Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " "Thánh Tông di thảo" nhìn từ truyền thống truyện dân gian Việt Nam và từ đặc điểm truyện truyền kỳ" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.09 KB, 7 trang )




Báo cáo nghiên cứu
khoa học:

"Thánh Tông di
thảo" nhìn từ
truyền thống truyện
dân gian Việt Nam
và từ đặc điểm
truyện truyền kỳ"



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008


73
THáNH TÔNG DI THảO NHìN Từ TRUYềN THốNG TRUYệN DÂN
GIAN VIệT NAM Và Từ ĐặC ĐIểM TRUYệN TRUYềN Kỳ

Vũ Thị Phơng Thanh
(a)


Tóm tắt. Bài viết nghiên cứu Thánh Tông di thảo theo hai hệ quy chiếu của
văn chơng dân gian và của văn chơng bác học. Từ đây ta hiểu rõ thêm giá trị của
các truyện đúng với đặc trng thể loại của nó và hiểu thêm mối quan hệ giữa hai nền
văn chơng của văn học dân tộc đợc thể hiện trong một tác phẩm.


hánh Tông di thảo [8] là tập văn
xuôi chữ Hán gồm 19 truyện và
phụ lục

(nguyên tác đề là phụ
chép)

Truyện con tằm vàng. Phụ lục này
là văn bản ngắn nhất trong tập (dịch ra
tiếng Việt chỉ một trang) nhng ý nghĩa
khá hoàn chỉnh, chúng tôi xem nh một
truyện, nh vậy có thể nói Thánh Tông
di thảo gồm 20 truyện.
Các nhà nghiên cứu cho biết văn
bản Thánh Tông di thảo rất phức tạp.
Có những danh xng cho thấy nhiều
truyện đợc viết từ rất sớm, bên cạnh
đó lại có những địa danh, học vị đến thế
kỷ XIX mới có. Liên quan đến vấn đề
văn bản là vấn đề tác giả. Có những
truyện khẳng định đợc do Lê Thánh
Tông viết, lại có những truyện có thể do
ngời khác viết hoặc sửa chữa đáng kể.
Và cho đến nay ngời ta cũng cha biết
tác giả của những lời bình cuối truyện -
Sơn Nam Thúc - tên thật là gì. Bài viết
này không bàn tiếp về những vấn đề
trên. Chúng tôi sử dụng văn bản do
Nguyễn Bích Ngô dịch, Nguyễn Văn Tú
- Đỗ Ngọc Toại hiệu đính, Nhà xuất bản

Văn hoá ấn hành năm 1963.
Các nhà nghiên cứu văn học nớc
ngoài đã nhận thấy đặc điểm phổ quát
của các tác phẩm văn xuôi ra đời ở thời
kỳ đầu, các nền văn học trên thế giới
đều gắn bó chặt chẽ với văn học dân
gian và sử ký [6].

Việt Nam, có nhà
nghiên cứu cũng nhận thấy tình hình
tơng tự ở Thánh Tông di thảo: Xét
nguồn gốc thì ngời viết hoặc dựa vào
truyện dân gian hoặc dựa vào những
sự kiện lịch sử có liên quan tới thời
kháng chiến chống Minh và Lê Thánh
Tông [3].
Giới nghiên cứu văn học ngày càng
nhận rõ vai trò của thể loại trong đời
sống văn học, nói nh M.M. Bakhtin,
thể loại là nhân vật chính của lịch sử
văn học. Bởi vậy nghiên cứu tác phẩm
từ đặc trng thể loại là phơng hớng
nghiên cứu hiệu quả. Về Thánh Tông di
thảo, dễ dàng nhận thấy sự không
thuần nhất về phơng diện thể loại:
xét về tính chất của loại hình thì có
truyền kỳ, ngụ ngôn, tạp ký[3].
Tóm lại, việc nghiên cứu tác phẩm
này từ truyền thống truyện dân gian
Việt Nam và từ đặc điểm của truyện

truyền kỳ là có cơ sở và thích hợp với
một tác phẩm ra đời sớm và có những
phẩm chất nh Thánh Tông di thảo.
Trớc hết, chúng ta hãy nhìn nhận
các truyện trong Thánh Tông di thảo từ
truyền thống của truyện dân gian Việt
Nam mà trực tiếp nhất là truyền thống
của truyện cổ tích thần kỳ. Cổ tích
thần kỳ là tiểu loại có số lợng nhiều
nhất, có giá trị nghệ thuật cao nhất
trong bộ phận truyện dân gian của mọi
dân tộc

[1]. Chúng tôi đề xuất nghiên
cứu vấn đề này không chỉ xuất phát từ
định đề lý thuyết rằng, các tác phẩm

Nhận bài ngày11/11/2008. Sửa chữa xong 25/11/2008.

