Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Xác và Hồn trong âm nhạc truyền thống ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.06 KB, 8 trang )

Xác và Hồn trong âm nhạc truyền thống

Trong ngôn ngữ của phương Tây, để chỉ âm thanh người ta chỉ có một danh từ,
chẳng hạn như son (Pháp) hay sound (Anh). Trong khi đó ở châu Á, Việt Nam sử
dụng hai chữ “thanh” và “âm”, Trung Quốc có hai chữ “sheng” và “yin”, còn Ấn
Độ thì dùng hai chữ khác nhau “svara” và “shruti”.
Thanh là một tiếng nhạc có độ cao, độ dài, độ mạnh, còn gọi là cao độ (hauteur),
trường độ (durée), cường độ (intensité) và cả màu âm, tức âm sắc (timbre). Khi
bàn tay mặt khảy trên cây đờn kìm, đờn tranh hay kéo đờn cò, chúng ta chỉ mới
tạo ra một thanh. Chỉ khi bàn tay trái “nhấn” lên sợi dây giữa hai phím đờn kìm
hay “rung” ở khoảng giữa con nhạn và trục của đờn tranh, chừng đó thanh mới sẽ
trở thành âm.
Vì thế, theo truyền thống Việt Nam, bàn tay mặt sanh ra âm thanh còn bàn tay trái
nuôi dưỡng và tô điểm cho âm thanh đó. Bàn tay mặt đánh ra thanh có độ cao, độ
dài, có tiếng to tiếng nhỏ, có cả màu âm nhưng vẫn chưa có “hồn” vì còn thiếu
tính nghệ thuật. Chỉ khi bàn tay trái nhấn vào biến thanh thành âm mới có chất
nhạc: bàn tay mặt sanh ra xác còn tay trái tạo ra hồn.
Như vậy khi biểu diễn âm nhạc truyền thống, không thể nào dùng đơn thuần một
tay mặt mà cần có sự tham dự kỹ thuật của tay trái để hồn nhạc xuất hiện và tiếng
đờn lúc đó mới mang tình chất đặc thù của bản sắc dân tộc.
Cũng vậy, trong âm nhạc Trung Quốc, bàn tay mặt tạo ra “sheng” và bàn tay trái
biến “sheng” thành “yin”. Còn trong nhạc Ấn Độ, khi tay mặt khảy đàn lên những
độ cao khác nhau thì tiếng nhạc đó được gọi là “svara”, nếu có bàn tay trái tham
gia thì tiếng đàn đó mang tên là “shruti” (ở đây chúng tôi chỉ dùng một nghĩa của
chữ “shruti” có nghĩa là “tiếng nhạc có hồn”, vì chữ này có rất nhiều nghĩa trong
âm nhạc Ấn Độ ).
Không chỉ Ấn Độ và Trung Quốc, quan điểm xác và hồn trong âm nhạc cũng bàng
bạc trong nhận thức của những nhạc sĩ các nước phương Đông mà tôi có dịp tiếp
xúc.








