Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Thế nào là kinh tế tri thức? Tại sao đẩy mạnh CNH, HĐH phải gắn liền với nền kinh tế tri thức?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.89 KB, 22 trang )

Nhóm 3: Trần Huy Thái
Ngô Minh Hoàng
Bùi Văn Huy
Lê Thương Tính
Lê Văn Tiến
Dương Hữu Tiệp
Câu 1: Thế nào là kinh tế tri thức? Tại sao đẩy mạnh CNH, HĐH phải gắn liền với
nền kinh tế tri thức?
Khái niệm:
Khái niệm kinh tế tri thức ra đời từ năm 1995 do Tổ chức OPCD nêu ra "Nền kinh tế tri
thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố
quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống". Sau đó, năm 2003 chương trình "Tri thức vì sự phát triển" đã đưa ra một khái niệm
rộng hơn: "Là nền kinh tế sử dụng một cách hiệu quả tri thức cho sự phát triển KT-XH.
Điều này bao gồm việc chuyển giao, cải tiến công nghệ nước ngoài cũng như sự thích
hợp hoá và sáng tạo hoá các tri thức cho những nhu cầu riêng biệt". Theo Giáo sư, Viện
sĩ Đặng Hữu - Trưởng ban Công nghệ thông tin thì "Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong
đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển
kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống".
Theo định nghĩa của WBI - là "nền kinh tế dựa vào tri thức như động lực chính
cho tăng trưởng kinh tế. Đó là nền kinh tế trong đó kiến thức được lĩnh hội, sáng tạo, phổ
biến và vận dụng để thúc đẩy phát triển". Tại hội thảo, Jean-Eric Aubert, chuyên gia hàng
đầu của WBI, nói cụ thể hơn: "Phải phân biệt đó không phải là nền kinh tế dựa vào công
nghệ và viễn thông! Kinh tế tri thức là đặt tri thức, sáng tạo và các chính sách liên quan
đến chúng vào trọng tâm của chiến lược phát triển cho tất cả các nước ở nhiều mức độ
phát triển khác nhau"
Như vậy, kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất của thế kỷ 21. Đặc trưng của nền
kinh tế tri thức là thị trường chất xám. Trong đó, con người là vốn quý nhất. Tri thức là
yếu tố quyết định của sản xuất, sáng tạo đổi mới là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Công nghệ mới trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng suất,
chất lượng, công nghệ thông tin được ứng dụng một cách rộng rãi. Muốn nâng cao năng


suất lao động xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm phải có tri thức, phải làm chủ được
tri thức, phải biết vận dụng, quản lý tri thức mới có thể cạnh tranh và đồng thời đảm bảo
phát triển bền vững.
Có người còn cho rằng: Kinh tế tri thức là hình thái phát triển cao nhất hiện nay
của nền kinh tế hàng hóa, trong đó công thức hoạt động cơ bản Tiền-Hàng-Tiền được
thay thế bằng tiền – tri thức – tiền và vai trò quyết định của tri thức.
1
Vậy kinh tế tri thức là gì? Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra,
phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra
của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tại sao đẩy mạnh CNH, HĐH phải gắn với phát triển kinh tế tri thức:
Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của khoa học – công
nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu,…
nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chứ năng và phương
thức hoạt động.
Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển
là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới về khoa học, công nghệ,

Một ngành kinh tế có thể coi là đã trở thành ngành kinh tế tri thức khi giá trị do tri
thức tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo (khoảng 70 %) trong tổng giá trị sản xuất của ngành đó.
Một nền kinh tế được coi là đã trở thành nền kinh tế tri thức khi tổng sản phẩm các ngành
kinh tế tri thức chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước (GDP).
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn
quý nhất, là nguồn lực hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có
những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng. Trong đó các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa
vào các thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ ngày càng tăng, ngày càng chiếm đa
số.
Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi
lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương diện được phủ khắp cả nước,

nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành nguồn tài nguyên quan
trọng nhất của nề kinh tế.
Trong nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực nhanh chống được tri thức hóa, sự sáng
tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển con
người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu
hóa kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêtu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã
hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
Chính vì thế đối với nước ta, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên
CNXH, nhất thiết phải trải qua CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, CNH-HĐH
là động lực phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh-quốc
phòng và là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia
một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
2
Trong quá trình CNH-HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi sau, có thể học hỏi
được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước và có cơ hội rút ngắn thời gian
thực hiện quá trình này. Trước đây, nước Anh thực hiện CNH đầu tiên, phải mất 120
năm; nước Mỹ đi sau, chỉ mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản xuống còn 70 năm; và các
nước công nghiệp mới (NICs) có hơn 30 năm. Việt Nam thực thực hiện quá trình này
trong bối cảnh loài người đang bắt đầu chuyển sang phát triển kinh tế tri thức (KTTT),
với sự bùng nổ của tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ gen, công nghệ nano,
công nghệ vật liệu mới đúng như tiên đoán của C. Mác và Ph. Ăng-ghen từ giữa thế kỷ
XIX: ''Tri thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp''. Đây chính là cơ hội lịch sử
hiếm hoi mà thời đại tạo ra để các nước đi sau như Việt Nam rút ngắn khoảng cách và
đuổi kịp các nước đi trước. Việc chuyển nền kinh nước ta sang hướng phát triển dựa vào
tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết không thể trì hoãn.
Tại Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận điểm quan trọng về
phát triển KTTT ''Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt
để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những
sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và

trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát
triển kinh tế- xã hội, từng bước phát triển KTTT ở nước ta''. Tới Đại hội X, việc phát
triển KTTT được thể hiện rõ với tư cách là một yếu tố cấu thành đường lối CNH-HĐH
đất nước: ''Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế
của nước ta để rút ngắn quá trình CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với
phát triển KTTT, coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH-HĐH. Phát
triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức;
kết hợp việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân
loại”. Và Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý giữa chiều
rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, Đảng ta tiếp
tục khẳng định: ''phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển KTTT, góp phần tăng nhanh năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất
nước”.
Do đó phải kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, với các đề
xuất sau:
Một là, xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh,
lấy đây là đầu tàu, là mô hình tiêu biểu cho phát triển công nghệ của cả nước và là nơi thu
hút, nuôi dưỡng công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
Hai là, đẩy nhanh quá trình xây dựng thị trường khoa học-công nghệ theo hướng mọi tri
thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận lợi trên thị trường, được
nuôi dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh bình đẳng.
3
Ba là, sử dụng công cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bỏ qua các
thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao.
Bốn là, tạo môi trường thuận lợi để các tập đoàn xuyên quốc gia không chỉ đầu tư xây
dựng cơ sở sản xuất mà còn xây dựng cả cơ sở đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực chất lượng
cao, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp.
Năm là, khuyến khích du học sinh ra nước ngoài học tập và có chính sách đãi ngộ thích

