1
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014
Hoạt động của Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia
Công tác kiện toàn tổ chức và bộ máy Cục An toàn bức xạ và hạt nhân
Vương Hữu Tấn, Lê Minh Tuấn
Cục ATBXHN
Cục Kiểm soát và an toàn bức xạ, hạt nhân được thành lập năm 2003 và được đổi
tên thành Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) vào tháng 10/2008. Căn cứ Nghị
định số 28/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Bộ trưởng Bộ
KH&CN đã ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Cục ATBXHN (Quyết định số
2248/QĐ-BKHCN ngày 10/10/2008).
Luật Năng lượng nguyên tử (NLNT) được Quốc hội thông qua tháng 6/2008 và có
hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Luật NLNT đã quy định cụ thể các chức năng quản lý nhà
nước của Cơ quan An toàn bức xạ và hạt nhân thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ
(KH&CN).
Quy hoạch tổng thể phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử được Thủ tướng
Chính phủ ban hành tại Quyết định số 957/QĐ-TTg ngày 24/6/2010, trong đó có nhiệm vụ
kiện toàn hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Nghị định số 20/2013/NĐ-CP ngày 26/2/2013 của Chính phủ quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ KH&CN đã có một số nội dung thay đổi so
với Nghị định số 28/2008/NĐ-CP, trong đó có thay đổi trong nội dung về năng lượng
nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân.
Vì vậy, yêu cầu sửa đổi Điều lệ tổ chức và hoạt động của Cục ATBXHN là hết sức
cần thiết nhằm bảo đảm phù hợp với các quy định của Luật NLNT, các yêu cầu mới về
kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử
và những thay đổi trong chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ KH&CN.
2
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
Sự điều chỉnh mô hình tổ chức của Cục ATBXHN dựa trên đòi hỏi thực tiễn quản
lý nhà nước về đảm bảo an toàn an ninh hạt nhân cũng như đảm bảo yêu cầu hội nhập quốc
tế.
Thực tiễn quản lý nhà nước về đảm bảo an toàn, an ninh hạt nhân
Cục ATBXHN thuộc Bộ KH&CN đã giúp Bộ KH&CN thực hiện tốt công tác quản
lý về an toàn bức xạ và hạt nhân đối với các hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng
bức xạ và đồng vị phóng xạ trong các ngành kinh tế - xã hội trong giai đoạn vừa qua.
Mô hình tổ chức của Cục ATBXHN được xây dựng vào năm 2003 và điều chỉnh
vào 2008 chủ yếu nhằm phục vụ cho nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các hoạt động sử
dụng nguồn bức xạ. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, thực tiễn ứng dụng bức xạ, năng
lượng nguyên tử trong phát triển kinh tế xã hội đã có rất nhiều thay đổi. Sau khi Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược ứng dụng năng lượng vì mục đích hòa bình đến năm
2020, hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử trong các ngành kinh tế xã hội đã phát
triển rất mạnh trong phạm vi toàn quốc. Hàng năm, Cục đã cấp trung bình khoảng 1000
giấy phép cho các công việc bức xạ mới và các chứng chỉ liên quan. Đặc biệt, Quốc hội đã
phê duyệt chủ trương xây dựng và đưa vào vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của
Việt Nam tại Ninh Thuận vào năm 2020. Chính phủ đã phê duyệt Định hướng Quy hoạch
phát triển điện hạt nhân của Việt Nam đến 2030. Dự án xây dựng Trung tâm Khoa học và
Công nghệ hạt nhân với việc xây dựng lò phản ứng nghiên cứu đã được Thủ tướng Chính
phủ đồng ý chủ trương và Hiệp định liên chính phủ với Nga về việc này đã được ký kết.
Tất cả các vấn đề nêu trên đã đặt ra các yêu cầu mới về chức năng, nhiệm vụ và năng lực
đối với Cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân.
Thực tiễn cho thấy các hoạt động ứng dụng bức xạ đã phát triển mạnh trong phạm
vi toàn quốc đòi hỏi Cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân cần được mở
3
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
rộng để bảo đảm có thể thực thi chức năng quản lý nhà nước một cách đầy đủ, nhanh
chóng và không gây cản trở hoạt động của các doanh nghiệp; các chủ trương của nhà nước
về xây dựng nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng nghiên cứu mới đòi hỏi Cơ quan quản lý
nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân phải có thêm các đơn vị chức năng mới để có thể
đảm trách các chức năng quản lý của Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia về an toàn hạt
nhân, phóng xạ môi trường, chuẩn đo lường bức xạ, an ninh hạt nhân, thanh sát hạt nhân,
thông tin hạt nhân và đào tạo cán bộ pháp quy hạt nhân. Ngoài ra, để bảo đảm hoạt động
quản lý của Cục ATBXHN được thực hiện một cách hiệu quả và không gây cản trở cho
hoạt động của các tổ chức, cá nhân tiến hành các công việc bức xạ cần phải có thêm Trung
tâm hỗ trợ kỹ thuật khu vực phía Nam để kịp thời giải quyết các nhiệm vụ đặt ra phục vụ
công tác quản lý nhà nước về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân tại các vùng miền cũng
như thực hiện chức năng hỗ trợ công tác thẩm định an toàn, thanh tra, quan trắc và phân
tích phóng xạ môi trường, ứng phó sự cố và bảo đảm các dịch vụ kỹ thuật về an toàn bức
xạ cho khu vực.
Yêu cầu hội nhập quốc tế
Theo thông lệ quốc tế, Cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân của
các nước thường có vị trí quan trọng trong hệ thống tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước
của các nước (Bộ, cơ quan ngang Bộ hay cơ quan thuộc Bộ nhưng lãnh đạo cơ quan này do
Thủ tướng bổ nhiệm). Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều nước đặc biệt là các nước có
điện hạt nhân đều thành lập Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia độc lập trực thuộc Tổng
thống, Thủ tướng hoặc Quốc hội.
Nhằm tăng cường địa vị pháp lý cũng như năng lực của Cơ quan pháp quy hạt nhân
quốc gia của Việt Nam để có thể đảm đương nhiệm vụ quản lý nhà nước về an toàn, an
ninh và thanh sát hạt nhân đối với Chương trình điện hạt nhân nói chung và Dự án điện hạt
nhân Ninh Thuận nói riêng theo khuyến cáo của Đoàn đánh giá pháp quy tích hợp (IRRS)
của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) cũng như Đoàn cấp cao của Cơ quan
An toàn công nghiệp, môi trường và hạt nhân Liên bang Nga (Rostechnadzor), ở giai đoạn
hiện nay cần kiện toàn lại cơ cấu tổ chức của Cục ATBXHN như một bước chuyển tiếp để
tiến đến thành lập Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia độc lập. Việc nâng cấp Cục
ATBXHN thành Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia độc lập chỉ có thể thực hiện được khi
Quốc Hội sửa đổi Luật NLNT.
Như vậy, các yêu cầu thực tế và quốc tế đòi hỏi cơ cấu tổ chức của Cục ATBXHN
phải được điều chỉnh để bảo đảm có đủ năng lực hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ nặng
nề hơn rất nhiều so với giai đoạn trước đây.
Theo định hướng trên, Cục ATBXHN đã đề xuất và được Lãnh đạo Bộ đồng ý cho
phép kiện toàn và thành lập các đơn vị với chức năng, nhiệm vụ rõ ràng.
