Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông của Oppenheimer ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273 KB, 53 trang )

Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng
phương Ðông của Oppenheimer

Trong báo Thế Kỷ 21 (số tháng 12 năm 2001, nam California, USA) ông Nguyễn
văn Tuấn có đặt lại vấn đề nguồn gốc (Tàu) của dân tộc và văn minh Việt Nam sau
khi ông đọc cuốn "Địa đàng ở phương Đông" của Stephen Oppenheimer. Với
nhiều điểm mới dựa trên sự tổng hợp tài liệu nhiều ngành (khảo cổ học, ngữ học,
di truyền học, dân tộc học) và kết quả nghiên cứu của chính Oppenheimer, "Địa
đàng ở phương Đông" phát giác sự đóng góp quan trọng của vùng Đông Nam Á
trong lịch sử nhân loại. Ngô thế Vinh đã giới thiệu sách này trong bài "Tìm về
phương Đông- Địa đàng lại đánh mất" trong Thế Kỷ 21 số tháng tư năm 2000.
Việc Nguyễn văn Tuấn (NVT) tóm tắt cuốn sách đồ sộ này (560 trang với kiểu
chữ nhỏ) và thêm những dữ kiện mới thông báo rất đáng ca ngợi. Những thuyết
mới về nguồn gốc dân tộc khi được thông báo cho cộng đồng người Việt Nam
giúp hiểu thêm về cội nguồn tổ tiên, xóa bỏ mặc cảm tự ti (nếu có). Tuy nhiên, do
tầm quan trọng của vấn đề, khi sử dụng những số liệu và dữ kiện để chứng minh
quan điểm của mình, có lẽ chúng ta cần thận trọng để tránh các bẫy rập tự tôn, duy
chủng tộc, duy dân tộc quá khích.
Tự tôn dân tộc - tự tôn chủng tộc.
Người Tàu rất tự tôn, không riêng ở cái tên Trung Quốc tự xưng, mà còn vì thói
quen hay tự nhận là "người đầu tiên" sáng chế ra nhiều thứ (dù có phần nào sự
thật). Tính tự tôn này đôi khi cũng thể hiện trong lãnh vực khoa học. Một số khoa
học gia Trung Quốc muốn chứng minh đất Trung Hoa là nơi phát sinh ra giống
dân Á châu, và văn minh tộc Hán là văn minh trung tâm thế giới. Họ cố tình che
dấu, giảm thiểu, hay vơ chung vào văn minh tộc Hán những nền văn minh rực rỡ
cổ xưa tìm thấy trên đất Trung Hoa nhưng không thuộc vùng ảnh hưởng Hán tộc.
Điển hình là trường hợp văn minh Sanxingdui phía bắc Thành Đô (Chengdu,
thuộc tỉnhTứ Xuyên), phía nam thượng lưu sông Dương tử. Năm 1986, một nhóm
thợ lò gạch tình cờ tìm được một hố tế lễ chứa đầy đồ đồng, vàng và ngọc thạch.
Khi đoàn khảo cổ Tứ Xuyên đến đó khai quật, họ tìm ra hố thứ hai. Tổng số đồ vật
trên 800 món, với nhiều thức tuyệt xảo bằng đồng, kích thước to, trong đó có


tượng người cao bằng người thật (1.72 m), nhiều đầu người và mặt nạ bằng đồng.
Đây là tượng đồng to nhất tìm thấy ở Trung Hoa. Tượng có mắt to và xếch, mũi
lớn, lông mày rậm dày và miệng thật rộng, rõ ràng không phải chân dung tiêu biểu
người Hán. Hơn nữa nền văn minh đời Thương, là văn minh cổ nhất của Tàu,
không hề có đồ đồng mang dạng người. Trung Hoa xem đó là cổ vật thuộc nhóm
dân Ba- Thục, và xếp chúng vào thời đại cuối thời Thương.
Một nhóm khảo cổ Hoa Nhật khám phá ra thêm một thứ đền "kim tự tháp" ở
Longma, phía tây- nam Thành Đô, có cùng những đường nét văn hóa. Đền này
nằm tại trung tâm thành cổ, trong khi đền thờ, nơi tế lễ cổ và thuần Trung Quốc
(Hán) đều nằm ngoài vòng thành. Các nhà khảo cổ Nhật ước tính tuổi cho nền văn
minh này là 3000 đến 4700 năm về trước. Khám phá này được công bố ở Kyoto,
Nhật vào tháng 10 năm 1996, hình ảnh được đăng trên những báo lớn và sau đó
trong những sách, báo Anh và Pháp ngữ, trong khi báo Trung Hoa không hề đăng,
và rất ít thường dân Tàu biết đến tin này. Trên thực tế, Trung Hoa không muốn
chấp nhận sự hiện diện một nền văn minh khác, rực rỡ và xưa hơn văn minh Hán
tộc vốn dĩ được xem là văn minh gốc của cả nước.
Vào nửa đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ Ấu châu đặc biệt chú trọng đến việc khai
quật các di tích tiền sử ở những nước thuộc địa. Nhưng vì dựa vào mô hình các
giai đoạn phát triển kĩ thuật ở châu Ấu để nghiên cứu các dữ kiện khảo cổ nên họ
đã đưa đến những kết luận nhuộm màu ưu / duy chủng tộc trong chiều hướng tôn
cao văn minh dân da trắng. Nhà khoa học Áo Heine-Geldern nổi tiếng về thuyết
thiên di ở Đông Nam Á, đã cố sức chứng minh văn hoá Đông Sơn bắt nguồn từ
văn hoá phương tây người Kimmer, hay người Tokhara (tức người Nhục Chi) từ
vùng Hắc Hải thiên di đến (thật ra người Tokhara chỉ đến vùng nam Tây Bá Lợi
Á). Mansuy, người Pháp đã phát giác ra các di vật ở Bắc Sơn (vùng Cao Bằng
Lạng Sơn),- theo Hà Văn Tấn- đã "gắn sự xuất hiện của kĩ thuật mài đá trong văn
hoá Bắc Sơn với yếu tố tộc người da trắng có nguồn gốc phương Tây." Nhà tiền sử
học Mĩ Movius xem sự kiện trường tồn của đồ đá đặc thù Á Châu
"Choppers/Chopping-tools" là biểu hiện tính chất kém phát triển của văn hoá
Đông phương so với Tây phương cùng thời. Coedès, hàn lâm viện sĩ Pháp, từng là

Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ danh tiếng, cũng cho rằng cư dân bản địa Đông
Dương vốn thiếu óc sáng tạo, ít khả năng tiến hoá và khó tiến bộ nếu không có sự
đóng góp của bên ngoài.
Nói thẳng ra, tất cả các nhà khảo cứu này cho rằng cư dân Đông phương cổ mọi
rợ, không văn minh bằng cư dân Tây phương cổ. Vô tình hay hữu ý, các nhà khoa
học thời đó đưa ra những lí lẽ biện minh cho chính sách thuộc địa mà kết luận đưa
ra là dân Tây phương (có bổn phận) đem ánh sáng văn minh đến cho những dân
tộc bán khai địa phương. Đó là tính tự cao chủng tộc của người da trắng.

Nhưng Đông Nam Á thời tiền sử có thật sự kém văn minh như người ta tưởng
không?
Ngày nay đa số khoa học gia công nhận rằng không thể áp dụng mô hình các giai
đoạn kĩ thuật ở Ấu Châu để định tuổi cho dụng cụ đá tại Đông Nam Á, và qua đó
định tuổi các nền văn hoá Đông Nam Á, là vùng có khí hậu và môi trường sống
hoàn toàn khác. Dụng cụ chặt đẽo choppers sở dĩ không thay đổi trong một thời
gian dài là vì người Đông Nam Á thời đó đã biết dùng tre, gỗ chế biến thành dụng
cụ cần thiết cho đời sống hằng ngàỵ. Nhưng người ta không tìm ra được các thứ
vật dụng này vì chúng đã bị tiêu huỷ trong môi trường Đông Nam Á nóng ẩm ; và
chính công cụ đá đã được sử dụng trong việc chế tạo tre, gỗ thành đồ dùng. Đó là
mô hinh gỗ / mộc , tức "lignic" model, hay bamboo-karst model. Người ta có thể
khẳng định như thế nhờ những phương pháp tiếp cận khảo cổ học mới sau này
(dựa vào kinh tế học, sinh thái học và xã hội học). Một trong các bằng chứng thực
tiễn là cuộc sống của bộ lạc nhỏ Tasaday trên đảo Mindanao (Phi luật Tân). Dân
bộ lạc này vẫn còn sống theo kinh tế săn bắt-hái lượm như người "thời đồ đá",
nhưng họ hầu như không có (vì không cần) công cụ làm bằng đá.
Dân tiền sử Đông Nam Á sống thiên về hái lượm cây, trái, đào củ và săn, bắt, bẫy
các loài thú nhỏ hơn là thú lớn như dân xứ lạnh Ấu châu (bò rừng, tuần lộc ), nên
không cần dùng khí giới lao, cung với lưỡi ngọn lao, mũi tên làm bằng đá đẽo. Họ
săn heo rừng, khỉ, nai, nhím, chim bằng cung nỏ với tên tre chuốc nhọn hay bằng
ống thổi (blow-pipe) với mũi tên (là) gân lá tẩm thuốc độc, như dân các bộ lạc

miền núi Việt Nam và trong rừng Indonesia ngày nay. Trong vùng nhiệt đới nóng
ẩm, rừng nhiều cây lá, nếu cần che thân, sử dụng vỏ cây hay lá cây thì mát mẻ, dễ
chịu và tiện lợi hơn da thú ; và vì không cần da thú nên họ không cần công cụ đá
để nạo da thú như người tiền sử Ấu châu; họ bắt cá, săn thú, xẻ thịt, với các cạm
bẫy, dao chế biến từ tre, lá, như thổ dân trên đảo Mentawai xứ Indonesia ngày nay.
Nói chung những bộ lạc miền nhiệt đới chưa "văn minh" hiện nay vẫn chế tạo rất
nhiều đồ dùng từ tre, mây, gỗ, lá. Đó là dấu vết kinh nghiệm cư dân cổ bản địa
truyền lại.
Các hình vẽ thú, cảnh đi săn, trên vách nhiều hang động Ấu Châu thời tiền sử
(peintures rupestres), cho biết thịt là món ăn chính của người tiền sử tại đây. Trong
khi đó, người cổ Hoà Bình ăn nhiều sò ốc, bằng chứng là vỏ các loài ốc núi và ốc
nước ngọt tìm thấy trong những đống rác bếp trong hang động trên mười ngàn
năm trước (ở vùng Hoà Bình và vịnh Hạ Long); cũng như sau đó người sống dọc
bờ biển từ vịnh đến bắc Trung Phần đều vẫn ăn sò, điệp biển và để lại hàng đống
vỏ lớn. Cư dân Bắc Việt cổ đã ăn ốc từ 15 000 năm trước (và bây giờ ta vẫn ăn),
điều này không thấy trong di tích người tiền sử Ấu châu.
Sau những phát hiện khảo cổ chấn động thế giới vào thập niên 60 tại Thái Lan,
Malaysia, Indonesia, một số nhà tiền sử học đã đặt lại vấn đề tiền sử Đông Nam Á.
Solheim II, giáo sư Đại học Hawaii, viết một loạt bài từ năm 1967 về sự ra đời
sớm của việc trồng trọt, làm gốm, đóng thuyền, đúc đồ đồng thau Solheim đã đi
ngược lại các luận điểm của Heine-Geldern (nguồn gốc từ người Tokhara,
Kimmer) về cuộc thiên di của người Nam Đảo (Austronesian) và nguồn gốc văn
hoá Đông Sơn. Theo Solheim, đóng góp của văn hoá cư dân Đông Nam Á vào văn
hoá Bắc Trung Quốc thật quan trọng ; ông đưa thuyết mạng lưới buôn bán đường
biển liên đảo, gọi là mạng Nusantao, ở khắp vùng Thái bình Dương từ Nhật xuống
đến các đảo phía nam từ trên mười ngàn năm trước. Những nhà hàng hải Nusantao
này là cư dân vùng thềm Sunda phía đông Indonesia và nam Phi luật Tân, đã buộc
lòng phải dùng đường biển khi mực nước dâng cao làm ngập đất họ sống. Tuy
nhiên, Hà văn Tấn cho rằng luận điểm của Solheim chưa có hay không có cơ sở
vững chắc, với nhiều điểm "phi lý, hỗn loạn" và dễ bị chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi

lợi dụng.
Sau Solheim, một số nhà khảo cổ học khác như Meacham ở Hong Kong, Higham
ở Tân Tây Lan, Pookajorn ở Thái Lan đều đồng ý là vùng Đông Nam Á, từ Thái
Lan xuống Indonesia qua bán đảo Đông Dương, là cái nôi của văn minh Nam Á
(Austroasiatic)- Nam Đảo (Austronesian). Và mới đây, Oppenheimer còn đi xa
hơn nữa, khi đưa ra thuyết rằng văn minh Đông Nam Á là cội nguồn của văn minh
phương tây, rằng khi cư dân thềm Sunda di tản tránh biển dâng, họ đã đến vùng
Lưỡng Hà - Trung Đông, mang theo kinh nghiện trồng trọt, làm đồ gồm và sự
tích Đại hồng thủy.

Bác sĩ Oppenheimer, nhà thám hiểm nhà nghiên cứu, người bạn các dân tộc Đông
Nam Á.
Oppenheimer tốt nghiệp bác sĩ Đại học Oxford bên Anh năm 1971. Năm 1972 ông
sang vùng Viễn Đông hành nghề tại nhiều bịnh viện trong vùng, mà độc đáo nhất
là khi ông làm "bác sĩ bay" (flying-doctor) ở Borneo. Ở vùng này gần hai mươi
năm, ông du hành và nghiên cứu về nhân học khắp Đông Nam Á lục địa (kể cả
Việt Nam) và các đảo Thái bình Dương. Ông không ngại nguy hiểm, lặn lội nơi
thâm sâu cùng cốc, tìm đến những bộ lạc còn giữ ngôn ngữ xưa hay cổ tích truyền
khẩu Trong sách nói trên có vài bức ảnh do tác giả chụp. Có một ảnh nhà sàn với
hàng chữ : nhà sàn thành phố không đất Sitankai (cất trên bải san hô ngầm) giữa
biển Sulu, tác giả chú thích rằng người tiếp viên trên tàu (ship's steward) ở góc
phải hình đã cứu tác giả và ý trung nhân của ông thoát khỏi tay lính Phi. Ông kể
giai thoại đó như sau:
Lần đó ông cùng ý trung nhân người Tàu đi du lịch, và gặp hai người Tây phương
tại nam Phi Luật Tân. Hai người này khuyên đôi tình nhân trẻ đi "fun trip" bằng
tàu trên vùng biển Sulu đầy đảo nhỏ phía nam Mindanao (Philippins)-bắc Borneo.
Họ nghe theo, đáp một tàu lớn chuyên chở hành khách địa phương lẫn hàng hoá
qua các hải đảo Sulu. Đến mỗi làng, tàu thả người xuống, và cho khuân lên những
bao hải sâm (sea cucumber) món hàng đắt tiền rất được các nhà hàng ăn ở Hong
Kong ưa chuộng. Tàu được một nhóm lính vũ trang đi theo bảo vệ chống hải tặc

trong vùng. Một lần, đám lính ấy nhậu say, toan "dòm ngó" cô vợ sắp cưới của
ông. Khi tình trạng đến hồi nguy hiểm thì thuỷ thủ đoàn đến kịp lúc, đưa hai người
lánh lên boong trên, cứu họ thoát nạn. Nhờ giai thoại này độc giả biết thêm một
phần đời tư tác giả, một người yêu Đông Nam Á và yêu người Đông Nam Á (cô
ấy sống ở Nam Trung Hoa, có lẽ thuộc chủng Nam Mongolic, như các dân Đông
Nam Á khác).
Đầu thập niên 80 ông chuyển qua ngành nhi khoa nhiệt đới, và làm việc ở
Madang, vùng phía bắc New Guinea (Tân Guy nê, đảo phía bắc Úc Châu). Ông rất
ngạc nhiên khi thấy quá nhiều trẻ mới sinh bị thiếu máu (anaemic) mà không thiếu
sắt (iron deficiency). Đem mẩu máu lấy từ cuống rún trẻ về trường y khoa nhiệt
đới ở Liverpool (ở Anh) phân tích, ông nhận thấy trẻ sơ sinh thiếu máu vì hồng
huyết cầu hình dạng không bình thường, rất dễ vỡ trong một "bịnh" di truyền gọi
là a-thalassaemia (aT), do thiếu một trong hai gene (di tố) tạo ra a (alpha) globin;
alpha globin là một trong bốn protein a,b,d,g ; (bệnh b- thalassemea do thiếu gene
b) hợp với phần tử heme chứa chất sắt tạo thành haemoglobin (viết tắt HbA, F)
nằm trong tế bào máu đỏ (hồng cầu).
Khi các genes này có "vấn đề", các Hb tạo nên (A, F) không theo tỉ lệ bình thường
hoặc cấu trúc bị biến dạng (HbS, HbC, HbE.) khiến cho hồng cầu biến dạng, dễ
vỡ. Thí dụ hồng cầu có hình liềm (HbS) hoặc cầu tròn thay vì hình cầu lõm hai
mặt. Tuỳ theo mức độ các "vấn đề" là giảm, thiếu globins hay chuyển đổi các
thành phần nucleic acids tạo di tố, và tuỳ các đôi di tố tương hợp hay dị hợp mà
các hậu quả mất máu nặng nhẹ khác nhau. Tính miễn nhiễm sốt rét là một hậu quả
(tốt bất) ngờ của sự biến dạng và dễ vỡ của hồng cầu.
Khi nghiên cứu kĩ sự phân bố trẻ sơ sinh aT trên đảo, ông thấy trẻ có cha mẹ gốc
vùng núi cao bên trong đảo ít bị sốt rét hơn trẻ trong các làng vùng thấp, ven biển
hay trên đảo nhỏ xung quanh. Để biết rõ nguyên nhân, ông bỏ thì giờ đi thăm từng
gia đình các em bé được phân tích máu, hỏi gốc gác và tiếng nói của họ. New
Guinea là nơi có số ngôn ngữ cao nhất thế giới (750 thứ tiếng) đa số là thổ ngữ
Papua, các tiếng còn lại thuộc họ Nam Đảo, tiếng nói người sống ven biển. Điểm
nghịch lí là số trẻ aT không phân bố theo gốc gác tiếng nói, mà phân bố theo độ