đáng để thu hút số du học sinh này về nước làm việc hay lập nghiệp.
Sáu là, cần có một chiến lược phát triển khoa học-công nghệ với những bước đi thích
hợp. Ở giai đoạn đầu, hướng về sự tiếp cận, tiếp thu, chuyển giao công nghệ mới, trong
đó ưu tiên xây dựng các khu công nghệ cao cấp vùng để thu hút công nghệ mới. Hình
thành một số cơ sở nghiên cứu-ứng dụng đủ sức tiếp thu, cải tiến công nghệ và sáng tạo
công nghệ mới gắn sản xuất kinh doanh. Giai đoạn tiếp theo sử dụng cơ chế tài chính
khuyến khích đối tác nước ngoài hợp tác với cơ sở trong nước trong phát triển công nghệ
mới. Trên nền tảng đó, tạo ra năng lực nghiên cứu nội sinh giúp các nhà khoa học và cơ
sở sản xuất trong nước tiến tới vận dụng và làm chủ những công nghệ và tri thức mới của
nhân loại.
Câu 2: Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc đẩy mạnh CNH, HĐH
gắn liền với phát triển kinh tế tri thức?
Thuận lợi: Nước ta tiến hành CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trong
điều kiện rất thuận lợi đó là, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước đã hình thành và bước đầu có sự phát triển nguồn
nhân lực - vật chất được tăng cường, mức độ sống của nhân dân dần được ổn định, sản
lượng lương thực thực phẩm đã tăng đáng kể, nền kinh tế bắt đầu tích lũy, vốn đầu tư
toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP, đến năm 1995 lên 27,4% GDP, sự nghiệp giáo
dục của đất nước có nhiều tiến bộ cải tiến, trình độ dân trí được tăng lên, sự lãnh đạo của
Đảng và nhà nước có thêm kinh nghiệm, tự do quan hệ bên ngoài, sau khi Mỹ bãi bỏ lệnh
cấm vận và nước ta lại nằm trong khu vực đang phát triển mạnh lôi kéo sự đầu tư của
khắp thế giới. Nguồn nhân công của nước ta dồi dào, phong phú, nhân dân ta có truyền
thống ham học hỏi kinh nghiệm và tiếp thu công nghệ tiên tiến. Đặc biệt hiện nay nền
chính trị xã hội trên thế giới nhìn chung đang trong thời kỳ ổn định, các nước phát triển
tiến hành chuyển giao khoa học kỹ thuật cho những nước đang phát triển. Và nước ta có
nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, điều kiện khí hậu thuận lợi cho con người sínhinh
sống phát triển,…
Khó khăn: Xuất phát điểm của nước ta khi tiến hành CNH, HĐH là một nước
nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, và chịu ảnh hưởng tàn phá của chiến tranh nặng nề. Nền
kinh tế nước ta được xếp vào chậm phát triển, lạm phát còn chưa được hạn chế, nguồn

vốn hạn hẹp mà phải đương đầu với cuộc cạnh tranh quyền lực về kinh tế và thương mại,
tình hình quốc phòng an ninh còn phức tạp, công tác giáo dục và đào tọa, nghiên cứu và
phát triển chưa đạt theo yêu cầu. Đọi ngũ cán bộ còn yếu, bố trí sử dụng chưa hợp lý, bộ
4
máy nhà nước và Đảng cùng các đoàn thể còn cồng kềnh, kém hiệu lực, tình trạng quan
liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng.
Câu 3: Trong các giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức
thì giải pháp nào được Đảng ta đặt lên hàng đầu? Vì sao?
Giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức được Đảng ta
đặt lên hàng đầu là : Chủ động phát huy năng lực sáng tạo tri thức ở trong nước, đồng
thời tranh thủ cơ hội tiếp thu tri thức thế giới.
Bởi vì: trong điều kiện chưa có đủ nguồn lực để phát triển kinh tế tri thức lên ngay
trình độ cao ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đẩy mạnh hợp tác
về công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, trên cơ sở cùng có lợi. Qua hội nhập và hợp tác
cùng với việc gửi đi nâng cao trình độ ở nước ngoài, các chuyên gia Việt Nam từng
bướcc trưởng thành, có thể chủ động trong ứng dụng các công nghệ cao và tiến tới sáng
tạo tri thức mới rất cần thiết cho CNH, HĐH ở trình độ cao. Nhiều ví dụ trong công
nghiệp điện tử, trong thiết lập mạng viễn thông quốc gia, trong công nghiệp chế biến
nông sản phẩm, trong chế tạo trang thiết bị cơ điện tử,… đã cho thấy kết quả tốt và đạt
bước tiến nhanh rõ rệt.
Câu 4: Trình bày những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển kinh tế biển ở
nước ta?
Những thuận lợi:
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa ẩm, có đường bờ biển dài hơn
3260 km từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang), trong vùng biển Việt
Nam có trên 400 hòn đảo lớn nhỏ, là nơi có thể cung cấp các dịch vụ hậu cần cơ bản,
trung chuyển sản phẩm khai thác, đánh bắt, đồng thời làm nơi neo đậu cho tàu thuyền
trong những chuyến ra khơi; chủng loại sinh vật đa dạng và phong phú với khoảng 510
loài cá trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao.
Sự ổn định chính trị - xã hội là nền tảng vững chắc tạo ra môi trường thuận lợi cho

phát triển kinh tế xã hội, công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đang chuyển sang giai
đoạn phát triển cao theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhà nước quan tâm đầu tư
cho ngành thủy sản ngày một phát triển.
Nghề khai thác thủy sản đã được hình thành từ lâu. Nguồn lao động có kinh
nghiệm đánh bắt và nuôi trồng, giá nhân công thấp hơn so với khu vực và thế giới. Ngành
thủy sản có thị trường ổn định, sản phẩm có giá trị kinh tế cao, có khả năng tích lũy mở
rộng sản xuất.
Nhu cầu trên thế giới ngày càng tăng, thị trường ngày càng mở rộng. Khoa học và
công nghệ phát huy có tác dụng thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, có thể tạo ra các
bước đột phá mới về giống, nguyên liệu, nhất là trong việc tạo luận cứ cho việc phát triển
bền vững trong nhiều năm tới.
Những khó khăn:
5
Công nghiệp hóa hiện đại hóa đang là nhu cầu bức bách đối với các hoạt động
đánh bắt nuôi trồng thủy sản, chế biến hàng thủy sản. Việc tổ chức đánh bắt xa bờ còn
tồn tại nhiều vấn đề: điều tra nguồn lợi, xác định ngư trường, mùa vụ đối tượng đánh bắt,
trang bị nghề khai thác, cỡ loại tàu thuyền đối với từng nghề. Các phương tiện đánh bắt
cá đặc biệt là đánh bắt xa bờ còn khá lạc hậu, tàu thuyền công suất thấp, khả năng neo
đậu trú bão chưa ổn định trong tình trạng thời tiết biến đổi thất thường. Hệ thống cơ sở hạ
tầng, bến cá, chợ cá quy mô còn nhỏ chưa đáp ứng được công tác hậu cần đánh bắt cá
quy mô lớn.
Vấn đề phát triển kinh tế xã hội vùng biển còn khó khăn, trình độ dân trí thấp,
chuyển đổi cơ cấu vùng ven biển còn chậm. Trình độ công nghệ trong khai thác, nuôi
trồng, chế biến nhìn chung còn lạc hậu, dẫn đến năng suất thấp giá thành cao, khả năng
cạnh tranh trong hội nhập còn nhiều khó khăn và thách thức. Công tác bảo vệ nguồn lợi
thủy sản còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế do ý thức chấp hàng luật pháp của dân chưa
cao.
Công tác nghiên cứu khoa học và nghiên cứu sản xuất các loài giống thủy sản có
giá trị kinh tế cao cũng như áp dụng những thành tựu khoa học thế giới vào sản xuất con
giống, thức ăn và các giải pháp phòng trị bệnh còn yếu, nên hiệu quả sản xuất còn hạn