T




Vũ Thị Phơng Thanh THáNH TÔNG DI THảO NHìN Từ , TR. 73-78


74
văn xuôi bác học của một dân tộc nào đó
ra đời sớm thờng có quan hệ mật thiết

với truyện dân gian của dân tộc ấy, mà
còn xuất phát từ một thực tế: kết quả
nghiên cứu ở phơng diện này, sẽ góp
phần giúp chúng ta hiểu thêm mối
quan hệ giữa hai thành phần của văn
chơng dân tộc - văn chơng dân gian
và văn chơng bác học, cũng nh góp
phần nhận thức sự tơng đồng và khác
biệt giữa cổ tích thần kỳ và truyện
truyền kỳ. Đây là hai thể loại thuộc hai
hệ thống văn học - văn học dân gian và
văn học viết, nhng giữa chúng có sự
tơng đồng lớn, ở đó yếu tố kỳ (kỳ ảo, kỳ
dị, kỳ quái, siêu thực) đều là thuộc tính
thẩm mỹ của thể loại. Phân biệt những
hiện tợng có đặc điểm gần gũi là công
việc khó khăn, nhng vì thế lại càng có
ý nghĩa.
Có một thực tế là ba truyện của
Thánh Tông di thảo đã đợc các chuyên
gia văn học dân gian đa vào Tổng hợp
văn học dân gian của ngời Việt, tập
VI, Truyện cổ tích thần kỳ [4]. Chuyện
chồng dê đợc coi là bản khác của Hoá
thành dê do Landes kể, truyện Hoa
quốc kỳ duyên (tức Duyên lạ nớc hoa)
đợc coi là bản khác của Nợ duyên
trong mộng, Truyện tinh chuột đợc coi
là bản khác của Tinh con chuột. Cả ba
truyện đều đợc ghi rõ là lấy từ Thánh

Tông di thảo. Ba truyện này cũng đợc
nhiều tác giả khác xếp vào truyện
truyền kỳ.
Thực tế này cho thấy có sự gần gũi
giữa một số truyện trong Thánh Tông
di thảo với truyện cổ tích thần kỳ của
ngời Việt, gần đến mức nhiều nhà
chuyên môn

[4] không nhận ra sự khác
biệt giữa những tác phẩm văn học viết
này với những sáng tác dân gian.
Chúng tôi thấy Chuyện chồng dê là gần
với truyện cổ tích thần kỳ hơn cả, còn
hai truyện kia có sự khác biệt khá lớn.
Truyện Hoa quốc kỳ duyên rất dài (bản
dịch tiếng Việt tới 16 trang), không phù
hợp với phơng thức truyền miệng. Các
phơng thức xây dựng nhân vật của
văn học viết cũng bộc lộ rõ quan hệ của
nhân vật không đơn tuyến mà phức tạp,
thế giới nội tâm nhân vật đợc miêu tả
nhiều. Truyện tinh chuột có bố cục đơn
giản hơn nhng sự khác biệt lớn thể
hiện ở nội dung. Truyện đề cao quân
quyền lộ liễu: Cả triều đình bó tay,
không nghĩ đợc phép gì để xét xử việc
này.
Ta bực mình tự nghĩ rằng: Mình là
ngời đứng đầu thần dân, nếu không