cao nơi gia đình sống. Những trẻ aT đều thuộc gia đình miền núi cao chưa hề bị
sốt rét. Nhờ lấy mẩu máu này ở New Guinea đem về Anh phân tích gene mà ông
thành ngườI đầu tiên khám phá ra sự liên hệ giữa a-thalassaemia và sự phân bố
bịnh sốt rét trong vùng New Guinea ; kết quả này công bố trên báo The Lancet
năm 1984.
Ông đi đến kết luận là những người không bị sốt rét nhờ hưởng gene aT của ông
cha tổ tiên, vì chỉ những người có gene đột biến aT mới sống còn qua sự "tuyển
lựa tự nhiên" của bịnh sốt rét. Bịnh sốt rét là bịnh gây tử vong cao cho loài người:
ngày nay sốt rét vẫn làm chết người trên thế giới nhiều hơn các bịnh khác. Trong
bệnh này, các trùng Plasmodium vào người theo vết cắn muỗi Anopheles, vào gan
và hồng huyết cầu kí sinh để tiếp tục sinh sôi tăng trưởng. Oppenheimer khám phá
ra là trùng sốt rét Plasmodium falciparum không tấn công được hồng huyết cầu
aT, và trùng này bị chận không lan tràn được trong cơ thể người bị muỗi nhiễm
trùng cắn. Đây là một kết quả quan trọng, nhất là cho dân Đông Nam Á ( hay bị
sốt rét và bị "thiếu máu"-anemia- do thalassaemia), được công bố trên báo khoa
học hàng đầu thế giới (Nature) năm 1997 Những đợt đột biến đưa đến sự tuyển
chọn gene kháng sốt rét thay đổi tùy nơi, nên cùng là aT mà di tố đột biến ở Việt
Nam và ở New Guinea chẳng hạn, không giống nhau, gây ra hiện tượng "thiếu
máu" anemia nặng hay nhẹ tùy theo di tố truyền lại cho dân đó. Căn cứ theo bản
đồ những vùng có di tố "chống sốt rét" và nhiều dữ kiện văn hoá phong tục khác,
ông suy ra rằng dân Đông Nam Á đã di cư đến Trung Đông (dân Trung Đông cũng
hay bị thalassaemia) và lập văn minh cổ Ur và Ai cập.
Khi nghiên cứu về sốt rét, Oppenheimer để ý thấy vùng phân bố các nhóm dân
New Guinea có liên hệ đến huyền thoại-cổ tích : những bộ lạc nói tiếng khác nhau
nhưng có cùng cổ tích truyền khẩu thì có cùng di tố. Thế là ngoài nghiên cứu y
khoa, ông còn tìm hiểu sâu về dân Á châu, về cổ tích, tiền sử, ngôn ngữ, tập quán
của họ.
Từ những kiến thức đa dạng này, ông có một số ý niệm về sự hình thành của hai
nhóm dân chính Đông Nam Á, là dân nói tiếng Nam Á (Austroasian) và dân nói
tiếng Nam Đảo (Austronesian). Để tiếp tục công trình, ông làm giáo sư nhi khoa

tại Đại Học Hongkong từ 1990 đến 1994; ông nghiên cứu về những đường thiên di
đưa người nói tiếng Nam Đảo đi chiếm lĩnh các hải đảo trên một vùng biển rộng
lớn, trải từ Madagascar ở bờ tây Ần độ dương đến đảo Hawaii và đảo Phục Sinh (
Iles de Pâques) phía đông Thái Bình dương. Trở về giảng dạy ở Đại học Oxford
sau khi rời Hongkong, ông không ngừng tìm hiểu về hai giống dân Nam Á- Nam
Đảo mà ông đã từng chung sống trong hai mươi năm. Tình cảm đặc biệt của ông
đối với dân và đất Đông Nam Á đã thể hiện qua cuốn sách "Địa đàng ở phương
Đông".

"Địa đàng ở phương Đông"
Như Nguyễn văn Tuấn đã nhận xét, cuốn sách này tập trung những dữ kiện nhiều
mặt, cũ mới, về vùng Đông Nam Á. Ông NVT đã lược qua đầy đủ những điểm
chính của sách, nên tôi không trở lại.
Nói chung, Oppenheimer tổng hợp các tài liệu trong đó có kết quả nghiên cứu của
chính mình bao gồm y khoa, ngôn ngữ, nhân chủng, xã hội học để đưa ra một
thuyết hoàn toàn mới mẻ về nguồn gốc một số dân tộc và văn minh Á châu cũng
như thế giới.
Điểm độc đáo chính là sự kết hợp nhiều bộ môn nói trên, cổ điển và hiện đại, khoa
học chính xác và khoa học nhân văn. Trong kết hợp này, các huyền thoại, cổ tích
truyền khẩu giữ vai trò đặc biệt.
Việc sử dụng các truyền thuyết có một sức thuyết phục nào đó, thí dụ khi ta thấy
quả thật Việt Nam, ngoài một số tập tục, cũng có những cổ tích và huyền thoại
truyền miệng khá giống những vùng xa phía nam như New Guinea.
Tích Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Trầu Cau của ta nói về hai người cùng yêu, tranh chấp
một cô gái với một số khúc mắc éo le tương tự như tích Kulabob và Manup của
các bộ lạc trên những hòn đảo nam Thái bình Dương. Theo Oppenheimer, chuyện
tích này rất dài, nhiều tình tiết, ở vùng đảo ấy người ta kể cả ngày; thỉnh thoảng
phải ngưng kể để ăn trầu.
Kulabob trong tích vùng New Guinea được xem là thuỷ tổ dân nói tiếng Nam Đảo.
Manup là anh ; còn người em Kulabob, đôn hậu, giỏi giang, đã sáng chế ra thuật