Theo Dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của Cục ATBXHN đã được Bộ trưởng Bộ
KH&CN phê duyệt. Mô hình tổ chức mới của Cục được xây dựng trên cơ sở kiện toàn lại
các đơn vị quản lý nhà nước và hình thành thêm các đơn vị sự nghiệp có chức năng hỗ trợ
kỹ thuật phục vụ công tác quản lý nhà nước về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân. Các
đơn vị sự nghiệp này sẽ được thành lập trên cơ sở Nghị định 115 và Nghị định 96 để tạo
điều kiện cho Cục có được sự tự chủ cao nhất trong việc phát triển năng lực đội ngũ cán bộ
kỹ thuật nhằm hỗ trợ tốt nhất cho công tác quản lý nhà nước về an toàn, an ninh và thanh
sát hạt nhân.
4
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
Ngày 18/2/2014, Bộ trưởng Bộ KH&CN đã ký Quyết định số 217/QĐ-BKHCN ban
hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Cục An toàn bức xạ và hạt nhân thay thế Quyết định
2248/QĐ-BKHCN ký ngày 10/10/2008. Theo đó, mô hình tổ chức của Cục sẽ bao gồm 8
đơn vị quản lý nhà nước là:
1. Văn phòng
2. Phòng kế hoạch và Tài chính
3. Phòng An ninh và thanh sát hạt nhân
4. Thanh tra Cục
5. Phòng Cấp phép
6. Phòng Tiêu chuẩn An toàn
7. Phòng Hợp tác quốc tế
8. Phòng Pháp chế và Chính sách
Và ba đơn vị sự nghiệp là:
1. Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật an toàn bức xạ hạt nhân và ứng phó sự cố
2. Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật an toàn bức xạ thành phố Hồ Chí Minh
3. Trung tâm Thông tin và Đào tạo.
Để triển khai thực hiện mô hình tổ chức theo Điều lệ mới của Cục, Lãnh đạo Cục đã
họp thảo luận về chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các đơn vị trực thuộc, xin ý
kiến lãnh đạo các đơn vị và dự kiến trong tháng 5/ 2014 sẽ ban hành quyết định quy định
chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các đơn vị trực thuộc. Lãnh đạo Cục cũng đã
họp để xem xét và thông qua việc bố trí nhân sự cho các đơn vị trong các đơn vị theo Điều
lệ mới và tiến hành thủ tục bổ nhiệm thủ trưởng của các đơn vị mới thành lập hoặc bổ sung
quyết định lãnh đạo cho các đơn vị cho phù hợp với thực tế (không thay đổi hoặc đổi tên
hoặc giảm chức năng, nhiệm vụ). Đối với những đơn vị không còn trong mô hình tổ chức
mới, Cục sẽ có các quyết định thôi giữ các chức vụ của các cán bộ lãnh đạo và bảo lưu hệ
số phụ cấp chức vụ theo quy định của pháp luật. Sau khi triển khai bổ nhiệm thủ trưởng
các đơn vị, Lãnh đạo Cục sẽ xem xét việc bổ nhiệm các lãnh đạo cấp phó theo quy định,
hướng dẫn bổ nhiệm cán bộ của Bộ KH&CN và các quy định pháp luật trong tháng
5/2014. Đồng thời với việc kiện toàn về tổ chức và cán bộ, Cục đang chuẩn bị để trình Bộ
hai văn bản quan trọng: i) Đề án phát triển nguồn nhân lực của Cục đến năm 2020 (trong
đó làm rõ nhu cầu nhân lực, kế hoạch tuyển dụng và đào tạo cán bộ), ii) Dự án đầu tư ODA
tăng cường năng lực hỗ trợ kỹ thuật của Cục. Hai văn bản này sẽ dự kiến trình Hội đồng
Khoa học và Quản lý của Bộ KH&CN thông qua trong tháng 6 để trình Bộ trưởng phê
duyệt. Mô hình tổ chức hiện nay là bước chuyển tiếp để Cục tiến đến hoàn thiện theo mô
hình tổ chức sẽ được quy định trong Luật NLNT sửa đổi, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của một
Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia.
Với việc được phê duyệt điều chỉnh mô hình tổ chức và sự chỉ đạo sát sao của Lãnh
đạo Bộ KH&CN, Cục ATBXHN phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao cũng như
hoàn thành trách nhiệm của một Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia, đặc biệt trong quản
lý an toàn dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận và Trung tâm Khoa học và Công nghệ
hạt nhân./.
5
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
CHO CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN
Lê Quang Hiệp, Lê Minh Tuấn
Cục ATBXHN
I. Mở đầu
Ứng dụng bức xạ và hạt nhân trong các ngành kinh tế xã hội đã mang lại các lợi ích
không thể phủ nhận. Nhiều ứng dụng bức xạ trong khám, chữa bệnh đã góp phần trong
chăm sóc sức khỏe cộng đồng và không thể thay thế. Các ứng dụng trong công nghiệp,
nông nghiệp cũng đã đem lại các hiệu quả về kinh tế đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh
các lợi ích đem lại, việc sử dụng bức xạ ion hóa cũng tiềm ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng đến
sức khỏe con người và ảnh hưởng môi trường nếu không được quản lý chặt chẽ. Bên cạnh
việc phải xây dựng một khung pháp lý đầy đủ cho quản l ý an toàn bức xạ, hạt nhân thì xây
dựng cơ quan quản lý nhà nước có đủ năng lực để thực thi các nhiệm vụ quản lý là một yêu
cầu quan trong để bảo đảm mục tiêu an toàn trong đẩy mạnh ứng dụng năng lượng nguyên
tử vì mục đích hòa bình. Điều này lại đặc biệt quan trọng khi Việt Nam đã quyết định chủ
trương xây dựng nhà máy điện hạt nhân (NMĐHN) với mục tiêu khởi công xây dựng vào
năm 2014 và đưa vào vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên vào năm 2020. Để đảm bảo
chất lượng, hiệu quả và tiến độ của dự án điện hạt nhân (ĐHN) đòi hỏi nhiều yếu tố trong
đó yếu tố nguồn nhân lực là hết sức quan trọng.
Kinh nghiệm quốc tế đã chỉ ra rằng chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ
chuyên gia có trình độ cao đáp ứng yêu cầu của chương trình phát triển ĐHN và yêu cầu
nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và đảm bảo an toàn, an ninh trong lĩnh vực năng lượng
nguyên tử là yếu tố quyết định sự thành công của chương trình phát triển ứng dụng năng
lượng nguyên tử ở mỗi quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia bắt đầu xây dựng NMĐHN
đầu tiên.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban chỉ đạo quốc gia về đào tạo nhân lực trong lĩnh vực
năng lượng nguyên tử, trong năm 2013 Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) - Cơ
quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, hạt nhân đã xây dựng kế hoạch phát triển nguồn
nhân lực của Cục với mục tiêu bảo đảm để có đủ năng lực đáp ứng cho nhiệm vụ quản lý
nhà nước về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân đối với các ứng dụng bức xạ và dự án
NMĐHN.