xét cho ra cái án ma này, thì bố mẹ
ngời thêm một đứa con ma, vợ ngời
thêm một thằng chồng ma. Đã gọi là
ma, sau này không khỏi sinh ra tai vạ
khác.
Thế rồi ta thắp hơng cầu khấn,
nhờ Đổng Thiên vơng giúp sức. Đề
cao quân quyền nh vậy không phải là
cảm hứng thờng thấy trong truyện
dân gian mà chỉ thấy trong văn chơng
bác học, tác giả là nho sĩ.
Quan hệ của Thánh Tông di thảo
với truyện dân gian lỏng lẻo hơn ở
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, thể
hiện ở việc chất liệu văn chơng truyền
miệng đợc sử dụng ít hơn. Nếu quả
đây cơ bản là văn chơng của Lê Thánh
Tông và sự sửa chữa chỉ ở phạm vi tiểu
tiết thì chúng ta lại có thêm nhận thức
nữa: mối quan hệ giữa hai bộ phận văn
chơng này không đơn thuần do yếu tố
thời gian quyết định, mà cơ bản hơn là
phụ thuộc vào quan điểm chính trị xã
hội và quan niệm thẩm mỹ của các tác
giả.
Một đặc điểm phổ biến của nhân
vật truyện cổ tích thần kỳ (không chỉ
Việt Nam mà của thế giới nói chung) là




trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008


75
tính chất phiếm chỉ. Đặc điểm này cũng
thấy ở nhân vật của một số truyện
trong Thánh Tông di thảo (ví dụ
Chuyện chồng dê). Đại đa số nhân vật
của tác phẩm này mang tính chất của
nhân vật văn học viết trung đại.
Qua đây chúng ta cũng thấy rằng
trong thực tế nhiều truyện dân gian đã
đợc bác học hoá thông qua ghi chép và
sáng tạo của nho sĩ, ngợc lại cũng có
nhiều truyện của các tác giả đợc dân
gian hoá. Tuy nhiên, ở nớc ta, truyện
dân gian đợc ghi chép muộn nên nhiều
trờng hợp khó xác định chúng đợc
chuyển hoá theo hớng nào.
Thi pháp thời gian và thi pháp
không gian của Thánh Tông di thảo
cũng có những đặc điểm gần gũi với thi
pháp thời gian và thi pháp không gian
truyện cổ tích thần kỳ. Thời gian là thời
gian tuyến tính. Không gian gồm không
gian trần thế và không gian siêu trần
thế, hai phạm trù này không đối lập mà
tiếp nối nhau. Đây vừa là thuộc tính
của các phạm trù thời gian và không

gian trong truyện cổ tích thần kỳ vừa là
đặc điểm của các phạm trù tơng ứng
trong văn xuôi trung đại thời kỳ đầu.
Sau đây, chúng tôi sẽ nhìn nhận
Thánh Tông di thảo từ những đặc điểm
của truyện truyền kỳ. Cho đến nay
quan niệm của các nhà nghiên cứu về
thể loại này còn khác nhau. Có ngời
xếp vào đó tất cả những truyện có yếu
tố thần linh quái dị. Hiểu nh vậy thì
truyện truyền kỳ Việt Nam đã có từ
Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích
quái. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc
không xếp tất cả các tác phẩm văn xuôi
có yếu tố thần linh quái dị vào truyện
truyền kỳ, mà cho là một số thuộc
truyện chí quái. Hai loại tác phẩm này
giống nhau ở chỗ đều có yếu tố kỳ và
cũng có những sự khác biệt. Nhân vật
chính của chí quái là thần linh ma quỷ,
còn của truyện truyền kỳ là con ngời;
truyện chí quái nặng về ghi chép, còn ở
truyện truyền kỳ vai trò của tác giả lớn
hơn, nói nh Lỗ Tấn là ý thức làm tiểu
thuyết rõ hơn.
Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều
cho rằng không phải tất cả mà chỉ một
số truyện trong Thánh Tông di thảo là
truyện truyền kỳ, tuy nhiên con số đó là
bao nhiêu thì ý kiến còn khác nhau. Lê

Sĩ Thắng - Hà Thúc Minh cho là có 10
truyện: Yêu nữ châu Mai, Truyện hai
gái thần, Duyên lạ nớc hoa, Truyện lạ
nhà thuyền chài, Ngọc nữ về tay chân
chủ, Truyện hai thần hiếu đễ, Truyện
chồng dê, Truyện tinh chuột, Một dòng
chữ lấy đợc gái thần, Ngời trần ở
thuỷ phủ. Phạm Văn Thắm cho là có 13
truyện. Ngoài những truyện vừa kể
trên còn có thêm: Gặp tiên ở hồ Lãng
Bạc, Bài ký một giấc mộng và Phụ chép
(tức Phụ lục)