xâm mình, chế tàu đi biển và Kulabob lái tàu đánh cá rất điêu luyện Một hôm đi
săn, Kulabob bắn lạc một mũi tên khắc chạm tinh vi. Lúc đi tìm mũi tên, Kulabob
bị chị dâu (vợ Manup) "dụ dỗ", quyến rũ. Cô này dấu mũi tên và nằn nì Kulabob
xâm một hình đẹp trên chỗ kín của mình. Kulabob không muốn nhưng cuối cùng
đã xiêu lòng chìu ý chị dâu. Trong một dạng chuyện kể, hai người đã ái ân với
nhau lúc đó. Khi người anh khám phá ra chuyện ngoại tình này, đi tìm giết em
mình. Hai anh em đánh nhau dữ dội bằng đủ cách, kể cả pháp thuật, nhưng bất
phân thắng bại. Cuối cùng để tránh huynh đệ tương tàn, Kulabob làm một chiếc
tàu to bỏ đi về hướng biển cả, chở theo người, cây, thú vật và đồ đạc, từ đó lập
thành các nhóm dân hải đảo Thái bình Dương.
Oppenheimer xem tích Kulabob này là cổ tích gốc của tất cả các dân liên hệ huyết
thống đến giống dân Nam Đảo, vi có rất nhiều dạng kể khác nhau trong vùng đảo.
Theo ông, chuyện cổ Cain/ Abel ở Cận Đông và Adonis/Attis/ Osiris ở Ai Cập
được ghi lại sau đó bắt nguồn từ tích Kulabob, cũng như truyền thuyết đại hồng
thủy ghi lại thành thiên trường ca Gilgamesh xứ Ur cổ xưa bắt nguồn từ một tích
gốc Nam Đảo và do thảm kịch nước biển dâng ngập đại lục thềm Sunda mà ra. Từ
các chuyện cổ và từ những chi tiết như dấu xâm mình, mắt xếch trên tượng Ur cổ,
Oppenheimer kết luận là nền văn minh Lưỡng Hà và Ai Cập đã bắt nguồn từ văn
hoá Nam Đảo nông nghiệp. Sự phân chia ngôi thứ xã hội, tổ chức chính trị, tín
ngưỡng, phù phép (magic) đều do những người sống trên thềm Sunda mang đến
Trung Đông bằng đường biển khi Sundaland bị nhận chìm dưới nước.
Thuyết về nguồn gốc xưa của văn minh Đông Nam Á và đường thiên di người
Nam Đảo nói chung rất "quyến rủ", có mạch lạc, giá trị, nhưng không thể khẳng
định vì chưa có những phương pháp định "tuổi" các truyền thuyết, cho phép xếp
chúng theo thứ tự trước sau, thêm vào đó những chứng minh về ảnh hưởng Nam
Đảo trên hai nền văn minh cổ sáng chói này theo tôi không đủ sức thuyết phục.
Bởi vì vùng Cận Đông là vùng có người hiện- đại H. sapiens sống từ rất lâu (-100
000 năm ). Những người ở đấy cũng lập nên làng xã từ gần 10 000 năm nay, từ
Turkey đến Israel, và từ lâu đã sống bằng nghề canh nông (lúa mạch, lúa mì), chăn
nuôi (dê, cừu, bò ). Cái nôi các giống lúa mạch, lúa mì, dê, cừu, bò. thuần dưỡng

của cả nhân loại chính là ở nơi đó. Tuy nghề làm đồ gốm ở đấy có niên đại sau đồ
gốm Jomon bên Nhật (khoảng -10 000 năm ), nhưng các kĩ thuật khác (đi ngựa,
làm xe, làm đồ vật bằng đồng thau, bằng sắt ) được biết rất sớm. Ngày nay người
sống trong vùng này giống người Ấu hơn người Á Châu. Giả thuyết của
Oppenheimer sẽ thuyết phục hơn nếu có thêm những bằng chứng khác.

Những điểm có thể gây ngộ nhận
trong bài N. V. Tuấn.
Tôi muốn bàn đến một số điểm trong bài của N V. Tuấn dễ gây ngộ nhận, có thể
đưa đến nhận định không chính xác về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.

1- Thuyết "Bắc tiến" (của người cổ Việt Nam), theo kết quả mới về nghiên cứu di
truyền?
Quả có "Bắc tiến" cách đây trên 50 000 năm, từ vùng Đông Nam Á lên Trung
Hoa. Tuy nhiên, ở đây phải hiểu theo hiện tượng thiên di người cổ nói chung. Mới
đây, nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới hợp tác nhau để so sánh genes người ở
vùng Đông Á châu và đã đưa ra một kết luận quan trọng đăng trên hai bài báo
(xem tác giả Chu, Su, phần sách tham khảo) : người cổ thuộc giống người hiện-
đại (sapiens) đến từ Phi châu, ghé vùng Đông Dương trước, rồi từ đó thiên di lên
phía bắc đến nam Trung Hoa, và sau đó hợp chủng với người Altaic (từ Trung Á
đến sau qua đường thiên di bắc Á châu) thành dân "mới hơn" sống ở đông Siberia
-Tây Bá Lợi Á.
Dĩ nhiên trên đường thiên di đầu tiên từ Phi châu xuống phía nam, tổ tiên dân Á
Đông đã ghé bán đảo Ần Độ trước khi đến Đông Nam Á, nên người Ần Độ không
thể "có gốc gác Đông Nam Á" được như Nguyễn Văn Tuấn đề nghị. Ần Độ sau đó
đã đón nhận rất nhiều luồng thiên di khác, trong đó có cả chủng da trắng aryen đến
từ phía tây bắc. Oppenheimer có đưa ra ý kiến là một trong những chủng sống ở
đông bắc Ần Độ, chủng Munda nói tiếng thuộc họ Nam Á như người Việt và dân
Đông Nam Á lục địa, là di dân Nam Á đến từ phía đông (là Thái Lan, nơi có vết
tích lúa xưa) vào thời tiền sử, mang theo kĩ thuật trồng lúa.

Oppenheimer có thể có lí về điểm này, nhưng ông không hề nói dân Ần nói chung
có gốc gác ở Đông Nam Á. Nhóm dân rất cổ tại Ần Độ là Dravidians (hiện còn
người kế thừa ở nam Ần) gần với tổ tiên Phi châu, nhưng cũng đã lai với các
chủng đến sau. Chỉ có thổ dân các hòn đảo đông Ần Độ (Nicobar ) còn nhiều nét
của tổ tiên đến từ Phi châu là cổ hơn cả, vì họ ít gặp di dân khác để lai giống.