Đàn Valiha

" Chẳng hạn như tại Liên hoan âm nhạc Á
Phi 1985 tổ chức ở thành phố Antatanarivo -
thủ đô của Madagascar - có một đêm dành
cho âm nhạc của hai nước Việt Nam và
Madagascar. Trong phần đầu, một danh cầm
của Madagascar là nhạc sư Sylvester
Randafison biểu diễn đàn Valiha (làm bằng
ống tre với mười tám dây sắt được căng dài
quanh thân đàn) với tiếng đàn nỉ non, trong
sáng như tiếng những giọt nước mưa rơi trên mặt hồ. Trong phần hai, tôi biểu diễn
đàn tranh. Sau buổi hòa nhạc, ông Randafison đến gặp tôi và nói: “Tiếng đàn
Valiha và đàn tranh giống nhau ở chỗ những dây sắt căng trên thân đàn được
những ngón trên bàn tay khảy nên nhiều tiếng bổng trầm, trong trẻo. Nhưng tiếng
đàn tranh nghe mềm mại và uyển chuyển hơn đàn . Tuy khác nhau trong cách sáng
tạo nhạc cụ và kỹ thuật biểu diễn, tôi vẫn cảm giác như hai nhạc khí có họ hàng
với nhau. Để đánh dấu cuộc gặp gỡ kỳ thú hôm nay, xin tặng giáo sư cây đàn
Valiha mà tôi đã dùng trong buổi hòa nhạc. Nhạc khí này do chính tay tôi tạo ra.
Từ nay mỗi lần nhìn ngắm nó giáo sư sẽ nhớ lại người nhạc sĩ Madagasca đã có
dịp biểu diễn với giáo sư trên cùng một sân khấu”.
Tôi xúc động trả lời: “Tặng vật này thật vô cùng quí giá. Theo tập tục của người
Việt, tôi sẽ phải tặng lại cây đàn tranh mình đã dùng trong đêm nay. Nhưng tiếc
rằng cây đàn tranh này do một người bạn rất thân đã đóng tặng tôi. Vì vậy xin bạn
giữ lại cây đàn quí giá của mình và đóng cho tôi một cây khác để giữ làm kỷ

niệm”. Ông Randarfison cười đáp: “Bạn sắp trở về Pháp nên tôi không có đủ thời
gian để đóng ngay một cây đàn khác. Chúng ta có thể ra ngoài phố mua một cây
đàn mới cũng do tôi đóng ra, nhưng cây đàn ấy chỉ có xác mà chưa có hồn. Vì vậy
tôi muốn tặng bạn cây đàn Valiha này, bởi nó đã theo tôi từ 14 năm qua và đã trở
thành người bạn thân thiết của tôi.”
Như vậy là người nhạc sĩ Madagasca cũng có quan điểm xác và hồn trong âm
nhạc.

Một người khác là nữ nhạc sĩ
Mehrbanoo Tofigh người Ba
Tư, chuyên giới thiệu nhạc
cổ điển Ba Tư với cây đàn
Setar. Cô sang Pháp làm tiểu
luận án Cao học về cây đàn
Setar tại Đại học Sorbonne
và nhờ tôi nhận lời làm chỉ
đạo nghiên cứu. Sau khi bảo
vệ luận án thành công, cô
đến gặp tôi và nói: “Hôm
nay, em xin đàn một bản
nhạc Ba Tư mà thầy thích,
coi như để thay lời cám ơn thầy. Đây cũng là lần cuối em sử dụng cây đàn này, sau
đó em xin tặng nó cho thầy.” Tôi xúc động trả lời: “Thầy không biết đàn Setar nên
nếu giữ cây đàn quí giá này thì thật phí. Em có thể mua một cây đàn khác tặng
thầy cũng được.” Nhưng cô trả lời: “ Em có thể mua một cây đàn mới hơn, đẹp
hơn tại một cửa hàng danh tiếng ở Têhêran để tặng thầy, thế nhưng cây đàn ấy chỉ
có xác mà chưa có hồn. Còn cây đàn này đã theo em nhiều năm, hồn nhạc Ba Tư
đã thấm nhuần trong nó. Xin thầy cứ nhận để em vui khi nghĩ
rằng đã tặng cho thầy một cây đàn có cả xác lẫn hồn.”
Một lần nữa, người nhạc sĩ Ba Tư cũng có nhận định về xác