chế.
Hoạt động sản xuất vẫn còn mang tính tự cấp, tự túc, công nghệ sản xuất thô sơ,
lạc hậu, sản phẩm tạo ra chất lượng chưa cao. Bên cạnh đó, ngư dân còn gặp nhiều khó
khăn do điều kiện địa hình và thủy vực phức tạp, hàng năm có nhiều mưa, bão, lũ gây ra
nhiều tổn thất to lớn. Cuộc sống của người dân lao động trong nghề vẫn còn nhiều vất vả,
bấp bênh do đó không tạo được sự gắn kết với nghề.
Khả năng dự đoán tình hình thời tiết còn thiếu tính chính xác và kịp thời, hơn nữa
khả năng truyền thông, truyền tin liên lạc còn khá hạn chế, bên cạnh đó công tác phòng
vệ bảo đảm an toàn tính mạng của ngư dân đánh bắt xa bờ còn chưa hoàn thiện. Với tình
hình thời tiết trên biển ngày càng biến đổi thất thường, ngư dân cần có những thông tin
chính xác và kịp thời để đối phó, ứng biến kịp thời với những đe dọa từ biển cả, đe dọa
nguy hiểm đến tính mạng của các ngư dân, đặc biệt là những ngư dân đánh bắt xa bờ.
Thị trường ngày càng khắt khe hơn với yêu cầu vệ sinh và chất lượng cùng với
những quy định chặt chẽ về quản lý sẽ là bất lợi đối với Việt Nam. Nguồn lao động tuy
đông nhưng trình độ văn hóa kỹ thuật chưa cao, lực lượng được đào tạo chiếm tỷ lệ nhỏ,
hầu hết chỉ dựa vào kinh nghiệm do đó khó theo kịp sự thay đổi của điều kiện tự nhiên và
nhu cầu thị trường.
Hoạt động hỗ trợ vốn vay cho ngư dân còn hạn chế, việc này gây ra nhiều khó
khăn cho người dân trong việc đầu tư vào các phương tiện đánh bắt cá. Bên cạnh đó, tình
trạng ép giá hay nói cách khác giá cả thu mua chưa thực sự phù hợp theo mùa vụ của các
doanh nghiệp cũng gây khó dễ cho ngư dân trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm với giá cả
hợp lý. Công tác bảo hiểm tàu thuyền và bảo hiểm thân thể cho người dân đánh bắt còn
nhiều hạn chế.
Ý thức về những hiểm nguy từ biển cả cũng như sự cần thiết của tính đoàn kết của
người dân còn chưa cao, đặc biệt là những ngư dân đánh bắt xa bờ luôn đặt đặt mình
trong tình trạng nguy hiểm trong điều kiện thời tiết thất thường như hiện nay.
6
Từ đó ta cần có các giải pháp

Về phía Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương

Nhà nước chỉ đạo, bộ, ngành phối hợp và đề ra cách chính sách để đầu tư phát
triển và nâng cao hiệu quả đánh bắt xa bờ. Khuyến khích các thành phần kinh tế có kinh
nghiệm sản xuất, có năng lực tài chính, có khả năng quản lý, đóng tàu công suất lớn, hiện
đại có đủ điều kiện hậu cần dịch vụ, thông tin liên lạc, neo đậu trú bão, dự báo ngư
trường để bám biển dài ngày và khai thác các đối tượng có giá trị kinh tế cao để xuất
khẩu. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, bến cá, chợ cá đủ sức làm công tác hậu cần dịch
vụ đánh bắt hải sản có quy mô lớn, tránh đầu tư lẻ tẻ. Hoàn chỉnh ngành công nghiệp hỗ
trợ như cơ khí điện lạnh, đóng sửa tàu thuyền, sản xuất vật liệu, bao bì.
Các cấp chính quyền cần chú trọng xây dựng các cơ sở chế biến thủy sản với công
nghệ hiện đại, sản phẩm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chất lượng vệ sinh và an toàn thực
phẩm theo yêu cầu quốc tế. Tập trung vào các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ,
nghiên cứu ứng dụng, nhập công nghệ và nghiên cứu phát triển công nghệ sản xuất giống
để chuyển giao cho người dân sản xuất đại trà các loại giống có giá trị kinh tế cao.
Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ đầu tư cho các khu vực nghề cá thương mại tham
gia vào phát triển nghề cá xa bờ với sự ưu đãi trong vốn vay. Xây dựng các chính sách
liên quan đến bảo lãnh tín dụng cho nuôi trồng thủy sản, lấy tài sản hình thành làm thế
chấp và tín chấp cho vay lần đầu tạo vốn lưu động. Để từng bước nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư, đây là vấn đề mang tính thời sự, ngành thủy sản Việt Nam cũng có vấn
đề nan giải trong việc sử dụng vốn hợp lý và có hiệu quả. Việc đầu tư ồ ạt và thiếu thận
trọng vào khai thác xa bờ trong thời gian qua là một bài học kinh nghiệm trong việc sử
dụng vốn hợp lý. Để thu hút vốn chúng ta tiến hành đầu tư theo chương trình cụ thế. Tuy
nhiên, do sự phức tạp của sản phẩm thủy sản mà mỗi chương trình lại liên quan đến rất
nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy cần phân bố các chương trình lớn thành các chương
trình nhỏ, lẻ một cách hợp lý để giúp đỡ ngư dân một cách tốt nhất. Ví dụ, đối với
chương trình đánh bắt xa bờ, cần phân bố thành các nhóm chương trình: đóng mới tàu
thuyền, nâng cao công suất tàu thuyền; chương trình cải tiến nâng cấp hệ thống cơ sở hạ
tầng phù hợp với trọng tải và công suất khai thác, chương trình tìm kiếm mô hình đánh
bắt phù hợp, Nhờ sự phân bố đó chúng ta có thể thấy được những gì cần làm ngay,
công việc nào tiếp theo công việc nào, tập trung vốn cho công việc nào trước mắt.
Chú trọng công tác an ninh để đảm bảo sự an toàn của ngư dân đánh bắt xa bờ.

Việc đánh bắt xa bờ luôn tiềm tàng nhiều mối đe dọa với những ngư dân, đặc biệt vào
thời gian gần đây thường xuyên xuất hiện nhiều cơn bão và áp thấp. Do đó, các cấp chính
quyền cần chú trọng công tác truyền thông liên lạc cũng như triển khai những cuộc tập
dợt phối hợp giữa bộ đội biên phòng và ngư dân để sẵn sàng đối phó với những tình
huống xấu nhất.
Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương cần triển khai hiệu quả công tác
nâng cao nhận thức của người dân về các vấn đề biển đảo, sản xuất cũng như các mối
hiểm họa từ biển cả.
7

Về phía doanh nghiệp
Đa dạng hóa các sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực của
các nhà máy chế biến, giúp cho việc cung cấp thủy sản xuất khẩu được thực hiện một
cách liên tục, phong phú và chất lượng cao. Qua đó nâng cao uy tín về chất lượng sản
phẩm và cũng là một biện pháp để duy trì, mở rộng thị trường.
Hỗ trợ ngư dân trong việc đầu tư vốn lưu động, tạo ra các ưu đãi cũng như sự hỗ
trợ về mặt tài chính trong việc phối hợp các cấp chính quyền địa phương triển khai các
gói tài chính.
Các doanh nghiệp thu mua cần có những chính sách cụ thể về giá cả cũng như
quản lý để hỗ trợ ngư dân một cách tốt nhất, cần chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng, cụ thể
như các điểm thu mua hay phương tiện vận tải. Các chính sách giá cần cân đối sao cho
phù hợp với từng mùa vụ, tình hình thời tiết để có thể hỗ trợ ngư dân một cách tốt nhất.
Xây dựng kênh liên kết giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành để có hệ thống
quản lý một cách thích hợp cũng như hệ thống giá hợp lý.
Các doanh nghiệp bảo hiểm cần có những chính sách cụ thể để hỗ trợ ngư dân.
Thời gian qua, đặc biệt là từ tháng 7 đến nay, nhiều tổ chức chính trị - xã hội và địa
phương đã tặng thẻ bảo hiểm tàu cá, thẻ bảo hiểm thuyền viên cho tàu đánh cá và ngư
dân các tỉnh ven biển miền Trung. Tặng thẻ bảo hiểm ngư dân là việc làm có tính cổ vũ,
động viên về tinh thần, giúp ngư dân thêm yên tâm khi đánh bắt hải sản trên biển, đồng
thời đó cũng là một hành động hỗ trợ vật chất cụ thể đối với các ngư dân. Chẳng hạn khi

tàu cá của họ bị hư hỏng, hay bản thân bị tai nạn do thiên tai, sự cố v.v. thì ngư dân hoặc
gia đình sẽ được đền bù, hỗ trợ bằng vật chất để giảm bớt thiệt hại. Ngư dân bao giờ cũng
là những lao động tạo ra nguồn thu nhập chính của gia đình, vì vậy việc hỗ trợ này là rất
có ý nghĩa.
Các tổ chức chính trị, xã hội, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm tặng thẻ bảo hiểm
tàu cá, bảo hiểm thân thể cho ngư dân đã là một việc tốt. Tuy nhiên, vấn đề này sẽ càng
trở nên có ý nghĩa nếu như Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm có chính
sách hỗ trợ để toàn bộ ngư dân đều có thể mua bảo hiểm cho tàu thuyền, bảo hiểm thân
thể và đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Thực hiện được việc này, ngư dân của chúng ta
sẽ càng yên tâm bám biển, bám ngư trường, trở thành một lực lượng lao động lớn trên
vùng biển của Tổ quốc, góp phần tích cực vào nhiệm vụ sản xuất và bảo vệ chủ quyền
biển, đảo.

