngoại tệ cho đất nước, đổi mới công nghệ, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân
hàng thương mại ở Việt Nam
Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ đến cả ngân hàng và khách hàng mà nó
phục vụ, các chính sách cho vay phải được phác hoạ một cách cẩn thận sau khi
đã xem xét nhiều yếu tố. Sau đây là một số yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến
tín dụng tài trợ XNK của NHTM.
4.1. Chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -



Các hoạt động kinh tế nói chung và XNK nói riêng chịu tác động rất lớn bởi
chính sách chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước.
- Về mặt tích cực: chính sách vĩ mô của Nhà nước có thể tạo điều kiện cho vay
XNK của ngân hàng được mở rộng và phát triển. Nếu Nhà nước dùng chính sách
tiền tệ mở rộng thì NHTM được cấp thêm vốn dự trữ, khả năng cho vay của ngân
hàng sẽ gia tăng. Các ngân hàng có thể có chính sách cho vay tự do hơn. Chính
sách lãi suất linh hoạt, lãi suất thực dương luôn là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Hoạt động tín dụng tài trợ XNK chủ yếu diễn ra theo hình
thức cho vay bằng ngoại tệ. Vì vậy nếu Nhà nước cho phép tập trung ngoại tệ vào
ngân hàng, quản lý ngoại tệ một cách chặt chẽ thì ngân hàng sẽ có nhiều nguồn
ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập máy móc, thiết bị, nguyên liệu của nhà nhập khẩu.
- Về mặt tiêu cực: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có thể gây ra nhiều rủi
ro cho hoạt động tín dụng XNK của ngân hàng. Nếu Nhà nước không có chiến
lược hướng về xuất khẩu thì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp XNK
rất hạn chế. Từ đó dẫn đến hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ ít đi lợi nhuận
của ngân hàng sẽ giảm xuống. Khi Nhà nước áp đặt một hàng rào thuế quan, phi
thuế quan thì nó sẽ dẫn đến tăng giá của một số loại hàng nhập khẩu, lượng hàng
nhập khẩu giảm dẫn đến nhu cầu vay vốn giảm.

Ngoài ra, việc thay đổi nhỏ trong chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái cũng tác
động không ít đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của Ngân hàng. Môi trường
pháp không ổn định, cơ chế chính sách hay thay đổi làm ảnh hưởng đến chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng
ngân hàng. Đây chính là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho các NHTM.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -



4.2. Môi trường kinh tế chính trị, xã hội trong và ngoài nước
Đất nước, khu vực mà có nền kinh tế bị rơi vào khủng hoảng hoặc luôn luôn bị
chao đảo, biến động mạnh về kinh tế, chính trị dễ dẫn đến hoạt động tín dụng của
Ngân hàng bị thu hẹp. Ngược lại, nếu kinh tế ổn định sẽ dẫn đến chính sách cho
vay tự do hơn. Thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở khu vực
Đông Nam á đã chứng minh điều đó. Tất cả hoạt động của các ngành các lĩnh
vực của các quốc gia trong khu vực, đặc biệt hoạt động của hệ thống ngân hàng
đã bị ảnh hưởng sâu sắc. Hàng loạt ngân hàng của Hàn Quốc, Nhật Bản,
Malaysia bị tàn phá do không thu lại được các khoản nợ, không cho vay được để
bù đắp chi phí khi nhu cầu tín dụng của khu vực giảm.
Tình hình chính trị xã hội chiến tranh cũng như thiên tia, dịch hoạ cũng là một
trong những nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng đối với các khoản cho vay
của Ngân hàng.
4.3. Khả năng ý thức thanh toán của doanh nghiệp XNK
Nhu cầu tín dụng của ngân hàng là yếu tố quyết định đến hoạt động tín dụng
ngân hàng được mở rộng hay thu hẹp. Song nếu có nhu cầu vay vốn để nhập máy
móc thiết bị từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu nhưng khả năng hoàn trả
của doanh nghiệp không cao thì ngân hàng cũng sẽ không cho vay. Mặt khác, khi
ngân hàng cấp vốn cho vay các doanh nghiệp XNK, nhưng vì một nguyên nhân
nào đó các ngân hàng này gặp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh (bị
huỷ bỏ hợp đồng, hàng bị mất cắp giảm giá trị ) làm cho họ không thu hồi đủ

vốn để trả lại các khoản vay cho ngân hàng. Đối với ngân hàng khi mà có quá
nhiều khách hàng đến hạn trả mà khôn có khả năng thanh toán hoặc cố ý chây ỳ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -



thiếu ý thức tôn trọng các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thì
ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán của mình thậm chí ngân hàng còn rơi vào
tình trạng phá sản.
Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của doanh nghiệp
hoạt động XNK nói riêng với thái độ ý thức thanh toán của doanh nghiệp sẽ thúc
đẩy hay kìm hãm hoạt động tín dụng của ngân hàng.
4.4. Năng lực cho vay của ngân hàng
Khả năng huy động vốn của năng lực cho vay phụ thuộc vào vốn tự có của ngân
hàng. Do đó nếu doanh nghiệp kinh doanh XNK có nhu cầu vốn lớn, trong khi
nguồn vốn của ngân hàng nhỏ thì sẽ không thoả mãn yêu cầu của doanh nghiệp.
Tín dụng XNK của NHTM gắn liền với nguồn vốn ngoại tệ. Do đó làm thế nào
để huy động đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp nhập khẩu đang
là vấn đề lớn đối với nhiều NHTM.
4.5. Các nhân tố khác
Trình độ quản lý kinh doanh, quản lý vốn cũng như trình độ chuyên môn của đội
ngũ nhân viên tín dụng không phải là không có ý nghĩa đối với hoạt động cho
vay XNK của ngân hàng. Với một đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, có trình độ
trong thẩm định dự án, xem xét đơn vay vốn của khách hàng thì chất lượng tín
dụng sẽ cao và ngược lại.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHTM cũng luôn phải đối mặt
với rủi ro lãi suất hay tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động, sự
biến động này có thể diễn ra hàng ngày. Nếu tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ khuyến
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -




khích cả nhập khẩu và xuất khẩu, tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung và hoạt
động kinh doanh của ngân hàng nói riêng sẽ phát triển.
Hoạt động cho vay của ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Có
nhân tố tác động tích cực khuyến khích mở rộng hoạt động cho vay. Song cũng
có không ít những nhân tố kìm hãm, gây rủi ro cho hoạt động này của ngân hàng.
Các ngân hàng khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp XNK phải lường trước mọi rủi
ro có thể xảy ra trong hoạt động ngoại thương để từ đó có những quyết định đúng
đắn, kịp thời, đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Chương II: Thực trạng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng
ngoại thương Hà Nội.
1. Khái quát về NHNT Hà Nội
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNT Hà Nội
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh TP Hà Nội (gọi tắt là NHNT Hà
Nội) được thành lập theo quyết định số 177/QĐ/NH ngày 22 tháng 12 năm 1984
của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (nay là Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam), chính thức đi vào hoạt động từ 01/ 03/1985 theo sự
quản lý và phân công của NHNT Việt Nam.
NHNT Hà Nội là một tổ chức tài chính có tư cách pháp nhân, thực hiện hạch toán
kế toán và kinh tế thống nhất trong hệ thống NHNT Việt Nam, hoạt động theo
nguyên tắc tự chủ về tài chính, đảm bảo và phát triển vốn, tự bù đắp chi phí và tự
chịu rủi ro.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×