II. Kế hoạch tuyển dụng nguồn nhân lực cho cơ quan quản lý nhà nước về an
toàn bức xạ, hạt nhân
Nhu cầu nhân lực cần thiết cho Cục ATBXHN được đánh giá trên cơ sở hoạt động
thực tiễn của Cục trong những năm qua và tham khảo kinh nghiệm của các nước có ĐHN ở
quy mô nhỏ và tham khảo các tài liệu hướng dẫn của IAEA (TECDOC 1254 Training the
staff of the regulatory for nuclear facilities; IAEA Safety Standard GSR part 1
Governmental, Legal and Regulatory Framework for Safety; IAEA Safety Guide GS.G.1.1
Organization and Staffing of the Regulatory Body for Nuclear Facilities) và tài liệu của Uỷ
ban Pháp quy hạt nhân Hoa Kỳ (Staffing, Training and technical support for startup of a
nuclear safety regulatory program, G-OI-ST, US NRC 2009).
Nhu cầu nguồn nhân lực của Cục ATBXHN đến năm 2015
Nhu cầu nguồn nhân lực của Cục ATBXHN đến 2015 được xác định để đảm bảo đáp
ứng được các nhiệm vụ quản lý nhà nước trong giai đoạn này, cụ thể:
- Bảo đảm các hoạt động quản lý nhà nước đối với các ứng dụng sử dụng nguồn
phóng xạ, thiết bị bức xạ và quản lý chất thải phóng xạ.
6
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn
kỹ thuật về an toàn, an ninh, thanh sát hạt nhân phục vụ quản lý NMĐHN, lò phản ứng hạt
nhân nghiên cứu giai đoạn phê duyệt địa điểm, phê duyệt dự án đầu tư, cấp giấy phép xây
dựng.
- Bảo đảm các hoạt động quản lý nhà nước về an toàn đối với dự án NMĐHN, dự án
xây dựng lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu giai đoạn phê duyệt địa điểm, phê duyệt dự án
đầu tư, cấp giấy phép xây dựng.
- Bảo đảm năng lực chuyên môn về an toàn bức xạ để hỗ trợ công tác cấp giấy phép,
thanh tra đối với các hoạt động sử dụng nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ và quản lý chất
thải phóng xạ.
- Bảo đảm năng lực chuyên môn về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân để tổ chức,
tham gia thẩm định an toàn trong phê địa điểm, phê duyệt báo cáo đầu tư, cấp giấy phép
xây dựng và hỗ trợ công tác thanh tra, kiểm tra trong giai đoạn sản xuất, chế tạo và xây
dựng, lắp đặt NMĐHN, lò phản ứng nghiên cứu.
Nhu cầu nhân lực đến 2015 của Cục ATBXHN được đánh giá khoảng 200 người, so
với số nhân lực hiện có, thì đến năm 2015 cần tuyển dụng thêm khoảng 100 người.
Nhu cầu nguồn nhân lực của Cục ATBXHN đến 2020
Nhu cầu nguồn nhân lực của Cục ATBXHN đến 2020 được xác định để đảm bảo đáp
ứng được cho các nhiệm vụ quản lý nhà nước mới trong giai đoạn này so với giai đoạn đến
2015, chủ yếu là các nhiệm vụ liên quan đến quản l ý an toàn NMĐHN, lò phản ứng nghiên
cứu trong quá trình xây dựng, lắp đặt, chuyển giao đưa vào sử dụng và vận hành.
Nhu cầu nhân lực đến 2020 của Cục ATBXHN được đánh giá là 300 người, nếu
trong giai đoạn đến 2015 đã tuyển dụng đủ 200 người thì từ 2016 đến 2020 cần tuyển dụng
thêm 100 người.
Kế hoạch tuyển dụng cán bộ đến năm 2015 theo chuyên môn đào tạo
Chuyên môn tuyển dụng
Tổng
c
ộ
ng
Chuyên môn tuyển dụng
Tổng cộng
Chuyên ngành hạt nhân
55 Khí tượng thủy văn
2
Chuyên ngành kỹ thuật
45 Công nghệ thông tin
4
Môi trư
ờ
ng
6 Kinh tế, tài chính, kế toán
9
Kỹ thuật cơ khí
3 Luật
12
Kỹ thuật xây dựng
3
Ngoại ngữ, ngoại giao, quan
hệ quốc tế
12
Kỹ thuật hóa và vật liệu
2 Hành chính nhà nước
6
Kỹ thuật điện và điện tử, tự
đông hóa
3 Xã hội nhân văn
3
Đ
ị
a ch
ấ
t, đ
ị
a ch
ấ
n
2 Thư viện
1
Tổng cộng
168
III. Kế hoạch đào tạo nhân lực
Một quốc gia khi quyết định chương trình phát triển ĐHN cần xây dựng cơ quan
pháp quy có đủ nguồn nhân lực có kiến thức và kinh nghiệm trong các chuyên ngành kỹ
7
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
thuật. Các nhân viên kỹ thuật phải có kiến thức chuyên sâu về vật lý lò, công nghệ điện hạt
nhân, bảo vệ bức xạ, bảo vệ thực thể và quản lý sự cố.
Cán bộ của cơ quan pháp quy cần được đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn để
thực thi các nhiệm vụ quản lý đối với NMĐHN. Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế đã chỉ ra
rằng một số nhiệm vụ có tần suất sử dụng trong hoạt động quản lý và đòi hỏi các kiến thức
kỹ thuật chuyên ngành rất sâu nên sử dụng hỗ trợ từ các đơn vị bên ngoài có thể là các
chuyên gia trong nước hoặc quốc tế.
Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu hướng dẫn về phát triển và đào tạo nguồn nhân lực cho
cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia đối với các nước bắt đầu phát triển điện hạt nhân của
IAEA và của US NRC, Cục ATBXHN đã xây chương trình đào tạo cán bộ của Cục đến
năm 2020 với 3 loại hình chương trình đào tạo.
Chương trình đào tạo cơ bản cho cán bộ quản lý và hỗ trợ kỹ thuật
Chương trình đào tạo cơ bản liên quan đến lĩnh vực chuyên môn quản lý sẽ được tổ
chức định kỳ hàng năm và là chương trình đào tạo bắt buộc cho tất cả các cán bộ chuyên
môn được tuyển dụng vào làm việc tại Cục ATBXHN. Chương trình đào tạo cơ bản bao
gồm các khóa với nội dung chi tiết như sau:
TT
Tên khóa Nội dung
Thời
lượng
1
Khóa đào tạo về
quản lý pháp quy an
toàn h
ạ
t nhân
- Kiến thức pháp quy hạt nhân
- Khái niệm cơ bản an toàn lò phản ứng hạt
nhân
2 tuần
2
Khóa đào tạo về
hoạt động quản lý
đối với NMĐHN
- Phê duyệt địa điểm
- Các quá trình cấp phép
- Hoạt động thanh tra trong quá trình xây
dựng và vận hành
- Hoạt động quản lý an toàn trong tháo dỡ
3 tuần
3
Chức năng quản lý
của cơ quan pháp
quy
- Nguyên tắc thanh tra an toàn hạt nhân và
xử lý vi phạm
- Thẩm định an toàn để cấp giấy phép
- Quản lý rủi ro, An ninh, bảo vệ bức xạ, kế
ho
ạ
ch
ứ
ng phó s
ự
c
ố
4 tuần
4
Công nghệ lò phản
ứng
- Thiết kế lò phản ứng hạt nhân:
- Vận hành lò phản ứng:
- Kỹ thuật trong xây dựng
3 tháng
8
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
Khoá bồi dưỡng nâng cao kiến thức về phân tích tai nạn vỡ ống nước vòng I (sự cố LOCA)
Chương trình đào tạo thực hành on - the job - training
Một số cán bộ chủ chốt có hướng đào tạo thành các trưởng nhóm chuyên môn tại các
đơn vị quản lý nhà nước (Pháp chế, thanh tra, cấp phép, thanh sát hạt nhân) sau khi hoàn
thành khóa đào tạo cơ bản sẽ được lựa chọn gửi đào tạo thực hành tại nước ngoài khoảng 6
tháng tại các nước có kinh nghiệm về quản lý NMĐHN.