Chúng ta biết rằng càng gần gốc Phi châu, các di tố càng đa dạng. Genes của dân
Đông Nam Á đa dạng hơn genes những dân phía đông bắc Á châu, nghĩa là dân
Đông Nam Á gần tổ tiên Phi châu hơn Đông Bắc Á. Cần nói thêm là kết luận của
bài Chu & Su (xem sách tham khảo) được rút ra từ kết quả mới về phân tích genes
các giống dân thiểu số tại nam Trung Hoa (kết hợp với kết quả phân tích genes
khác như thổ dân Đài Loan v v ); genes "Đông Nam Á" là genes (một) người
Kampuchia, còn genes người Việt Nam không có trong những genes nghiên cứu !.
Trung Hoa đã đóng góp nhiều vào kết quả này qua chương trình "Chinese Human
Genome Diversity Project".

Kết luận tương tự thật ra đã được Ballinger rút ra ở di truyền học từ 1992 (xem
phần sách tham khảo). Ba mươi năm trước, Bình Nguyên Lộc cũng đề nghị là
người cổ Việt Nam (ông gọi là "Mã Lai đợt I, hay Lạc bộ Trãi") đã từ phía nam
tiến lên làm chủ phía bắc Trung Hoa, nhưng sau đó bị giống dân phía bắc (lai dân
Nhục Chi) đẩy lùi trở xuống. Kết quả phân tích genes của các nhóm Chu/ Su cho
biết nói chung dân Đông Nam Á gần "tổ" Phi châu, nhưng không đủ chi tiết để
cho biết những sự lai giống trước sau nào đã đưa đến các giống dân khác nhau
hiện nay. Tất cả các dân tộc trên thế giới ngày nay đều đã lai "giống" (ít) nhiều dù
tất cả đều cùng gốc tổ Phi Châu, vì người hiện- đại đã không ngừng thiên di từ lúc
sinh ra hơn trăm ngàn năm trước tại Phi Châu.

2- Có phải Người Hoà Bình tràn lan về phía nam (Indonesia ?) , lên hướng bắc
(Trung Hoa ?) và sang hướng tây (Thái Lan ?).
Văn hoá Hòa Bình (với giai đoạn muộn từ 7000 đến 12000 năm trước đây) được

bà Colani, nhà khảo cổ Pháp, khai quật, nghiên cứu và đề xuất ra vào cuối những
năm 1920. Văn hoá này có những đặc trưng về dụng cụ đá cuội (pebble) ghè trên
một hay hai mặt thành chopping tools và về nơi cư dân sống : hang động đá vôi.
Cho đến nay người ta chưa có bằng chứng trực tiếp về sự nảy sinh nông nghiệp
trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam, mặc dù có những bằng chứng gián tiếp, như
môi trường, sự khủng hoảng về cách tìm thức ăn, sự xuất hiện của rìu đá mài.
Danh từ "Hoà Bình" ngày nay được các nhà khảo cổ thế giới dùng trong khái niệm
techno-complex (phức hợp kĩ thuật) để chỉ những di tích khảo cổ loại này. Nhiều
hang động có di tích người tìm thấy ở Thái Lan qua những thập niên gần đây được
xếp vào techno-complex loại Hoà Bình. Khi nghiên cứu phấn hoa trong tàng đất
khảo cổ ở nhiều hang, đặc biệt trong Spirit Cave tại Thái Lan, người ta nghĩ là chủ
nhân chúng đã bắt đầu trồng một số cây như trầu cau, bầu bí.vào giai đoạn cuối
của thời săn bắt-hái lượm. Theo thói quen trong ngành, người ta dùng tên của nơi
mà đặc trưng về di tích khảo cổ được tìm thấy lần đầu -Hoà Bình- để chỉ di tích có
đặc trưng đó tìm được sau này, ngay cả khi chúng được tìm ra trong vùng khác.
"Người Hoà Bình" là những người thuộc văn hoá đặc trưng tiền đá mới (pre-
neolithic) này. Tôi nghĩ không phải dụng cụ đá tìm được ở Úc Châu là từ Hoà
Bình mà ra, vì tuổi di tích Úc già hơn, bởi niên đại sớm nhất của văn hoá Hoà
Bình, theo khảo cổ học Việt Nam, là 18 ngàn năm trước (với rất ít di tích trong
khoảng thời gian từ đó đến 12 ngàn năm trước). Người sống ở Hoà Bình khó lòng
vượt mấy ngàn cây số để đến Úc từ 14 000 đến 20 000 năm trước. Theo tôi, chữ
"người Hoà Bình" dùng cho các di tích ở nơi khác không có nghiã là người ở Hoà
Bình -Bắc Việt- vào thời điểm đó (7 000 đến 12 000 năm trước) đã tràn lan đến
những nơi khác như Thái Lan, Indonesia, Úc, Trung Hoa.

Về văn hoá Hoà Bình, các nhà khảo cổ Việt Nam đã đóng góp rất nhiều qua các
công trình nghiên cứu quan trọng được công bố, thiết tưởng không cần nói thêm.
Độc giả nào muốn biết thêm về việc có một hay nhiều văn hoá Hoà Bình, văn hoá
hay phức hợp kĩ thuật, có thể xem "Theo dấu các nền văn hoá cổ" của giáo sư Hà
văn Tấn.