và hồn trong âm nhạc. Rõ ràng, trong quan niệm sáng tạo và
biểu diễn âm nhạc ở vài nước châu Á, xác và hồn được phân minh nhưng cũng để
phối hợp với nhau theo quan điểm lưỡng phân và lưỡng hợp.
Chính vì vậy, một khi chúng ta muốn vay mượn một nhạc khí nước ngoài thì phải
chú ý sao cho nhạc khí đó tạo được tiếng nhạc có cả xác lẫn hồn để có thể diễn tả
được trung thực âm nhạc truyền thống mà không ngọng nghịu. Trong số các nhạc
khí phương Tây thì đàn violon và guitar có thể phát ra những chữ nhạc có rung, có
mổ, có nhấn, nên đã được sử dụng trong ca nhạc tài tử hay dàn nhạc cải lương, với
cách lên dây và tư thế ngồi đàn thay đổi để thích nghi theo quan điểm thẩm mỹ
của người Việt. Riêng đàn piano tuy rất phong phú cho âm nhạc phương Tây
nhưng do đây là loại đàn gõ, mỗi chữ nhạc phát ra đều cố định, bàn tay trái không
thể tham gia để vuốt ve, nhấn nhá nên chúng ta không thể sử dụng để đàn những
bài bản đặc thù của dân tộc như Nam xuân, vọng cổ hay những điệu hò, bởi các
bài bản này thường có những chữ đàn “non” hay “già” (tức thấp hoặc cao hơn một
chút so với thang âm cơ bản). Cũng do đó mà khi vay mượn những nhạc khí Trung
Quốc hay Ấn Độ để biểu diễn âm nhạc Việt Nam thì chúng ta không gặp phải
những vấn đề khác biệt ấy.
Riêng trong đời sống hàng ngày, khi đến với âm nhạc chúng ta rất dễ gặp cái xác
mà khó gặp cái hồn. Trong rất nhiều trường hợp, âm nhạc thường trở thành một
thứ trang trí ở những nơi như siêu thị, nhà ga hay trên xe đò, trên máy bay. Tại các
nơi đó, âm nhạc bị tiếng động của môi trường xung quanh làm cho người nghe
tiếng được tiếng mất.
Hoặc trong một tiệm ăn, tại một phòng trà, đôi khi các nhạc công biểu diễn như
những cái máy, tay tuy vẫn khảy nhưng hồn không đi theo âm nhạc. Hầu hết
khách hàng thường tập trung vào chuyện ăn hơn là nghe nhạc, còn người khiêu vũ
thì chỉ chú ý đưa bước chân theo tiết tấu của những điệu tango, bolero, hay valse
mà thôi. Âm nhạc trong các phòng ấy chỉ hiện ra cái xác mà không có hồn.
Chỉ trong một phòng hòa nhạc thì hồn nhạc mới có dịp hiện ra, khi nhạc công đem
hết tâm hồn mình để biểu diễn còn khán thính giả tập trung tư tưởng để thưởng
thức, thậm chí có khi không dám thở mạnh. Như vậy mới có thể gặp được hồn

nhạc.
Giới thiệu cái xác của nhạc chỉ cần những nhạc khí cụ thể, những kỹ thuật biểu
diễn của bàn tay hay giọng hát. Muốn chuyển được hồn nhạc thì cần phải có
những gì trừu tượng hơn như tình cảm và nghệ thuật. Và cũng cần có một không
gian và môi trường hội họp đầy đủ hai yếu tố âm dương. Vì thế nên trong các dàn
nhạc và số thính giả trong phòng hòa nhạc, nếu chỉ có toàn nam hay nữ thì âm
nhạc khó đi đến đỉnh cao. Kể cả ánh sáng trong phòng nhạc cũng phải theo sự
quân bình của hai yếu tố âm dương, không thể quá sáng hay quá tối mà thường có
một ánh sáng dìu dịu hoặc hơi sáng trên sân khấu và mờ mờ trong hội trường.
Những bản nhạc sáng tác hay biểu diễn thường có những đoạn tưng bừng rực rỡ
để rồi tiếp theo là những đoạn sâu lắng, êm đềm; những đoạn nhịp điệu dồn dập
tiếp theo những khúc khoan thai.
Nếu xét kỹ những điều kiện nào có thể đem đến thành công hoàn toàn cho một
buổi hòa nhạc, chúng ta sẽ thấy rằng nội dung của tác phẩm, hình thức của buổi
biểu diễn và trạng thái tâm hồn của diễn viên và thính giả phải có được sự tương
xứng trong âm dương, hầu cảm nhận được âm nhạc cả xác lẫn hồn qua phong cách
biểu diễn và đạt được sự nhuần nhuyễn giữa kỹ thuật và nghệ thuật.
GSTS Trần Văn Khê

×