Dự kiến trong các năm đầu mỗi năm cử đi đào tạo 1- 2 người cho mỗi nhóm chuyên
môn sâu để bảo đảm có đủ nguồn nhân lực phục vụ cho dự án ĐHN Ninh Thuận. Các năm
sau đó sẽ tiếp tục đào tạo theo phương thức này nhưng với số lượng khoảng 2 - 3 người.
Nội dung chương trình đào tạo thực hành dự kiến thực hiện trong giai đoạn đến năm
2015 như sau:
Nội dung chương trình đào tạo thực hành
TT
Tên khóa
Thời lượng
1
Pháp quy hạt nhân
2 tháng
2
An toàn lò phản ứng hạt nhân
2 tháng
3
Quan trắc và đánh giá phóng xạ môi trường
2 tháng
4
Cấp phép và Thanh tra NMĐHN
2 tháng
5
Ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân
2 tháng
6
Quản lý chất thải phóng xạ và tháo dỡ nhà máy điện hạt
nhân
2 tháng
Chương trình đào tạo chuyên sâu cho cán bộ hỗ trợ kỹ thuật
Chương trình đào tạo chuyên môn sâu cho nhóm các cán bộ hỗ trợ kỹ thuật sẽ được
tổ chức theo các nhóm chuyên gia và chủ yếu được gửi đào tạo tại nước ngoài. Tuy nhiên,
chính sách đào tạo nhân lực chuyên gia sẽ hướng tới các chuyên môn thường được sử dụng
9
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
trong hoạt động quản lý của cơ quan pháp quy đó là Vật lý lò phản ứng, Thủy nhiệt, Phân
tích rủi ro, Phân tích tai nạn nghiêm trọng, Hệ thống NMĐHN. Các chuyên môn khác có
thể sử dụng chuyên gia sẵn có trong nước từ các cơ quan khác.
Nội dung chương trình đào tạo chuyên sâu cho cán bộ kỹ thuật (Đào tạo chuyên gia)
dự kiến thực hiện trong giai đoạn đến 2015 như trong bảng.
Chương trình đào tạo chuyên gia
TT
Tên khóa Nội dung
Thời
lượng
1
Phân tích an
toàn tất định
(DSA) sử
dụng các code
tính toán
- Các code tính toán và kiến thức cho phân tích an
toàn tất định
- 4 nhóm, mỗi nhóm 03 người đào tạo sử dụng 01
code tính toán
- Mỗi năm mỗi nhóm học 4 khóa, mỗi khóa trong 2
tu
ầ
n và chương tr
ình kéo dài trong 4 n
ăm
4 năm
2
Phân tich an
toàn xác suất
(PSA)
- Sử dụng các code tính toán cho phân tích an toàn
xác xuất
- Chương trình được dự kiến đào tạo cho 4 người
trong 3 năm, m
ỗ
i năm 2 khóa trong 2 tu
ầ
n
3 năm
3
Phân tích sự
cố nghiêm
trọng
- Các codes tính toán sử dụng trong phân tích sự cố
nghiêm trọng
1 năm
Kinh phí cần thiết cho triển khai thực hiện chương trình và kế hoạch đào tạo là
khoảng 20 tỷ đồng cho mỗi năm.
Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực cho cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ,
hạt nhân đã được báo cáo Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia vào tháng 7/2013 và đang
được hoàn thiện để báo cáo Chính phủ vào qu ý II năm 2014.
10
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
Sửa đổi Luật Năng lượng nguyên tử
Đinh Ngọc Quang
Cục ATBXHN
I. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật Năng lượng nguyên tử (NLNT)
Luật NLNT (Luật số 18/2008-QH12) đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3
thông qua ngày 03/6/2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Luật NLNT gồm có
93 điều quy định về các hoạt động trong lĩnh vực NLNT và bảo đảm an toàn, an ninh trong
các hoạt động đó; được phân thành 11 chương. Ngoài Chương I. Những quy định chung và
Chương XI. Điều khoản thi hành là 9 chương có nội dung như sau: Chương II: Các biện
pháp đẩy mạnh phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử; Chương III: An toàn bức xạ,
an toàn hạt nhân và an ninh nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân, thiết bị hạt nhân; Chương
IV: Cơ sở bức xạ; Chương V: Cơ sở hạt nhân; Chương VI: Thăm dò, khai thác, chế biến
quặng phóng xạ; Chương VII: Vận chuyển và nhập khẩu, xuất khẩu vật liệu phóng xạ, thiết
bị hạt nhân; Chương VIII: Dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử; Chương IX:
Khai báo và cấp giấy phép; Chương X: Ứng phó sự cố, bồi thường thiệt hại bức xạ, hạt
nhân.
Trong hơn 5 năm được thi hành, Luật NLNT đã tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ
trong nhận thức của các ngành, các cấp, các cơ sở bức xạ, cơ sở hạt nhân và người dân về
vai trò của ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình trong công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, cũng như tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn, an ninh cho các ứng
dụng đó.
Luật NLNT đã khẳng định vai trò quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ
(KH&CN) và cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước an toàn bức xạ và hạt nhân
(Điều 7, Điều 8 của Luật).
Việc quản lý an toàn, an ninh đối với các cơ sở bức xạ đã được tăng cường và dần
dần đi vào nề nếp. Công việc bức xạ, nguồn bức xạ và nhân viên bức xạ đã được khai báo
đầy đủ; hầu hết các cơ sở bức xạ đều được cấp giấy phép sử dụng nguồn bức xạ. Nhìn
chung, các cơ sở tiến hành công việc bức xạ có ý thức hơn, thực hiện nghiêm túc hơn các
quy định của Luật NLNT và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật NLNT.
Lần đầu tiên ở nước ta có một đạo luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về NLNT, đặc
biệt là về lò phản ứng hạt nhân và nhà máy ĐHN. Luật NLNT được thông qua đã tạo
khung pháp luật để thực hiện chủ trương đẩy mạnh ứng dụng NLNT và phát triển điện hạt
nhân (ĐHN) của Đảng, Nhà nước.
Luật NLNT ra đời kịp thời đã có tác dụng tích cực, làm cơ sở pháp luật cho Quốc
hội thông qua chủ trương xây dựng nhà máy ĐHN (tháng 11/2009) và Chính phủ đàm
phán, ký kết Hiệp định hợp tác xây dựng nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1 với Chính phủ Liên
bang Nga (tháng 10/2010), nhà máy ĐHN Ninh Thuận 2 với Chính phủ Nhật Bản (tháng
01/2011). Thực hiện các quy định của Luật NLNT, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các
Bộ ngành liên quan và chủ đầu tư Dự án ĐHN Ninh Thuận là Tập đoàn Điện lực Việt Nam
(EVN) đang khẩn trương thực hiện các thủ tục về phê duyệt địa điểm, dự án đầu tư, cấp
phép xây dựng để có thể sớm khởi công nhà máy ĐHN Ninh Thuận.