Về phía ngư dân
Theo dõi các chính sách của nhà nước, địa phương, phối hợp tốt với các doanh
nghiệp để tổ chức sản xuất.
Ngư dân cần đoàn kết với nhau, tăng cường hoạt động của các tổ/ đội sản xuất trên
biển. Các mô hình tổ/ đội sản xuất trên biển được hình thành đã giúp đỡ nhau chia sẻ
được thông tin về ngư trường, thời tiết, kinh nghiệm sản xuất, hỗ trợ nhau xử lý rủi ro
trên biển, tổ chức dịch vụ hậu cần, tiêu thụ sản phẩm, tương trợ, giúp đỡ gia đình các tổ
8
viên, phối hợp với các cơ quan chức năng tham gia bảo vệ chủ quyền trên biển. Nhờ đó,
đời sống người lao động được cải thiện rõ rệt.
Câu 5: Giải pháp kết hợp hài hòa phát triển kinh tế bảo vệ tài nguyên môi trường?
Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề quan trọng
và ưu tiên bậc nhất đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Sau 25 năm đổi mới, nước ta
đã vượt qua ngưỡng nước nghèo vào 2010, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu vượt bậc ấy, chúng ta đang phải đối mặt với những
thách thức nghiêm trọng về môi trường. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, hiện nước ta có gần 4000 cơ sở sản xuất, hơn 1500 làng nghề gây ô nhiễm, hơn

200 KCN cần được kiểm soát về khả năng gây ô nhiễm. Thực tế là, ô nhiễm nguồn nước,
không khí đang lan rộng không chỉ ở các KCN, khu đô thị, mà ở cả nhũng vùng nông
thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm; biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra
triều cường và những hậu quả khôn lường; thành quả phát triển của nhiều địa phương
trong nhiều năm chỉ sau một đợt thiên tai có thể bị xóa sạch.
Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41-
NQ/TW "Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa
đất nước” đã khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản
của phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã
thông qua Luật bảo vệ môi trường. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được
nâng lên một tầm cao mới, gắn chặt với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi
trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các
chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú
trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng
lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Do đó chúng ta cần tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất: Trước hết phải xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với môi trường trên
cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi
trường trong xã hội và của mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật,
nâng cao hiểu biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý thức, lối nghĩ, cách làm, hành
vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi trường. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh
tra, xử lý quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc về môi trường, các vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường. Cần tạo bước chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức sang hành động cụ
thể. Lấy chỉ số đầu tư cho môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường, kết quả bảo vệ môi
trường cụ thể để đánh giá.
Thứ hai: Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi trường với
phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Khắc
9
phục suy thoái, khôi phục và nâng cao chất lượng môi trường; Thực hiện tốt chương trình
trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng, tăng diện tích các khu bảo

tồn thiên nhiên; Khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm môi trường và cân
bằng sinh thái; Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; Thực hiện
sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển “năng lượng sạch”, “sản xuất sạch”,
“tiêu dùng sạch”; Tăng cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự
giúp đỡ của cộng đồng quốc tế cho công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó
với biến đổi khí hậu; Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
Thứ ba: Coi trọng yếu tố môi trường trong tái cơ cấu kinh tế, tiếp cận các xu thế
tăng trưởng bền vững và hài hòa trong phát triển ngành, vùng phù hợp với khả năng chịu
tải môi trường, sinh thái cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên và trình độ phát triển. Đã đến
lúc “nói không” với tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá; Tăng trưởng kinh tế phải đồng thời
với bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo vệ môi trường, ứng phó với
biến đổi khí hậu cũng phải thay đổi theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tạo ra công ăn việc làm, hỗ trợ để đất nước phát triển nhanh hơn, bền
vững hơn.
Thứ tư: Dự báo, cảnh báo kịp thời, chính xác các hiện tượng khí tượng thủy văn,
chung sức và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; Tập trung triển khai thực hiện
Chiến lược phát triển ngành khí tượng thủy văn đến năm 2020 và hai đề án: Hiện đại hóa
công nghệ dự báo khí tượng thủy văn; Hiện đại hóa ngành khí tượng thủy văn; Tiếp tục
phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cộng đồng quốc tế trong việc
tham gia ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu; lồng ghép các yếu tố biến đổi khí hậu với
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011-2020) và kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm (2011-2015), xác định các giải pháp chiến lược và chính sách thực thi, bố trí
các nguồn lực cần thiết để tổ chức và triển khai thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc
gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thứ năm: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai; Quy hoạch sử dụng đất
cả nước đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 - 2015. Xác lập cơ chế cung
- cầu, chia sẻ lợi ích, phát triển bền vững tài nguyên nước và bảo đảm an ninh nguồn
nước. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án Luật Tài nguyên nước và các văn bản quy phạm
pháp luật thuộc lĩnh vực tài nguyên nước theo hướng xác lập cơ chế quản lý tài nguyên
nước đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh xã

hội hóa, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, mọi người dân tham
gia bảo vệ môi trường, làm kinh tế từ môi trường. Tạo điều kiện, hỗ trợ để các tổ chức
phản biện xã hội về môi trường, các hội, hiệp hội về thiên nhiên và môi trường hình
thành, lớn mạnh và phát triển, đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường.
Thứ sáu: Đẩy mạnh thực hiện “kinh tế hóa” trong lĩnh vực địa chất và khoáng sản
theo hướng giảm cơ chế “xin - cho”, tăng cường áp dụng hình thức đấu thầu quyền thăm
dò khoáng sản, đấu giá mỏ để tăng thu cho ngân sách Nhà nước và lựa chọn được tổ
chức, cá nhân có năng lực, kinh nghiệm tham gia hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến
10
khoáng sản; nâng cao tính thống nhất, tránh chồng chéo trong quản lý; tăng cường phân
cấp cho các địa phương quản lý khoáng sản; chú trọng thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
pháp luật Đồng thời, tiếp tục giảm xuất khẩu thô, đẩy mạnh chế biến sâu nhằm bảo vệ
và nâng cao giá trị tài nguyên khoáng sản, hướng tới mục tiêu xây dựng ngành công
nghiệp khai khoáng ổn định, bền vững. Phát triển kinh tế biển, bảo vệ an ninh trên biển.
Thứ bảy: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, chuẩn bị cơ sở pháp lý cho
ứng phó với biến đối khí hậu theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại và hội nhập đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật hiện hành, tiến tới xây dựng Bộ Luật Môi trường, hình thành hệ thống
các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành theo hướng thống nhất, công bằng,
hiện đại và hội nhập, khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ trách nhiệm
và thiếu khả thi. Hệ thống pháp luật về môi trường phải tương thích, đồng bộ trong tổng
thể hệ thống pháp luật chung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Câu 6: Chính sách thu hút nguồn lao động cao?
Cần xác định nguồn lao động chất lượng cao không phải là tập hợp những người
có học vị cao mà đó chính là “những người giỏi về chuyên môn, có tính kỷ luật và ý thức
chính trị cao trong từng công việc mà họ đảm nhiệm; có thể đó là những công nhân bình
thường, công nhân kỹ thuật, kỹ sư, trưởng phòng ban hoặc có thể là một người làm công
việc tạp vụ”.
Từ đó đưa ra chính sách hợp lý:
 Một là thu hút nhân tài:

Đầu tiên cần phải phát hiện, thu hút nguồn nhân lực hiện có bằng những chính
sách phù hợp, bồi dưỡng, giữ gìn và nâng cấp chất lượng nhằm tránh làm thất thoát chất
xám; thu hút từ các địa phương khác, từ đội ngũ trí thức Việt Kiều về nước làm việc theo
phương châm “dùng mồi phù hợp với từng loại cá để câu”, đừng bao giờ bắt cá phải trả
tiền khi ăn mồi và cản trở cho cá khi muốn ăn mồi.
Ngoài ra việc thu hút phải đảm bảo tính công bằng, khách quan, không vì “con
ông cháu cha”.
 Hai là phân công, bố trí công việc hợp lý:
Tuỳ theo trình độ, khả năng của từng người mà phân công, bố trí công việc cho
đúng người, đúng việc, đảm bảo có sự dẫn dắt, kèm cặp và hỗ trợ, đặc biệt là lúc ban đầu.
Đây là một công việc rất quan trọng và quyết định sự thành công, mức độ gắn bó của
nhân tài đối với cơ quan, tổ chức mà họ vào làm việc; việc phân công hợp lý sẽ tạo động
lực cho họ làm việc hiệu quả hơn, chất lượng công việc sẽ tốt hơn và họ sẽ phát huy được
thế mạnh, niềm đam mê cá nhân của họ.
11
 Ba là môi trường làm việc và quản lý điều hành:
Sự cần thiết và phải đổi mới hiện nay đó là mỗi cơ quan, tổ chức cần xây dựng
môi trường làm việc an toàn, chuyên nghiệp, có bài bản và nền tảng là các quy trình, quy
định cụ thể và thống nhất; đảm bảo sự thân thiện, hợp tác và tin tưởng lẫn nhau, hơn thế
nữa đó là tạo thử thách trong công việc, tránh sự nhàm chán.
Việc quản lý điều hành phải nhất quán và có mục tiêu, kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn
phát triển. Việc xây dựng mục tiêu phải cụ thể, thực tế, có thời gian xác định và đo lường
được; mỗi mục tiêu cần xây dựng chiến lược và các biện pháp thực hiện khả thi, hiệu
quả.
Áp dụng việc đánh giá thành tích cho từng cá nhân phải được thực hiện theo định
kỳ và căn cứ vào kết quả thực hiện mục tiêu đã định. Việc đánh giá thành tích được tiến
hành công khai, minh bạch và thể hiện sự công bằng nhằm giúp cho người bị đánh giá
ngày một hoàn thiện hơn, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao và được hưởng mức
lương và những phần thưởng, các điều kiện khác xứng đáng với kết quả mà họ đạt được.
 Bốn là sự tôn trọng và cơ hội phát triển:

Phải khẳng định rằng trong xu thế phát triển không ngừng như hiện nay thì nguồn
nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng sẽ là vấn đề quan tâm
hàng đầu của những nhà hoạch định chính sách và chúng ta có thể khẳng định rằng nguồn
nhân lực chất lượng cao là tài sản quý nhất của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và của
Quốc gia, do vậy chúng ta cần phải tôn trọng thông qua sự lắng nghe, không xúc phạm,
động viên và tán thưởng kịp thời, ngoài ra chúng ta phải tạo điều kiện để họ được học
hỏi, làm giàu công việc, phát triển nghề nghiệp và thăng tiến một cách công bằng. Nếu
chúng ta làm được điều này sẽ tạo động lực cho họ phát triển, họ sẽ thấy yêu công việc,
thấy được sự tôn trọng và đặc biệt là con đường tương lai rộng mở ở phía trước đang chờ
đón họ và thực sự chúng ta đã làm cho ngọn lữa trong mỗi con người bừng cháy sang
hơn, mạnh hơn, nguồn nhân lực đã được huy động một cách tối đa.
 Năm là truyền thông hiệu quả:
Đây chính là công cụ quan trọng để giúp Cán bộ, nhân viên thấu hiểu được mục
tiêu, chủ trương, chính sách của Tổ chức, đặc biệt là của Đảng và Nhà nước ta, từ đó có
sự thống nhất về tư tưởng và cùng hành động một cách đúng đắn, mang lai hiệu quả cao.
Truyền thông hiệu quả sẽ giúp Cán bộ, nhân viên tránh mơ hồ về thông tin, hiểu
sai lệch về thông tin, tạo cơ hội cho việc “đôi mách” làm mất đoàn kết nội bộ, phá vỡ môi
trường làm việc, sự đoàn kết thống nhất trong tập thể, tạo nên bức tường vững chắc bảo
vệ tổ chức, bảo vệ chế độ trước những phần tử xấu phá hoại.
Truyền thông hiệu quả cũng là việc chia sẽ thông tin cho nhân viên làm cho họ
cảm thấy được sự tôn trọng hơn, quan trọng trong tổ chức, từ đó thúc đẩy tinh thần làm
việc, sự quyết tâm trong công việc và làm cho ngọn lữa trong mỗi con người bùng cháy
mạnh hơn.
12
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần có những chính sách để xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao: “ phát triển và nâng cao nền giáo dục”.
Phát triển hệ thống đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên:
Cần đánh giá lại hệ thống đào tạo để xem xét những điểm yếu, điểm thiếu và cập nhật,
nâng cấp chương trình, đổi mới toàn diện cơ chế quản lý, phương pháp dạy và học mới
mang tính đột phá và phù hợp với xu hướng phát triển, xây dựng chuẩn đầu ra phù hợp

với nhu cầu của từng tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp, việc đào tạo phải sát thực tế, trên
công nghệ mới và hiện đại, có định hướng rõ ràng cho từng nghề cụ thể. Ngoài việc phát
triển các trường đại học, trường cao đẳng, trường trung cấp thì nên chú trọng phát triển
các TRUNG TÂM DẠY NGHỀ - DẠY KỸ NĂNG CHO CÔNG NHÂN nhằm giúp họ
chuyên môn hóa công việc mà họ đang làm hoặc công việc họ sẽ làm trong tương lai.
Bên cạnh phát triển hệ thống đào tạo thì việc nâng cấp đội ngũ Giảng viên là ưu
tiên hàng đầu vì có Thầy giỏi mới có những người thợ giỏi, do vậy cần xây dựng tiêu
chuẩn giảng viên cho từng cấp, xây dựng tiêu chí đánh giá và thực hiện việc đánh giá
thành tích của từng giảng viên nhằm tạo động lực, kích thích sự học hỏi và phấn đấu
trong tập thể giảng viên, thu hút và đãi ngộ xứng đáng đối với những giảng viên giỏi
nghiệp vụ và giàu kinh nghiệm thực tế, giảng viên người nước ngoài, …
Từ thực tiễn trong nước và kinh nghiệm của thế giới có thể thấy rằng, việc xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta có ý nghĩa
hết sức quan trọng và cũng là yêu cầu bức thiết hiện nay.
- Thứ nhất, Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu rõ: Phải đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế. Trong đó, đổi mới ciw chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý là khâu then chốt. Để hiện thực hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, cần
xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không chỉ là
trách nhiệm của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, mà còn là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị và của mỗi cá nhân. “Bản thân người học phải tự thay đổi
chính mình. Cần xác định mục tiêu và định hướng nghề nghiệp cụ thể, lâu dài ”, từ đó
tập trung tích lũy và xây dựng kho kiến thức, kỹ năng cần thiết cho bản thân.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy rõ, coi trọng và quyết tâm thực thi chính
sách giáo dục - đào tạo phù hợp là nhân tố quyết định tạo ra nguồn nhân lực chất lượng
cao cho sự phát triển nhanh và bền vững.
- Thứ hai, song song với việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, phát triển
nguồn nhân lực cần đi đôi với xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người
trong thời đại hiện nay như trách nhiệm công dân, tinh thần học tập, trau dồi tri thức; có ý