3- Kĩ thuật làm đồ đồng thau (dụng cụ, vũ khí) của cư dân Đông sơn có trình độ
cao nhất nhì thế giới ?
Trình độ đúc đồng của cư dân Đông Sơn ( 700 năm trước công nguyên đến sau
công nguyên) quả rất cao, nhưng không thể nói là cao hơn trình độ thợ các nơi
khác, trong các nền văn minh có lâu trước Đông Sơn. Điển hình là nền văn minh
Sanxingdui nói trên, xưa hơn Đông Sơn đến mấy ngàn năm. Nền văn minh bắc
Trung Hoa thời Thương (thiên kỷ thứ hai trước công nguyên) đã làm ra hàng loạt
đỉnh đồng to như trống Đông Sơn với nhiều khắc chạm độc đáo. Còn đồ đồng tìm
thấy ở Thái Lan tuy không to bằng nhưng xưa hơn Đông Sơn khá nhiều (một ngàn
năm ) và cũng có sắc thái riêng. Đó là không kể đến những đồ đồng làm tại các đô
thị văn minh cổ ở Irak, vùng Cận Đông, Ai cập sớm hơn đồ đồng Đông Sơn rất
nhiều. Đồ đồng Đông Sơn có mặt trễ hơn đồ đồng của rất nhiều nơi khác, tôi tự
hỏi biết đâu cư dân Đông Sơn cũng đã có dịp học hỏi thêm kĩ thuật đến từ những
nơi gần Việt Nam. Kết quả khảo cổ cho thấy cư dân Phùng Nguyên chỉ mới bắt
đầu luyện đồng mà chưa biết đúc vật dụng. Đến thời Đồng Đậu trên dưới 3000
năm trước đây, đột nhiên cư dân sống ở đấy đúc được nhiều đồ kĩ thuật cao như
lưỡi giáo, mũi tên. Phải chăng có một (hay nhiều?) thời kì cư dân bản địa được dịp
tiếp xúc, gặp gỡ các kĩ thuật khác qua những sứ giả, thương khách? Hay một lí do
khác? (Tôi sẽ trở lại về thay đổi này ở phần sau) Nghĩa là thợ Đông Sơn vào
khoảng 2500 năm trước đã chứng minh khả năng sáng tạo kĩ thuật và mĩ thuật, khi
làm được một số lượng lớn trống to giá trị cao, dùng trong lãnh vực thương mại,
ngoại giao khắp cõi Đông Nam Á, nhưng khả năng nội tại này không loại trừ việc
kết hợp và ứng dụng các đặc tính nhân bản là hiếu học, óc tò mò, ý muốn cách tân.

4- "Đồ gốm Việt Nam xuất khẩu khắp Đông Nam Á đến tận Melanesia, trước khi
có ảnh hưởng của Ần Độ" ?.
Tôi e rằng có nhầm lẫn về điểu này: Việt Nam cổ xuất khẩu trống đồng chứ không
xuất khẩu đồ gốm. Đồ gốm thời Phùng Nguyên, trước Đông Sơn, có hoa văn độc
đáo, sau đó được dùng trang trí đồ đồng Đông Sơn.


Gốm Đông Nam Á nổi tiếng thế giới là gốm Lapita xưa 3500 năm, tìm được ở
nhiều đảo vùng nam Thái Bình Dương. Gốm Lapita nổi tiếng không phải chỉ vì
đẹp, mà còn vì dính dáng đến nguồn gốc các thuyết thiên di của giống dân nói
tiếng Nam Đảo. Đó là thuyết "chuyến tàu nhanh" (express train) chở dân Nam Đảo
đi từ Đài Loan đến khắp vùng biển nam Thái Bình Dương của Bellwood, và thuyết
"hai chuyến tàu, nhanh và chậm" của Oppenheimer. Cả hai đều không nhắc nhở
đến gốm Phùng Nguyên.

Theo thuyết "chuyến tàu nhanh" của Bellwood, người nói tiếng Nam Đảo từ Đài
Loan dùng thuyền vượt biển đến chiếm lĩnh nhanh chóng chuỗi đảo hoang trong
vùng nam Thái bình Dương, liên tiếp đảo này đến đảo kia trong vòng vài trăm
năm ; họ mang theo đồ đạc, kĩ thuật (làm gốm Lapita), thú nuôi, cây trồng, vào
3500 năm trước đây. Còn Oppenheimer chủ trương rằng trước chuyến tàu nhanh
này, đã có "chuyến tàu chậm" "chở người tị nạn hồng thuỷ" (ở thềm Sunda ), từ
bắc Borneo đến vùng đảo Nam Thái Bình Dương nói trên vào 9000 hay 10000
năm trước. Ở mỗi nơi họ ngừng lại một thời gian, "lai giống" với người bản địa
thuộc chủng Australoid, họ sinh sống và sinh sôi trước khi lên đường tiếp tục đi
qua đảo khác.

Đồ gốm Á Châu nổi tiếng thế giới, gốm Jomon của cổ dân sống ở bắc Nhật, là
gốm sớm nhất thế giới (trên 10 000 năm trước), có nét đẹp riêng biệt, không thể
đến từ Hoà Bình, vì Hoà Bình là văn hoá không có đồ gốm, hay có rất ít vào thời
kì cuối ( Bắc Sơn ). Nhưng người Nhật ngày nay là con cháu của người thuộc văn
hoá Yayoi, không có cùng genes với chủ nhân gốm Jomon nổi tiếng này, cũng như
người Thái hiện tại có gốc ở vùng Vân Nam chứ không là hậu duệ trực tiếp của
chủ nhân các văn hoá cổ trên năm ngàn năm (Ban Chiang, Ban Kao.). Chủ nhân
văn hoá Yayoi đến Nhật chỉ vài trăm năm trước công nguyên, mang theo nghề
trồng lúa, và có khả năng là người U Việt di tản khi nước U Việt bị ngườI Hán
thôn tính (xem R. Shiba).


Tôi cũng không tin rằng hai nền văn hoá Yangshao và Longshan (bắc Trung Hoa)
đến từ Hoà Bình như N. V. T đã viết. Vùng Bắc Trung Hoa hầu như không có dấu
vết văn hoá Hoà Bình trong nghiã "phức hợp kĩ thuật". Thật vậy, nền văn hoá
Yangshao (5000 năm trước) nổi tiếng với gốm vẽ hình màu đen trên nền gốm đỏ
là văn hóa gốc của tộc Hán ở Thiểm Tây (bắc Trung Hoa) vốn là những người
trồng kê, sống trong nhà thấp đào sâu dưới đất, và văn hoá Longshan (tỉnh Sơn
Đông) nổi tiếng về đồ gốm rất mỏng, màu đen bóng (đưa đến nền văn hoá triều
Thương), là những văn hoá đặc thù, hoàn toàn khác với văn hoá sống trong nhà
sàn, trồng lúa nước, ở Bắc Việt.