Luật NLNT hiện hành đã bao hàm tương đối đầy đủ các nội dung theo thông lệ
quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật NLNT, đã bộc lộ một số bất cập. Đặc
biệt còn một số quy định trong Luật NLNT chưa phù hợp với các yêu cầu, tiêu chuẩn
11
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
khuyến cáo của Cơ quan NLNT quốc tế (IAEA) và thông lệ quốc tế. Một số nội dung quan
trọng còn chưa được quy định, cập nhật trong Luật NLNT.
Đặc biệt đối với ĐHN, do chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực hoàn toàn mới ở
Việt Nam, chưa hiểu hết đặc thù về bảo đảm an toàn, an ninh đối với nhà máy ĐHN và còn
phụ thuộc vào pháp luật của các lĩnh vực có liên quan (Đầu tư, Xây dựng, Bảo vệ môi
trường…), mà Luật NLNT đã bộc lộ một số bất cập mang tính nguyên tắc cần phải chỉnh
sửa như:
- Chưa có cơ quan chịu trách nhiệm cấp phép xuyên suốt các giai đoạn của nhà máy
ĐHN: Thủ tướng Chính phủ phê duyệt địa điểm, Bộ KH&CN, Bộ Công Thương cấp phép
vận hành, cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân phê duyệt kế hoạch tháo dỡ (chấm dứt hoạt
động);
- Trách nhiệm thẩm định để phê duyệt, cấp phép được quy định chồng chéo, thậm
chí giao cho cơ quan tư vấn (được thành lập tạm thời) chịu trách nhiệm.
Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật NLNT là rất cần thiết, nhằm các mục tiêu sau:
- Sửa đổi nhằm khắc phục những bất cập, vướng mắc, không khả thi bộc lộ trong
quá trình thực thi Luật NLNT;
- Bổ sung, đảm bảo quy định đầy đủ các nội dung cơ bản theo yêu cầu quản lý, phù
hợp với luật pháp quốc gia và thông lệ quốc tế;
- Đảm bảo tính phù hợp, tính thống nhất của Luật NLNT với Hiến pháp năm 2013,
với các luật có liên quan (đặc biệt là các luật vừa được sửa đổi, bổ sung trong giai đoạn từ
2008 đến nay), với các điều ước quốc tế đang có hiệu lực mà Việt Nam là thành viên.
II. Sửa đổi, bổ sung Luật Năng lượng nguyên tử
Sau đây là một số nội dung chính cần sửa đổi, bổ sung so với Luật NLNT hiện
hành:
1. Chỉnh sửa, bổ sung một số thuật ngữ
Trên cơ sở nghiên cứu các thuật ngữ được các nước thành viên (IAEA) thống nhất
sử dụng rộng rãi (Tài liệu “Thuật ngữ an toàn của IAEA” (IAEA Safety Glossary), IAEA,
xuất bản tháng 6/2007), đề nghị chỉnh sửa lại các thuật ngữ sử dụng trong Luật NLNT như
An toàn bức xạ; An toàn hạt nhân; Miễn trừ khai báo, cấp phép; Mức miễn trừ, Nhân viên
bức xạ, Người phụ trách an toàn bức xạ.
2. Đảm bảo tính độc lập của cơ quan quản lý
Phù hợp với khuyến cáo của IAEA, cần sửa Khoản 3 Điều 6 nhằm thể hiện nguyên
tắc: cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân phải có vị trí độc lập
với cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm về việc phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử.
Sửa Điều 8 theo hướng hoàn thiện chức năng, tăng thẩm quyền của cơ quan an toàn bức xạ
và hạt nhân quốc gia.
3. Cấp phép nhà máy ĐHN
Các Điều 47, 48, 49, 50 và 40 của Luật NLNT mới chỉ quy định các việc cần phải
làm nhưng chưa rõ trách nhiệm và mối quan hệ giữa các cơ quan tham gia thẩm định, cơ
chế phối hợp giữa các tổ chức được tham gia thẩm định, đặc biệt chưa thấy rõ trách nhiệm
và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân. Những mối
quan hệ nêu trên cần được làm rõ hơn trong Điều 8 của Luật NLNT cũng như vai trò của
Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia.
12
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
Không thể giao cho Bộ Công Thương cấp phép vận hành nhà máy ĐHN bao gồm
cả vận hành thử vì như vậy là “vừa đá bóng vừa thổi còi” vi phạm nguyên tắc đảm bảo an
toàn hạt nhân. Bộ Công Thương hiện đang giữ vị trí là cơ quan chủ quản của Tập đoàn
Điện lực Việt Nam – chủ đầu tư của Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Bất cập này đã được
các tổ chức, cơ quan đối tác của Việt Nam như IAEA, Liên bang Nga, Hoa Kỳ khuyến cáo
cần phải giải quyết; đặc biệt sau sự cố hạt nhân nghiêm trọng tại nhà máy ĐHN Fukushima
số 1 tại Nhật Bản.
Để đảm bảo tính xuyên suốt của trách nhiệm cấp phép đã được quy định trong Luật
NLNT và chức năng, nhiệm vụ được giao theo Nghị định của Chính phủ, cơ quan cấp phép
nên là Bộ KH&CN.
4. Ứng phó sự cố
Cần sửa Điều 82 và Điều 83 liên quan tới quy định nhóm tình huống và phân công
xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố. Quy định cụ thể việc phân công trách nhiệm trong chỉ
huy ứng phó sự cố.
5. Các vấn đề cần quy định thêm hoặc hoàn thiện
Tham khảo hướng dẫn mới của IAEA (Tài liệu “Sổ tay Luật hạt nhân - Ứng dụng
lập pháp” (Handbook on Nuclear Law – Implementing Legislation), IAEA, xuất bản tháng
8/2010), để phù hợp với thông lệ quốc tế về những nội dung chính cần quy định trong luật
hạt nhân, nghiên cứu bổ sung thêm hoặc quy định chi tiết hơn các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các vấn đề sau:
- Nguyên tắc xây dựng và không ngừng củng cố văn hóa an toàn trong hoạt động
ứng dụng NLNT;
- Thanh tra và khen thưởng, xử lý vi phạm;
- Thanh sát (safeguards);
- Quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã cháy;
- An ninh hạt nhân, bảo vệ thực thể và chống vận chuyển trái phép nguồn phóng xạ,
vật liệu hạt nhân;
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại hạt nhân (gồm trách nhiệm của bên thứ ba).