thức và năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội; sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý
tưởng. Đây cũng là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, rất cần được
tiếp tục phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với thế hệ trẻ.
13
- Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng chăm sóc sức
khỏe người dân, bảo đảm an sinh xã hội. Đại hội XI đã đề cập tới việc cụ thể hóa những
hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức khỏe
nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh gay gắt và yêu cầu cường độ lao động
cao.
 Bài học về việc thu hút nhân lực
Liên minh Công nghiệp Đan Mạch (DI) là một hiệp hội doanh nghiệp hàng đầu tại Đan
Mạch. DI sử dụng hai cách tiếp cận để thu hút nhân tài. Trước hết là cơ chế lương bổng
và đãi ngộ. Họ đưa ra một mức lương phù hợp được tính toán trên cơ sở thị trường làm
sao đủ sức thu hút lao động có trình độ cao vào làm việc. Kế đến là môi trường làm
việc. Họ nỗ lực để tạo ra một môi trường làm việc hết sức năng động với trách nhiệm cao
đối với từng cá nhân. Điều này kết hợp với một thương hiệu, một danh tiếng đã được
thiết lập, một tổ chức có sức mạnh về tài chính cũng như khả năng tham gia vào chính
sách mạnh mẽ đã giúp (DI) thu hút được nhiều nhân tài đến làm việc và gắn bó với tổ
chức. DI cam kết tạo cho người lao động một sự gia tăng mạnh mẽ về tri thức được tích
luỹ trong quá trình làm việc tại DI. Tiếp đến, người lao động được tham gia hàng loạt các
hoạt động xã hội khiến cho DI trở thành một môi trường làm việc hết sức đa dạng và đầy
thú vị đối với người lao động. Nhằm phát triển và củng cố kỹ năng cá nhân người lao
động, DI cùng với người lao động phát triển các kế hoạch công việc nhằm đảm bảo người
lao động thấy được mục tiêu sự nghiệp và cơ hội thăng tiến của mình trong tổ chức. DI
thường xuyên đưa ra những khoá đào tạo ngắn và dài hạn cho nhân viên do DI tài trợ về
tài chính. Thông qua các hoạt động xã hội như thể thao, văn hoá, tham gia các câu lạc
bộ, người lao động có cơ hội gặp gỡ đồng nghiệp nhằm trao đổi và chia sẻ tri thức,
đồng thời gia tăng giá trị xã hội của bản thân.
Ở trên là một số giải pháp trong việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng

cao, có lẽ nó chưa được hoàn thiện, tuy nhiên có thể trên đây là những giải pháp và cách
nhìn mới về nguồn nhân lực chất lượng cao, những biện pháp mới trong việc giữ gìn và
phát triển nguồn lực này nhằm góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước.
Câu 7: Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài?
Trong giai đoạn 2011-2015, nhu cầu vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam là rất
lớn. Để đảm bảo thực hiện khâu đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và
hiện đại, trong đó tập trung vào hệ thống giao thông, hạ tầng đô thị lớn đòi hỏi phải huy
động nhiều nguồn vốn, bảo đảm tỷ lệ đầu tư so với GDP trong giai đoạn 5 năm 2011-
2015 phải đạt tối thiểu 41,5% (2001-2005 đạt 37,5%; 2006-2010 đạt 42,8%), tăng bình
quân khoảng 16,1%/năm. Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trong kế hoạch 5 năm 2011-
2015 theo giá hiện hành dự kiến khoảng 6.340 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 300 tỷ
14
USD. Trong đó, nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 70%, nguồn vốn nước ngoài chiếm
khoảng 30% (giai đoạn 2006-2010 nguồn vốn trong nước chiếm 67% so với mục tiêu là
65%, nguồn vốn nước ngoài chiếm 33% so với mục tiêu là 35%). Để đạt được mục tiêu
trên, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp:
Một là, nâng cao chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài cần được coi là định
hướng quan trọng nhất, để hướng tới hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. Theo đó, các dự
án được ưu tiên là công nghệ điện tử, tin học, dịch vụ cao cấp, đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao, cơ sở y tế và chăm sóc sức khỏe hiện đại, xây dựng hạ tầng kỹ thuật.
Có định hướng rõ ràng đối với các nhà đầu tư nước ngoài và các DN trong nước nhằm
nâng cao chất lượng thu hút đầu tư nước ngoài gắn với việc xử lý mối quan hệ giữa thị
trường trong nước với xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, tạo ra những sản phẩm mới, chất
lượng cao, duy trì cạnh tranh trên thị trường; Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp
hỗ trợ để giảm bớt việc nhập khẩu nguyên liệu ở nước ngoài, tạo điều kiện cho các ngành
công nghệ chế tạo, chế biến phát triển, hạn chế đầu tư nước ngoài vào các ngành gia
công, các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp, các ngành sử dụng nhiều năng lượng và tài
nguyên là vấn đề rất quan trọng trong thời gian tới; Cần tăng cường sự liên kết, hợp tác
giữa DN đầu tư nước ngoài và DN trong nước để hỗ trợ nhau cùng phát triển.

Hai là, FDI với kinh tế vùng và địa phương cần được điều chỉnh về quan điểm,
nhận thức để có giải pháp đúng. Việc phân bố nguồn lực bao gồm FDI cần được điều
chỉnh theo hướng vừa tạo ra một số đầu tàu kinh tế ở những địa phương có sức lôi kéo
kinh tế vùng và cả nước như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, nhưng lại phải điều phối hợp
lý để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở những địa phương chậm phát triển, chưa có
môi trường thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Những địa phương này cần
được Chính phủ ưu tiên trong việc phân bố nguồn vốn từ NSNN, có chính sách khuyến
khích mạnh mẽ DN tại địa phương và DN trong nước. Các tập đoàn kinh tế nhà nước có
trách nhiệm phân bố nguồn lực cho các địa phương này để giải quyết một số vấn đề kinh
tế - xã hội bức thiết, nhất là xóa đói, giảm nghèo, không làm giãn thêm khoảng cách về
trình độ phát triển kinh tế so với các địa phương có điều kiện thuận lợi hơn.
Ba là, tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các
nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung nội dung còn thiếu; sửa đổi các quy
định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. Sửa đổi Luật
Đầu tư, Luật DN, Luật Thuế xuất nhập khẩu, Luật Đất đai, Luật Môi trường và các Luật
khác liên quan theo hướng nhất quán, tránh chồng chéo, theo đó sửa các nghị định, thông
tư liên quan của các Luật trên. Rà soát các quy định pháp luật hiện hành quy định về hoạt
động mua lại và sát nhập có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, hoàn thiện khung pháp lý về
mua lại và sát nhập hiện đang được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật.
Bốn là, tích cực triển khai thực hiện Đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán
(TTCK) và DN bảo hiểm đã được phê duyệt. Đẩy nhanh việc tái cấu trúc các Sở giao
dịch chứng khoán, đa dạng hóa các công cụ cho nhà đầu tư giao dịch, đặc biệt đối với nhà
đầu tư nước ngoài. Việc thành lập Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam với các thị
15
trường bộ phận được hình thành và chuyên biệt bao gồm thị trường cổ phiếu, thị trường
trái phiếu và thị trường phái sinh sẽ giúp cấu trúc TTCK Việt Nam được hoàn chỉnh, trên
cơ sở đó, các sản phẩm, hàng hóa mới dễ dàng được phát triển. Đặc biệt, việc tập trung
thị trường cổ phiếu về một mối cần được thực hiện nhanh để gia tăng quy mô và hình ảnh
về TTCK Việt Nam.
Năm là, song song với việc tái cấu trúc TTCK, cần xem xét rà soát bổ sung, sửa