[7].
Một đặc điểm phổ biến của truyện
truyền kỳ là sự dung hợp thể loại.
Ngoài tản văn (văn xuôi) là chính,
nhiều truyện còn sử dụng vận văn (văn
vần) và biền văn (văn biền ngẫu). Trong
số 13 văn bản thuộc loại truyện truyền
kỳ có tới 11 văn bản có sử dụng các bài
đoản thi. Đặc biệt, truyện Ngời trần ở
thủy phủ có tới 15 bài đoản thi và hai
bài phú, chiếm khoảng một nửa số dòng
của truyện. Chức năng của phần văn
vần hoặc văn biền ngẫu ở các truyện
này cũng giống ở các truyện truyền kỳ
khác. Chúng là phơng tiện để biểu
hiện tính cách các nhân vật đợc tinh vi
tế nhị hơn, miêu tả phong cảnh một

cách ý vị hơn, đáp ứng nhu cầu thẩm
mỹ đa dạng hơn của ngời đọc.
Một biểu hiện của ý thức làm tiểu
thuyết của tác giả truyện truyền kỳ
thể hiện ở việc xây dựng cốt truyện. Với



Vũ Thị Phơng Thanh THáNH TÔNG DI THảO NHìN Từ , TR. 73-78


76
tác phẩm tự sự xa nay, cốt truyện
đóng vai trò quan trọng. Nó vừa là thời
gian, vừa là không gian cho các tác giả
trình bày bức tranh của mình về thế
giới và con ngời. Cốt truyện của truyện
truyền kỳ vừa tuân theo những nhu cầu
phổ biến của cốt truyện tự sự, vừa đáp
ứng những yêu cầu riêng. Chúng tôi
thấy ở 13 truyện truyền kỳ trong Thánh
Tông di thảo có hai loại cốt truyện.


những truyện có tính chất luận đề (Hai
Phật cãi nhau, Truyện con tằm vàng,
Bài ký một giấc mộng), cốt truyện đơn
giản, ít sự kiện và các tình tiết đợc sắp
xếp theo trình tự thời gian. Cốt truyện
của 10 truyện còn lại đúng là những cốt

truyện điển hình của truyện truyền kỳ,
có nhiều chi tiết và chứa đựng những sự
biến ảo khó lờng. Tất nhiên, truyện
truyền kỳ cũng nằm trong phạm trù
truyện trung đại nên không thể đòi hỏi
cốt truyện của chúng đợc tổ chức theo
nhiều nguyên tắc đan xen nh ở truyện
hiện đại. Nhng các cốt truyện ở đây có
thể nói phức tạp nhất trong cốt truyện
của truyện ngắn trung đại và đã thực
sự trở thành một đối tợng thẩm mỹ,
không đơn giản chỉ chuyên chở sự kiện,
nhân vật và t tởng nh ở truyện dân
gian. Mô hình phổ biến của các cốt
truyện truyền kỳ theo chuẩn mực trần
thế là theo các chuẩn mực phi trần thế
(ví dụ không thể trả lời đợc các câu hỏi
đại loại: ở hoàn cảnh đó ngời ta ăn gì
để sống, hô hấp ra sao ). Về đại thể,
các truyện đều có ba phần, tạm hình
dung bằng sơ đồ:
trần thế phi trần thế trần thế (với
những thay đổi). Ví dụ ở Truyện hai
thần hiếu đễ:
Đoạn 1:

Sơn Bắc có Nguyễn Tử
Khanh, cha mẹ mất sớm, chỉ có một
ngời anh
Khi ấy Tử Khanh đã 47 tuổi. Một hôm