Khuyến cáo số 1 trong Báo cáo của Đoàn đánh giá cơ sở hạ tầng ĐHN (INIR) của
IAEA năm 2012 có nội dung như sau: “Việt Nam cần nhanh chóng rà soát và ban hành
Luật NLNT sửa đổi để đáp ứng đầy đủ một số vấn đề quan trọng, bao gồm sự cần thiết
phải có: (1) một cơ quan pháp quy độc lập có hiệu lực (với các tổ chức có trách nhiệm
hoặc lợi ích liên quan đến triển khai chương trình ĐHN) với thẩm quyền và nguồn lực cần
thiết để thực hiện các trách nhiệm được quy định; (2) xác định rõ ràng trách nhiệm của
các cơ quan tham gia chương trình ĐHN; và (3) quy định đầy đủ về ứng phó sự cố, quản lý
chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã cháy, tháo dỡ, an ninh hạt nhân, thanh sát hạt
nhân và trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân”
*
* *
Kế hoạch sửa đổi, bổ sung Luật NLNT đã được đưa vào Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ Khóa XIII (Nghị quyết số 20/2011/QH13 ngày
26/11/2011). Việc sửa đổi Luật NLNT đồng thời cũng là một nhiệm vụ của Chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Hội nghị lần thứ sáu
13
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
BCH Trung ương Đảng khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế (ban hành kèm theo Nghị quyết số 46/NQ-CP ngày 29/3/2013
của Chính phủ). Thực hiện Nghị quyết này, Bộ trưởng Bộ KH&CN đã ban hành Quyết
định số 1037/QĐ-BKHCN ngày 06/5/2013 phân công nhiệm vụ cho Cục ATBXHN xây
dựng Dự án Luật NLNT (sửa đổi), thời gian hoàn thành vào năm 2015.
Hy vọng với sự quan tâm và chỉ đạo sát sao, sự vào cuộc quyết liệt của các cấp lãnh
đạo, các cơ quan, đơn vị có liên quan, Dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử sẽ được trình
xin ý kiến Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII vào kỳ họp cuối năm 2015 và sẽ được thông qua
vào đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV./.
14
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ DỊCH VỤ ĐO LIỀU CHIẾU XẠ CÁ NHÂN
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ HỖ TRỢ ỨNG
DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ
Nguyễn Việt Hùng
Cục ATBXHN
Hoạt động dịch vụ đo liều chiếu xạ cá nhân là một trong những hoạt động dịch vụ
hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử (NLNT) được quy định tại khoản 5 Điều 68 Luật
NLNT. Tổ chức, cá nhân hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử phải
đăng ký hoạt động theo quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ (khoản 3 Điều 69 Luật
NLNT).
Theo quy định tại Điều 21 Luật NLNT về kiểm soát chiếu xạ do công việc bức xạ
gây ra, tổ chức, cá nhân tiến hành công việc bức xạ phải tuân thủ các nguyên tắc kiểm soát
chiếu xạ bảo đảm cho liều chiếu xạ đối với công chúng và đối với nhân viên bức xạ không
vượt quá liều giới hạn. Quy định này cũng được cụ thể hóa trong Thông tư số 19/2012/TT-
BKHCN ngày 08/11/2012 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) quy định
về kiểm soát và bảo đảm an toàn bức xạ trong chiếu xạ nghề nghiệp và chiếu xạ công
chúng: “Tổ chức, cá nhân tiến hành công việc bức xạ phải trang bị liều kế cá nhân cho tất
cả nhân viên làm việc trong khu vực kiểm soát, khu vực giám sát”. Như vậy, tất cả các
nhân viên bức xạ đều phải được trang bị và theo dõi liều xạ kế cá nhân.
Trong tình hình kinh tế - xã hội ngày càng phát triển hiện nay, trên cả nước có
khoảng hơn 4000 tổ chức, cá nhân tiến hành công việc bức xạ, sử dụng khoảng 15000 nhân
viên bức xạ. Với nhu cầu phát triển của kinh tế - xã hội, số lượng này sẽ ngày một gia tăng
và nhu cầu về trang bị, theo dõi liều cá nhân sẽ ngày càng nhiều.
Hiện nay, trên cả nước có 04 tổ chức đã được cấp giấy đăng ký thực hiện dịch vụ
hỗ trợ ứng dụng NLNT trong lĩnh vực này là:
- Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân;
- Viện Nghiên cứu hạt nhân;
- Trung tâm hạt nhân TP. Hồ Chí Minh;
- Trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ (Bình Dương).
Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) thực hiện chức năng, nhiệm vụ giúp
Bộ trưởng Bộ KH&CN quản lý và cấp giấy đăng ký thực hiện dịch vụ hỗ trợ ứng dụng
năng lượng nguyên tử trong đó có các tổ chức thực hiện dịch vụ kiểm định, hiệu chuẩn và
dịch vụ đo liều chiếu xạ cá nhân. Tuy nhiên, trong thời gian qua, vấn đề quản lý, giám sát
chất lượng của các đơn vị đăng ký hoạt động các dịch vụ này chưa được tổ chức, triển khai
một cách chặt chẽ dẫn đến việc tồn tại những đơn vị không tuân thủ quy tắc bảo đảm chất
lượng trong hoạt động dịch vụ đã đăng ký.
Tháng 3/2014, Cục ATBXHN đã tiến hành triển khai công tác kiểm tra giám sát
quy trình bảo đảm chất lượng đối với bốn tổ chức thực hiện dịch vụ hỗ trợ ứng dụng
NLNT – dịch vụ đo liều chiếu xạ cá nhân nêu trên. Mỗi tổ chức đo liều gửi 29 liều kế cá
15
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
nhân (liều kế) về Cục ATBXHN. Cục ABXHN đã thực hiện mã hóa và chiếu liều chuẩn
đồng bộ cho các liều kế trên tại Phòng chuẩn liều của Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân.
Liều kế sau khi chiếu chuẩn được gửi đi đo liều tại từng tổ chức thực hiện dịch vụ dưới sự
giám sát của Cục ATBXHN. Sau khi nhận được kết quả đo liều, Cục ATBXHN đã triển
khai đánh giá kết quả đo liều dựa trên các khuyến cáo của IAEA nêu tại tiêu chuẩn số RS-
G-1.3 “Đánh giá chiếu xạ nghề nghiệp từ các nguồn bức xạ ngoài” (Safety Standards
Series, No. RS-G-1.3 - Assessment of occupational Exposure Due to External Sources of
Radiation).
Một số hình ảnh trong quá trình kiểm tra, giám sát chất lượng đối với dịch vụ đo liều
chiếu xạ cá nhân
Kết quả đợt kiểm tra cho thấy việc bảo đảm chất lượng trong dịch vụ hỗ trợ ứng
dụng NLNT nói chung hay dịch vụ đo liều chiếu xạ cá nhân nói riêng còn rất nhiều khó
khăn và tồn tại: hiện nay, bốn tổ chức cung cấp dịch vụ định liều cá nhân này đều cung cấp
dịch vụ đo liều chiếu xạ cá nhân bằng kỹ thuật nhiệt phát quang (TLD) nhưng rất khác
nhau về thiết bị đo liều (Toledo 654, Harshaw 4500 và Rados-2000), loại liều kế cá nhân
TLD, nhân lực và tổ chức quản lý. Mỗi một hệ đo đều có ưu và nhược điểm riêng. Vấn đề
đặt ra là cần phải tổ chức dịch vụ định liều cá nhân như thế nào để đáp ứng được lượng
khách hàng ngày càng lớn trong khi vẫn bảo đảm được kết quả định liều chính xác, nâng
được chất lượng dịch vụ ngang tầm khu vực. Sau đợt kiểm tra, Cục ATBXHN đã có
khuyến cáo, kiến nghị đối với từng tổ chức đo liều góp phần nâng cao năng lực kỹ thuật,
chất lượng dịch vụ.