đổi Luật Chứng khoán hiện hành theo hướng tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước
đối với các giao dịch diễn ra trên TTCK. Hoàn thiện cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động
của các định chế trên thị trường như các quỹ đầu tư; các nhà đầu tư cá nhân và các nhà
đầu tư tổ chức chuyên nghiệp cả trong nước và nước ngoài, nâng cao chất lượng hàng
hóa trên thị trường… Xây dựng thị trường tài chính hiện đại và hiệu quả là hết sức cần
thiết để giúp DN có tín hiệu đúng về thị trường và tìm kiếm nguồn vốn cho hoạt động
kinh doanh của mình
Sáu là, thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân, không cấp phép các dự án
công nghệ lạc hậu, có tác động xấu tới môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều
đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể
cả đất khu công nghiệp. Tiến hành rà soát các dự án đã cấp giấy chứng nhận đầu tư trên
địa bàn cả nước để có hướng xử lý đối với từng loại dự án, đặc biệt với các dự án quy mô
lớn, sử dụng nhiều đất đai bao gồm cả việc rút giấy phép nếu cần thiết.
Bảy là, xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết
của Việt Nam với WTO đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu về văn
hóa - y tế - giáo dục, bưu chính - viễn thông, hàng hải, hàng không.
Tám là, nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập
đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và đối tác trọng
điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản… chú trọng và đẩy nhanh tiến
độ đàm phán các Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và các đối tác lớn. Thực
hiện chính sách ưu đãi đặc biệt dành cho đối tác chiến lược với sự cam kết cao nhất của
Nhà nước cũng như dỡ bỏ các ưu đãi dành cho các nhà đầu tư thông thường. Luật Đầu tư
cần thiết kế những ưu đãi cụ thể riêng biệt để thu hút các nhà đầu tư chiến lược từ các đối
tác lớn, đặc biệt là từ các công ty đa quốc gia top 500 của thế giới.
Chín là, cần có chính sách ưu tiên, đặc thù cho một số địa phương phù hợp thực tế
để dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút FDI phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung.
Mười là, xây dựng danh mục đầu tư quốc gia và kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài
cho giai đoạn 2011-2015 và những năm tiếp theo, kèm theo xây dựng mạng thông tin chi
tiết về dự án. Xây dựng văn bản pháp quy về công tác xúc tiến đầu tư nhằm tạo hành lang

16
pháp lý thống nhất trong công tác quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện
các hoạt động xúc tiến đầu tư.
Câu 8: Giải pháp phát triển kinh tế vùng Việt Nam?
Một trong những nhân tố đột phá then chốt để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước là có những chính sách hợp lý nhằm đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. Yêu
cầu đổi mới cơ cấu kinh tế của đất nước là một yêu cầu khách quan cấp thiết trong tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ nghiên cứu các đặc điểm về vị trí địa lý; điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên
nhiên; đặc điểm và thực trạng kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh/thành phố trong cả nước; các
yếu tố tác động từ bên ngoài đến nền kinh tế của đất nước như: bối cảnh kinh tế, chính trị,
văn hoá - xã hội của các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như xu hướng toàn cầu
hoá nhằm rút ra kết luận về những lợi thế, thời cơ phát triển cũng như những hạn chế,
thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh/thành phố trong cả nước
nhằm giúp cho việc hoạch định những chính sách phát triển mang tính đột phá trong quá
trình chuyển đổi nền kinh tế quốc dân.
Để thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng như tạo mối liên kết và phối
hợp trong phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã và
đang cố gắng lựa chọn một số tỉnh/ thành phố để hình thành nên vùng kinh tế trọng điểm
quốc gia có khả năng đột phá, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước với tốc độ cao và bền vững, tạo điều kiện nâng cao mức sống của toàn dân và nhanh
chóng đạt được sự công bằng xã hội trong cả nước. Việc hình thành các vùng kinh tế
trọng điểm là nhằm đáp ứng những nhu cầu của thực tiễn nói chung và đỏi hỏi của nền
kinh tế nước ta nói riêng.
Theo hướng đó, cuối năm 1997 và đầu năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã lần
lượt phê duyệt các quyết định số 747/1997/QĐ-TTg, 1018/1997/QĐ-TTg và Quyết định
số 44/1998/QĐ-TTg về Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ba vùng kinh tế
trọng điểm quốc gia đến năm 2010, bao gồm vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Trung bộ
và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Xây dựng chính sách phát triển kinh tế phù hợp với từng vùng để có các chính
sách chuyển dich cơ cấu lao động hợp lý. Có chính sách phát triển các ngành lĩnh vực
chủ đạo. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phù hợp với tốc độ phát triển. Chú
ý nâng cao mạng lưới y tế, văn hóa, xã hội. Khuyến khích đào tạo nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. Phát triển một số hệ thống đô thị, khu kinh tế tổng hợp và khu
công nghiệp tập trung. Tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ cao. Xây dựng
không gian kinh tế thống nhất nhằm phát huy lợi thế so sánh trên toàn địa bàn vùng
kinh tế trọng điểm, tạo sự phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau có hiệu quả và phát huy lợi thế
của tất cả các tỉnh.
17
Câu 9: Vai trò của CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đối với tiến bộ và
công bằng xã hội Việt Nam?
Sau gần 20 năm đổi mới, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách khá
hiệu quả. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liền. Các cơ hội phát
triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. Ðời sống của đại bộ
phận nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Làm thế nào để có thể giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh
đạo, các nhà hoạch định chiến lược, giới khoa học xã hội nói chung và các nhà kinh tế
nói riêng ở hầu hết các nước trên thế giới. Nhờ sự tiến bộ vượt bậc của khoa học - công
nghệ và cùng với sự quyết tâm, điều chỉnh, đổi mới các yếu tố thể chế vận hành, cơ chế
tác động, nền kinh tế thế giới nói chung trong thế kỷ 20 đã đạt được tốc độ tăng trưởng to
lớn, tạo ra một khối lượng sản phẩm khổng lồ cho nhân loại.
Với sự tác động tích cực của quá trình toàn cầu hóa, của làn sóng cải cách theo xu
hướng mở rộng tối đa không gian tự do cho kinh tế thị trường và nhất là kinh tế tri thức
mà đi liền với nó là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học với hàng loạt công nghệ mới
đã và sẽ xuất hiện, thì khả năng tăng trưởng mạnh của kinh tế thế giới thế kỷ 21 chắc
chắn vẫn là xu thế nổi trội. Thế nhưng, hiện nay cả loài người đang đứng trước một vấn
đề hết sức nan giải, đó là mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh với

hố ngăn cách và sự phân hóa giàu nghèo có xu hướng ngày càng lớn giữa các khu vực,
các dân tộc và giữa các tầng lớp xã hội trong mỗi nước. Liệu loài người có thể có giải
pháp chung để tiến tới toàn cầu hóa sự công bằng và tiến bộ chung haykhông?
Phải khẳng định rằng, không có tăng trưởng kinh tế thì không thể có tiến bộ xã
hội và công bằng xã hội, nhưng phải chăng, nghèo đói và bất bình đẳng là hệ quả tất yếu
của tăng trưởng kinh tế?
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đã và đang cố gắng tìm cho mình con đường riêng để
giải quyết mâu thuẫn trên. Các giải pháp đưa ra ở các nước trong thế kỷ 20 rất đa dạng,
song tựu trung lại thì hoặc là ưu tiên tăng trưởng kinh tế trước, giải quyết công bằng xã
hội sau; hoặc là đặt các mục tiêu xã hội lên trước các mục tiêu kinh tế. Kinh nghiệm cho
thấy cả hai cách làm đó đều có những hạn chế mà hệ quả của nó đều gây ra sự chống đối
và sự khủng hoảng trong đời sống xã hội.
Với tư cách là một Ðảng, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng, và trong sự hiện diện của
mình luôn là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động, Ðảng Cộng sản Việt
Nam cho rằng: giữa việc tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội có
mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, làm điều kiện và tiền đề cho nhau cùng
phát triển. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, tiền đề để thực hiện công bằng xã hội. Ngược lại,
18
thực hiện công bằng xã hội là nhân tố, điều kiện quan trọng thúc đẩy và bảo đảm tăng
trưởng kinh tế cao và bền vững. Thực tiễn qua 20 năm đổi mới đất nước đã và đang minh
chứng rõ điều này.
Những kết quả đã đạt được
Về nhận thức, chủ trương và quan điểm với những nỗ lực vượt qua bao khó khăn
chồng chất ở giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội, thực hiện đường lối đổi mới, Việt
Nam đã giành được những thành tựu mà cả thế giới đều công khai ghi nhận: từ tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20,
nền kinh tế đã duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân cao so với khu vực châu Á liên
tục từ đầu thập kỷ 90 cho đến nay; thu nhập bình quân đầu người, mức sống và trình độ
dân trí đều được nâng cao so với giai đoạn trước đổi mới; chỉ số phát triển con người