ra đi có việc buổi chiều mới về. Giữa đờng
gặp ma to gió lớn, bất đắc dĩ phải vào trú
ở một ngôi miếu giữa đồng
Đoạn 2: Đến giữa đêm, ma tạnh
gió yên, bóng trăng lờ mờ, Tử Khanh
bỗng thấy trong miếu đèn lửa sáng
trng .
Chính trong khung cảnh đó, nhân
vật này gặp những ngời đã quá cố, kể
cả ngời anh ruột.
Đoạn 3: Khi trời sắp sáng mình
đã đứng trớc cửa nhà cũ rồi Đến kỳ
thi, nhất nhất làm theo lời anh đã dặn.
Quả nhiên khoa ấy con cháu đều đỗ tú
tài .
Có thể nói nh nhà Việt Nam học
ngời Nga N. I. Niculin, đầu mối của
mọi chuyện trong Thánh Tông di thảo
là ngời bình thờng rơi vào cảnh dị
thờng. Kiểu xây dựng cốt truyện nh
vậy phù hợp với lôgic nhận thức những
chuyện kỳ lạ. Nếu truyện đã có nhiều
sự lạ, lại kết thúc bằng những sự khác
thờng thì chỉ làm cho nó thêm xa cách
độc giả. Mà, nh chúng ta đều biết, sử
dụng những yếu tố kỳ lạ là đặc điểm cốt
tử của truyện truyền kỳ, phi kỳ bất
truyền (không kỳ lạ không lu truyền),
nghĩa là không phải truyện truyền kỳ
đích thực.

Cũng nh các tác giả truyện truyền
kỳ khác, tác giả Thánh Tông di thảo sử
dụng nhiều yếu tố kỳ (ngời xa còn gọi
là h) nhng luôn có ý thức làm cho
ngời đọc tin là chuyện có thực. Có
nhiều cách nhằm tạo nên hiệu ứng tâm
lý này. Phổ biến nhất là gắn các câu
chuyện với thời gian và không gian xác
định, ví dụ: Cuối niên hiệu Nguyên
Phong đời nhà Trần ở châu Mai có một
nữ yêu tinh (Truyện yêu nữ ở châu
Mai); Hồi ấy là năm thứ t niên hiệu
Thuận thiên (Truyện hai gái thần).



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008


77
Hoặc gắn chuyện với những di tích:
Đến nay ở núi Vũ-Ninh có hai đền thờ
Nguyễn Sinh, vẫn còn linh ứng
(Truyện hai thần hiếu đễ); thậm chí gắn
với một sự kiện quan trọng nào đó trong
cuộc đời tác giả: khi ta còn ở Tiềm Để
(Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc). Trong 13
truyện thì 11 truyện đợc mở đầu bằng
những chi tiết thuộc các loại nh vậy.
Điều này cho thấy đây thực sự là một

tín hiệu thuộc thi pháp thể loại truyện
truyền kỳ.
Có thể nhận thức thêm sự tơng
đồng và khác biệt của hai loại truyện
này qua phạm trù nhân vật. Trong một
tác phẩm văn xuôi, nhân vật là mối
quan tâm hàng đầu của nhà văn, biểu
hiện khả năng chiếm lĩnh thực tại, đồng
thời thể hiện lý tởng thẩm mỹ, quan
niệm về đời sống và con ngời trong
toàn bộ tính đa dạng và phức tạp của


[2].
Cách thức xây dựng nhân vật ở 13
truyện truyền kỳ trong Thánh Tông di
thảo đều thuộc hai phơng thức xây
dựng nhân vật phổ biến của truyện
truyền kỳ, hoặc là nhân hoá, hoặc thần
kỳ hoá. Sự nhân hoá thể hiện bằng việc
cho các loại con vật và sự vật nói năng,
hành xử nh ngời, giao thiệp đợc với
con ngời (Hai Phật cãi nhau, Duyên lạ
nớc hoa, Truyện chồng dê, Truyện tinh
chuột ). Sự thần kỳ hoá thể hiện ở việc
các nhân vật có thể tiên đoán, có thể
biến hoá và giao tiếp với những loài phi
nhân (Truyện yêu nữ châu Mai, Truyện
hai gái thần, Duyên lạ nớc hoa, Hai
thần hiếu đễ, Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc,