16
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
Đồng thời, Cục ATBXHN nhận thấy vấn đề bảo đảm chất lượng đối với dịch vụ đo
liều chiếu xạ cá nhân, cần phải có sự đầu tư thích đáng của tổ chức thực hiện dịch vụ về cả
nhân lực và trang thiết bị cũng như sự quản lý, giám sát chặt chẽ từ phía cơ quan quản lý.
Vì vậy, Cục ATBXHN đã xác định nhiệm vụ kiểm tra, giám sát quy trình bảo đảm
chất lượng đối với các tổ chức đo liều chiếu xạ cá nhân là cần thiết và cấp bách. Cục
ATBXHN sẽ triển khai thực hiện công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với các tổ
chức dịch vụ này từ đó có những đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
trong tương lai./.
17
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH
CỦA CỤC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2013
Dương Quốc Hùng, Hoàng Thị Luyến, Nguyễn Thị Thủy,
Đào Ngọc Phương, Hoàng Thị Phương
Thanh tra Cục ATBXHN
1. Hoạt động thanh tra ATBXHN của Cục ATBXHN năm 2013
Trong năm 2013, Cục ATBXHN đã tiến hành 12 đợt thanh tra theo kế hoạch, 05 đợt
thanh tra đột xuất trên địa bàn 17 tỉnh, thành phố trên cả nước.
Trọng tâm thanh tra năm 2013 là tập trung vào các cơ sở công nghiệp, đặc biệt là các
cơ sở sử dụng các nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ hoạt động trên địa bàn nhiều tỉnh; các cơ
sở y tế lớn sử dụng nhiều nguồn phóng xạ và thiết bị bức xạ; các cơ sở nghiên cứu đào tạo.
Tổng số 62 cơ sở đã được thanh tra, trong đó có 33 cơ sở công nghiệp (chiếm 53,2%), 11
cơ sở y tế (chiếm 17,7%), 06 cơ sở nghiên cứu đào tạo (chiếm 9,7%), 07 cơ sở ứng dụng
bức xạ trong vàng bạc (chiếm 11,3%), 03 cơ sở dịch vụ năng lượng nguyên tử (chiếm
4,8%) và 02 cơ sở hạt nhân (01 cơ sở, chiếm 3,2%).
Các đoàn thanh tra của Cục ATBXHN đã lập biên bản xử lý vi phạm hành chính đối
với 03 cơ sở, chuyển hồ sơ cho Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền là 28 triệu đồng.
Ngoài việc tiến hành thanh tra chuyên ngành về an toàn hạt nhân đối với lò phản ứng
hạt nhân nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, điểm mới trong hoạt động thanh
tra an toàn hạt nhân năm 2013 của Cục ATBXHN là đã tiến hành đợt thanh tra đối với hoạt
động khảo sát, đánh giá địa điểm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận với việc huy động và
phối hợp với các chuyên gia trong các lĩnh vực địa chất, địa chấn, xây dựng, Cục Giám
định nhà nước về chất lượng công trình xây dựng thuộc Bộ Xây dựng.
Bên cạnh đó, Cục ATBXHN còn tham gia phối hợp với các đoàn kiểm tra về quản lý
chất thải, vệ sinh môi trường và an toàn bức xạ tại các đơn vị y tế do Bộ Y tế tổ chức.
Hoạt động thanh tra đã phát hiện và rút ra các bài học quan trọng cho công tác quản
lý nhà nước thời gian qua:
- Hệ thống quản lý đảm bảo an toàn bức xạ của nhiều đơn vị hoạt động trong lĩnh
vực ứng dụng năng lượng nguyên tử chưa được quan tâm đầy đủ và chưa được tổ chức
hiệu quả ;
- Việc tổ chức theo dõi liều chiếu xạ cá nhân cho nhân viên bức xạ có nhiều tiến bộ
so với những năm trước đây. Tuy nhiên, tại một số đơn vị sử dụng nguồn phóng xạ, thiết bị
bức xạ việc theo dõi liều xạ cá nhân vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ theo đúng
quy định của Pháp luật;
- Vẫn còn tình trạng nhân viên bức xạ nhận liều chiếu cao tại một số đơn vị sử dụng
nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ nhưng không được xử lý và làm rõ nguyên nhân, đặc biệt
tại các đơn vị chụp ảnh phóng xạ công nghiệp tiến hành ngoài hiện trường;
- Việc khai báo và xin cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ đã có nhiều chuyển
biến tích cực, nhưng vẫn còn trường hợp sử dụng thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ không có
giấy phép hoặc giấy phép đã hết hạn;
- Vi phạm phổ biến của một số đơn vị xuất nhập khẩu thiết bị có chứa nguồn phóng
xạ là không báo cáo với Cục ATBXHN tình trạng xuất nhập khẩu nguồn theo như điều
18
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
kiện đã được ghi trong giấy phép hoặc sau khi nhập khẩu nguồn phóng xạ không tiến hành
xin cấp giấy phép sử dụng theo quy định;
- Một số trường hợp khi ngừng hoạt động, đơn vị không gửi công văn báo cáo với cơ
quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân dẫn tới nguy cơ mất kiểm soát đối
với các nguồn phóng xạ và các thiết bị bức xạ;
- Việc báo cáo thực trạng an toàn tiến hành công việc bức xạ hàng năm của một số cơ
sở bức xạ cho cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân chưa được thực
hiện đầy đủ.
Hoạt động thanh tra cũng phát hiện các thiếu sót, bất cập trong công tác quản lý, các
quy định còn chưa phù hợp trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực năng
lượng nguyên tử từ đó đưa ra các đề xuất kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả của công tác
quản lý bảo đảm an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
và đảm bảo an toàn đối với các đơn vị sử dụng bức xạ và các cơ sở hạt nhân.
2. Đánh giá việc thực hiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực an toàn bức xạ
qua hoạt động thanh tra ATBXHN của Cục ATBXHN năm 2013
Kết quả đánh giá việc thực hiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực an toàn bức xạ,
hạt nhân của các đoàn thanh tra Cục ATBXHN năm 2013 theo các tiêu chí được tổng hợp
trong bảng dưới đây.
19
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
Số
TT
Thực hiện Tỷ lệ (%) các đơn vị có kết quả thanh tra tốt, chưa tốt, chưa thực hiện/tổng số đơn vị thanh tra
1. Chấp hành các quy định về khai báo, xin cấp phép
2. Quyết định bổ nhiệm người phụ trách ATBX
3. Người phụ trách ATBX đã có chứng chỉ đào tạo về an
to
àn bức xạ do cơ quan QLNN cấp
4. Thực hiện theo dõi liều cá nhân cho nhân viên bức xạ
5. Lập hồ sơ theo dõi sức khỏe cho nhân viên bức xạ đị
nh
k
ỳ
6. Công tác quản lý hồ sơ kỹ thuật của thiết bị bức xạ,
các ch
ứngchỉ tài liệu liên quan đến nguồn phóng xạ
7. Lập sổ theo dõi vận hành thiết bị bức xạ
8. Quy trình hướng dẫn vận hành thiết bị an toàn
9. N
ội quy ATBX
10. Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ
11. Quy chế đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ
12. Thực hiện kiểm tra chất lương thiết bị, kiểm xạ định
k
ỳ khu vực làm việc.