(HDI) đã có những bước cải thiện đáng kể; chương trình xóa đói, giảm nghèo được chú
trọng và đã đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ; từ chỗ thiếu đói triền miên, Việt Nam trở
thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới
Trước đổi mới, do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là do những sai lầm chủ quan,
duy ý chí trong nhiều chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước về cải tạo XHCN và
xây dựng CNXH theo mô hình cũ, đất nước ta đã lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng. Trong điều kiện đó, nhiều mục tiêu về phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ và
công bằng xã hội đã không thể thực hiện được như mong muốn.
Từ Ðại hội VI (12-1986) đến nay, quá trình đổi mới tư duy lý luận của Ðảng về
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng, thể hiện thông qua hệ thống các chủ
trương và quan điểm cơ bản. Theo đó, đã hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa (Ðại hội IX khái quát là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa),
có tác động khơi dậy và nhân lên tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của tất
cả các tầng lớp dân cư, tạo nên luồng sinh khí mới làm xoay chuyển tình hình mọi mặt
đất nước. Ðồng thời, từng bước khẳng định ngày càng rõ hơn việc thực hiện phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối theo mức đóng góp vốn và
các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Mặt khác, đã
thiết lập cơ chế, chính sách để người lao động tự tạo ra việc làm cho mình và cho người
khác, xem mọi hoạt động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận
là việc làm; khẳng định chủ trương khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với
tích cực xóa đói, giảm nghèo, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự
phát triển. Chúng ta khẳng định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu nhằm phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Xem phát triển giáo dục, khoa học, y tế là sự
nghiệp của toàn Ðảng, của Nhà nước và của toàn dân. Thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Thực hiện công bằng xã hội trong
19
chăm sóc sức khỏe nhân dân, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo. Ðề

xuất quan điểm tổng quát văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; Có quan niệm mới các tầng lớp xã hội
màCương lĩnh 1991 đã nêu lên quan niệm về việc hình thành một cộng đồng xã hội văn
minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng,
đoàn kết chặt chẽ góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Ðặc biệt coi trọng
xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý
giỏi và các nhà khoa học, kỹ thuật có trình độ cao; khẳng định mạnh mẽ chiến lược kinh
tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người với tư cách
từng cá nhân và cả cộng đồng đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
Từ hệ thống những chủ trương, quan điểm trên và từ thực tiễn của quá trình thực
hiện tăng trưởng kinh tế phải đi đôi và gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong 20
năm qua đã cho chúng ta bài học tổng quan trong vấn đề này là: Phải có sự thống nhất
chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật
chất để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực quan
trọng thúc đẩy phát triển kinh tế; tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với bảo đảm tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Về kết quả thực tế, kết quả phát triển kinh tế trong những năm qua là cơ sở thuận
lợi để Nhà nước ta có thể huy động các nguồn lực tăng cường đầu tư cho phát triển xã hội
trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng. Với những nền tảng đó, hệ thống chính sách phát
triển giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa đã có nhiều điều kiện thuận lợi để triển khai,
củng cố và hoàn thiện trong thực tế.
Theo tinh thần các chủ trương và quan điểm trên của Ðảng, Chính phủ đã lần
lượt thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án cụ
thể để đưa vào cuộc sống. Nhờ vậy, thực tiễn đổi mới ở nước ta thời gian qua đã đạt được
những thành tựu đáng khích lệ về phát triển văn hóa, xã hội trong sự gắn bó với phát triển
kinh tế.
- Nhìn chung, sau gần 20 năm đổi mới, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một
cách khá hiệu quả. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liền. Các cơ
hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. Ðời sống

của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt.
- Từ năm 1991 đến nay, trung bình hằng năm cả nước đã giải quyết cho khoảng một đến
1,2 triệu người lao động có việc làm. Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả đầy ấn
tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống 11%
năm 2003. Còn theo chuẩn quốc tế, thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993,
xuống 28,9% năm 2002. Như vậy, Việt Nam đã hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch
toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015 mà Liên hợp quốc đã đề ra.
20
- Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường
lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc
gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến cuối năm 2003, 19 tỉnh, thành phố
đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đã tăng từ
88% cuối những năm 1980 lên 94% hiện nay.
- Tiềm lực khoa học và công nghệ của nước nhà có bước phát triển nhất định. Ðội ngũ
cán bộ khoa học và công nghệ đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch
định đường lối, chính sách đổi mới của Ðảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả
các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thông tin - truyền thông, lai
tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, thăm dò và khai thác dầu khí, phát
triển thủy điện, xây dựng cầu, đóng tàu biển, sản xuất vắc-xin phòng dịch
- Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ, góp phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tử
vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán một
số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công bệnh viêm đường hô hấp cấp
(SARS). Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 69 tuổi hiện
nay.
- Chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức dưới trung bình: 0,498 năm 1991 tăng lên
mức trung bình: 0,688 năm 2002.
Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì thứ bậc xếp hạng HDI của
Việt Nam năm 2002 vượt lên 19 bậc. Ðiều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế của Việt
Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội

tốt hơn so với một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn nước ta.
- Về văn hóa, việc triển khai thực hiện 10 nhiệm vụ do Nghị quyết Hội nghị T.Ư 5 khóa
VIII đề ra đã góp phần củng cố sự thống nhất trong Ðảng, sự đồng thuận trong xã hội đối
với đường lối đổi mới toàn diện của đất nước. Tính chủ động, sáng tạo của nhân dân
được phát huy. Các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn
hóa, cả vật thể và phi vật thể, được giữ gìn tôn tạo. Những giá trị và sắc thái văn hóa của
54 dân tộc anh em được kế thừa và phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa
Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở
rộng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào, quá trình đổi mới kinh tế -
xã hội của nước ta thời gian qua còn nhiều mặt yếu kém cần được tiếp tục giải quyết
trong thời gian tới.
Trên lĩnh vực phát triển kinh tế, nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định
21
hướng xã hội chủ nghĩa tuy đã hình thành, song chậm được thể chế hóa đồng bộ.
Trên lĩnh vực phát triển xã hội, nhiều chính sách đã ban hành chưa được thực hiện
tốt, một số chính sách còn thiếu hoặc có những điểm bất cập so với sự biến chuyển của
tình hình thực tế. Ðời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số miền núi còn nhiều khó khăn.
Mức chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa thành thị và nông thôn
cũng tăng từ 1,95 lần năm 1992 lên 2,01 lần năm 1995 và 2,27 lần năm 2002, đến 2004 là
khoảng bốn lần. Nếu so sánh về mức sống của dân cư ở miền xuôi và dân cư miền núi,
nhất là ở các xã vùng cao, thì độ dãn cách còn lớn hơn nữa.
Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm từ 8 đến 9% vào đầu những năm
1990 xuống còn khoảng 6% năm 2004, nhưng vẫn còn ở mức khá cao, vượt khỏi giới hạn
an toàn của tỷ lệ thất nghiệp trong một quốc gia (thường là 2 đến 3%).
Hiện tượng làm giàu phi pháp do tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo, đầu cơ chưa
được ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả.
22

×