Một dòng chữ lấy đợc gái thần ). Thủ
pháp thần kỳ phổ biến hơn thủ pháp
nhân hoá, làm cho các truyện có thuộc
tính của truyện truyền kỳ đích thực,
kỳ văn, dị sự (văn lạ, việc lạ).
Truyện cổ tích thần kỳ nói riêng và
truyện dân gian nói chung cũng sử
dụng phơng thức nhân hoá và thần kỳ
hoá để xây dựng nhân vật. Tuy nhiên
ngay ở chỗ tơng đồng này chúng ta
cũng thấy sự khác biệt. Truyện dân
gian diễn tả sự biến hoá một cách ngắn
gọn, ví dụ: Chẳng bao lâu, ở chỗ chôn
lông chim mọc lên một cây xoan đào
thật đẹp, hoặc Bà cụ vừa đi khỏi nhà,
thì một cô gái bé tí từ trong quả thị chui
ra, và chỉ phút chốc, cô bé đã trở thành
cô Tấm xinh đẹp [9]. Truyện dân gian
kể hành động một cách vắn tắt và nêu
ngay kết quả.
Còn đây là một sự biến hoá mà
Thánh Tông di thảo diễn tả: Ngọa Vân
thấy tình thế nguy bách quá, vội giơ tay
bắt quyết, hô to một tiếng: Biến!. Tức
thì nàng hoá ra một con cá to, dài độ
ngàn thớc, mình lớn ớc tới ba mơi
quầng, nằm chắn chỗ ngọn nớc tràn
vào (Truyện lạ nhà thuyền chài).
Chúng ta thấy cả hành động, cả kết quả
đều đợc tác giả miêu tả cụ thể hơn,

sinh động hơn. Điều này thích ứng với
phơng thức lu truyền bằng văn tự và
đáp ứng thị hiếu của ngời thởng thức
có học vấn cao hơn.
Dù thuộc về hai thể loại của hai hệ
thống văn học nhng nhân vật trong
Thánh Tông di thảo lại gần gũi với
nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ là
vì chúng đều thực hiện chức năng giáo
huấn một cách mạnh mẽ. Tuy nhiên, so
với nhân vật truyện cổ tích thần kỳ,
nhân vật của Thánh Tông di thảo đã có
những biến đổi về chất do thuộc về văn
học viết, với ý thức văn học cao hơn, với
phơng thức lu truyền khác, kiểu tác
giả và ngời đọc đều khác.
N. I. Niculin cho rằng một thành
tựu của tập sách này là đã cắt đứt



Vũ Thị Phơng Thanh THáNH TÔNG DI THảO NHìN Từ , TR. 73-78


78
những mối liên hệ truyền thống với sử
ký và đã xây dựng lên những nhân vật
h cấu

[5]. Đúng nh nhà nghiên cứu

đã chỉ ra, một khi tác phẩm có thuộc
tính h cấu là nó đã đi đúng quỹ đạo
của văn chơng. Đặc điểm của h cấu ở
Thánh Tông di thảo, nh đã thấy, là
chịu ảnh hởng của hai truyền thống
thể loại, trong đó nghiêng về phía
truyện truyền kỳ.


Tài liệu tham khảo

[1] Nguyễn Xuân Đức, Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, NXB KHXH, 2003.
[2] Phan Cự Đệ (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, 2004,
tr. 344.
[3] Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng VănTửu, Trần Hữu Tá, Từ điển học (bộ
mới), NXB Thế giới, 2004, tr. 1636.
[4] PGS.TS. Nguyễn Thị Huế chủ biên, Tổng hợp văn học dân gian của ngời Việt,
tập VI: Truyện cổ tích thần kỳ,

NXB KHXH, Hà Nội, 2004
.
[5] N. I. Niculin, Dòng chảy văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá Thông tin, 2006,
tr. 186.
[6] B.L. Riptin, Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ của phơng
Đông theo phơng pháp loại hình, Tạp chí Văn học, Số 2/1974, tr. 108.
[7] Phạm Văn Thắm, Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kỳ viết bằng
chữ Hán ở Việt Nam thời trung đại, Luận án PTS, Hà Nội, 1996, tr. 38.
[8] Thánh Tông di thảo, NXB Văn hoá, 1996.
[9] Nhiều tác giả, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 1, Văn học dân gian, NXB Văn
học, 1977.



Summary

THaNH ToNG DI THaO - SEEN FROM TRADITIONNAL FOLK-TALES AND
FEATURES OF UNUSUAL STORIES
In the article, the author has studied Thanh Tong di thao following two systems
of reference: one appertaining to folklore; another - to scholarly literature. By his
doing so, we can understand more about the value of the stories, basing on the
special features of their genre, and the relationship between the two literary bases
of the national literature which is expressed in the work.

(
a
) Cao học 15, chuyên ngành lý luận văn học, trờng đại học vinh.

×