5- "Quê hương của kĩ thuật trồng lúa là ở quanh vùng Đông Nam Á" ?
Ngay ông Oppenheimer cũng không dám khẳng định như thế. Khi nói về vết tích
hạt lúa theo ông cổ nhất thế giới ở Thái Lan, Oppenheimer hai lần nhấn mạnh "nếu
phần định tuổi này được xác nhận là đúng". Thật vậy, nhà khảo cổ Thái
Pookajorn, người khám phá ra dấu vết lúa cổ trong gốm thời đồ đá mới, đã định
tuổi theo loại hình di vật tìm được trong các hang Sakai, Ban Kao vào giai đoạn
nối tiếp văn hoá loại Hoà Bình (tìm thấy trong lớp đất bên dưới), là khoảng 9260 -
7620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, đa số di tích, di vật tìm thấy ở
Thái Lan, khi định tuổi lại thì thấy "trẻ" hơn nhiều so với tuổi định ban đầu.

Ngoài ra, so với Thái Lan, số chỗ có di tích lúa tìm thấy dọc theo nam sông Dương
tử không những nhiều hơn, mà còn rất xưa hơn. Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với
gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, -13 000 năm, được một nhóm khảo cổ Mỹ
-Trung hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan phía nam sông Dương tử (bắc tỉnh
Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này đã biết thử nghiệm các giống lúa và cách
trồng trong thời gian dài tiếp theo đó. Điều này đã được nhóm khảo cổ chứng
minh qua sự tăng độ lớn phytolith của lúa ( phần thực vật hoá thạch, tồn tại nhờ
giàu chất silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được
đăng trên báo khoa học hàng đầu thế giới Science, năm 1998. Các nhà khoa học

nghiên cứu về phytoliths- thạch thể lúa - này đã chứng minh rằng từ 9000 năm
trước dân cổ ở vùng đó đã ăn nhiều gạo của lúa trồng hơn lúa hoang. Nhóm cư dân
bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô xốp bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về
trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm đã đưa đến nghề trồng lúa trong toàn
vùng nam Dương tử. Di tích xưa thứ hai, chín ngàn năm trước (9000), là Pengtou,
gần hồ Động Đình phía nam sông Dương tử (Trường giang). Hơn bốn mươi chỗ
có di tích lúa cổ hàng ngàn năm đã được tìm thấy ở vùng nam Trường giang. Gần
cửa biển nam Trường giang, di tích văn hoá Hemudu cho thấy văn minh lúa nước
trong vùng lên đến trình độ rất cao vào 7000 năm trước (sớm hơn cả di tích làng
trồng kê Banpo xưa nhất của tộc Hán phương bắc).

Hemudu là một làng vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa
sông Tiền Đường. Dân Hemudu đã trồng lúa, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu dày
25- 50 cm (còn dính một số hạt lúa), có nơi dày đến cả thước, trên diện tích 400
thước vuông. Có thể đó là lớp "rác" để lại trên sân đập lúa. Di chỉ thực vật (củ ấu,
củ năng, táo.) và di cốt động vật hoang (hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, cá sấu ) cho
thấy khí hậu vùng nam sông Dương tử bấy giờ thuộc loại nhiệt đới, hoàn toàn
thích hợp với việc canh tác lúa nước.

Nền văn hoá Hemudu xưa bảy ngàn năm (7000) có nhiều điểm gần gũi với văn
hoá Phùng Nguyên- Đông Sơn vốn là những văn hoá trẻ/trễ hơn nhiều (sau hơn
3000 năm). Cư dân vùng nam Trường giang lúc ấy có lẽ gần với cư dân Bắc Việt
về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân bắc Trung Hoa. Khuôn mặt đắp từ sọ
người Hemudu trưng bày ở Viện Bảo tàng Hemudu cho thấy họ giống người thuộc
chủng nam Mongolic, tức là chủng của người Việt Nam từ thời Đông Sơn về sau.
Sau văn hoá Hemudu, hàng loạt văn hoá lúa nước khác đã sinh ra dọc Trường
giang khoảng 4000 năm trước (Liangzhu, Majiabin, Quinshanyang, Qujialing,
Daxi, Songze, Dadunze.).

6-Tổ tiên chúng ta đã phát triển và ứng dụng kĩ thuật trồng lúa, hay tổ tiên chúng

ta là thầy dạy người Hán trồng lúa nước?
Theo tôi, diều này đúng. nếu ta chấp nhận rằng cư dân trồng lúa sống ở phía nam
Trường giang(thuộc nhóm Bách Việt, theo sử Tàu ) là tổ tiên của dân Việt Đông
Sơn hoặc là anh em ruột với tổ tiên người Việt Đông Sơn, mà vì lí do nào đó tổ
tiên này đã rời vùng nam Trường Giang về trụ tại Đông Sơn. Vì người Hán đã học
được nghề trồng lúa với dân nam Trường giang (Nam Trung Hoa) trước khi tiếp
xúc thẳng với người Việt cổ ở Đông Sơn vào những năm trước công nguyên. Và
các kết quả về di truyền lẫn hình dáng sọ cho thấy là các bộ tộc Nam Trường giang
khác với chủng gốc bắc Trung Hoa. Trong các dân đã "dạy" người Hán trồng lúa,
phải kể đến dân U Việt . Mà dân U Việt vùng Cối Kê lại là con cháu của cư dân
trồng lúa lâu đời tại Hemudu.

Ngoài ra, tuy người Việt Đông Sơn đã biết trồng lúa, nhưng di tích lúa tìm được ở
Việt Nam không xưa như di tích lúa ở Thái Lan, và không thể nào xưa hơn di tích
lúa vùng nam Trường giang. Di tích xưa nhất là những hạt gạo cháy thành than tìm
thấy trong văn hoá Đồng Đậu ở châu thổ sông Hồng, nằm trong trấu trộn với đất
làm đồ gốm, không quá 3500 năm trước. Do đó, tôi xem vùng nam Trường Giang
mới thật là quê hương đầu tiên của lúa, không như Oppenheimer, ông xem Thái
Lan là quê hương của lúa nhưng Oppenheimer (xin lập lại lần nữa ) cũng lưu ý là
thời điểm có lúa cổ ở Thái Lan cần được xác quyết.

×