13. Chế độ biển báo tại nơi sử dụng nguồn bức xạ
14. Thực hiện các yêu cầu của cơ quan QLNN về ATBX
và
khuyến cáo các đoàn thanh tra trước đây-
15. Kết quả kiểm tra thực tế tại nơi sử dụng thiết bị
16. Báo cáo định kỳ hàng năm
1 Tốt 56 66 75 45 68 61 52 58 58 44 48 45 72 60 72 43
2 Chưa tốt 34 25 12 38 18 30 23 26 30 36 37 35 22 31 23 20
3
Chưa thực
hiện
10 9 13 17 14 9 25 16 12 20 15 20 6 9 5 37
20
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
So sánh kết quả đánh giá việc thực hiện các quy định pháp luật về an toàn bức xạ dựa trên
kết quả hoạt động các đoàn thanh tra trong 3 năm gần đây: 2011, 2012, 2013 được trình bày
trong biểu đồ dưới đây.
Biểu đồ 1: Kết quả thực hiện tốt 16 tiêu chí đánh giá công tác đảm bảo ATBX của các cơ sở
được Cục ATBXHN tiến hành thanh tra các năm 2011, 2012 và 2013.
Kết quả đánh giá, so sánh cho thấy một số tiêu chí và chỉ tiêu năm 2013 đã có sự tiến bộ so
với những năm trước đây. Cụ thể là các chỉ số Quyết định bổ nhiệm người phụ trách ATBX (2),
Người phụ trách ATBX đã có chứng chỉ đào tạo về an toàn bức xạ do cơ quan QLNN cấp (3),
Thực hiện theo dõi liều cá nhân cho nhân viên bức xạ (4), Công tác quản lý hồ sơ kỹ thuật của
thiết bị bức xạ, các chứng chỉ tài liệu liên quan đến nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ (6), Lập sổ
theo dõi vận hành thiết bị bức xạ (7), Quy trình hướng dẫn vận hành thiết bị an toàn (8), Thực
hiện các quy định về biển báo tại nơi sử dụng nguồn bức xạ, thiết bị bức xạ (13), Thực hiện các
yêu cầu của cơ quan QLNN về ATBX và khuyến cáo các đoàn thanh tra trước đây (14), Thực
hiện việc đánh giá ATBX và báo cáo định kỳ hàng năm (16) có kết quả cao nhất trong 3 năm gần
đây.
Các tiêu chí khác như tiêu chí số 1 khai báo, xin cấp phép chỉ số thực hiện tốt có thấp hơn
so với năm 2012 chủ yếu là do các đơn vị không xin cấp phép kịp thời cho các nguồn phóng xạ,
thiết bị bức xạ mới có hoặc mới được đưa vào sử dụng.
Việc Lập hồ sơ theo dõi sức khỏe cho nhân viên bức xạ định kỳ (tiêu chí số 5) đã được các
đoàn thanh tra quan tâm nhắc nhở nhưng vẫn chuyển biến chậm; việc xây dựng và ban hành Nội
quy ATBX (tiêu chí số 9) các đơn vị vẫn chưa thực sự quan tâm chú ý thực hiện; Kế hoạch ứng
phó sự cố bức xạ (tiêu chí số 10) và Quy chế đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ (tiêu chí số 11)
các đơn vị đã thực hiện nhưng chất lượng còn chưa đạt yêu cầu.
Tiêu chí số 12 Thực hiện kiểm tra chất lượng thiết bị, kiểm xạ định kỳ khu vực làm việc về
cơ bản tình hình vẫn duy trì như những năm trước đây. Các đơn vị đã quan tâm, lưu ý thực hiện
các quy định về kiểm định, đánh giá an toàn khu vực làm việc. Tuy nhiên, vẫn còn phổ biến các
sai sót như chưa thực hiện việc kiểm định, đánh giá đúng thời hạn, còn bỏ sót thiết bị cần kiểm
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
%
16 tiêu chí đánh giá công tác đảm bảo ATBX
2011
2012
2013
21
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
định hay khu vực cần đánh giá an toàn. Tiêu chí 15 Kết quả kiểm tra thực tế tại nơi sử dụng thiết
bị vẫn giữ ở mức như các năm trước.
3. Một số nhận xét và đánh giá chung
Nhìn chung, kết quả thanh tra những năm gần đây của Cục ATBXHN cho thấy thông qua
hoạt động thanh tra định kỳ hằng năm việc tuân thủ các quy định pháp luật về ATBX của các
đơn vị sử dụng bức xạ đã có những chuyển biến rõ rệt và đã đi vào nền nếp. Điều này được thể
hiện qua chỉ số đánh giá một số tiêu chí đảm bảo ATBX được các đơn vị thực hiện tốt tăng dần
và đạt giá trị khá cao trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những vấn đề chưa được khắc phục triệt để trong
công tác đảm bảo ATBX tại các đơn vị. Điều này dẫn đến việc luôn tiềm ẩn các nguy cơ rủi ro,
mất an toàn bức xạ nếu công tác thanh tra của Cục ATBXHN không được triển khai đều đặn,
chặt chẽ, đạt chất lượng cao.
Bên cạnh vai trò động lực thúc đẩy của Cục ATBXHN, nhiệm vụ quản lý bảo đảm an toàn
bức xạ, hạt nhân ngày càng đòi hỏi có sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả hơn của các cơ quan quản
lý về ATBX, đặc biệt là vai trò của cơ quan quản lý ATBX tại các địa phương cần được tăng
cường, nâng cao chất lượng công tác quản lý, cương quyết xử lý các sai phạm được phát hiện
qua công tác thanh tra nhằm khắc phục và hạn chế tối đa các vấn đề tồn đọng trong công tác đảm
bảo ATBX hiện nay./.
22
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
Hội nghị thượng đỉnh An ninh hạt nhân
và những đóng góp của Việt Nam vào tiến trình Hội nghị
Nguyễn Nữ Hoài Vi
Cục ATBXHN
Giới thiệu
Hội nghị thượng đỉnh An ninh hạt nhân (HNTĐ ANHN) do Tổng thống Hoa Kỳ Barrack
Obama khởi xướng. Trong bài phát biểu của mình tại Praha năm 2009, Tổng thống Obama đã
nói khủng bố hạt nhân là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với an ninh thế giới. Với suy
nghĩ đó, Tổng thống Obama đã mời Lãnh đạo cấp cao của 47 nước, trong đó có Việt Nam và ba
tổ chức quốc tế tham dự Hội nghị thượng đỉnh An ninh hạt nhân lần thứ nhất tại Oa-sinh-tơn,
Hoa Kỳ năm 2010. Mục đích của Hội nghị nhằm thu hút sự chú ý của các cấp lãnh đạo cao nhất
đối với sự cần thiết phải bảo đảm an ninh cho vật liệu hạt nhân và do đó ngăn chặn khủng bố hạt
nhân. Hội nghị thượng đỉnh An ninh hạt nhân lần thứ hai được tổ chức tại Xê-un, Hàn Quốc năm
2012 với sự tham gia của 53 nước và 4 tổ chức quốc tế. Trong khi HNTĐ lần thứ nhất quan tâm
đến việc có được cam kết chính trị của các Nhà Lãnh đạo cấp cao, thì Hội nghị lần thứ hai tập
trung vào những tiến bộ đạt được trong quá trình thực hiện các cam kết đã thống nhất tại Hội
nghị lần thứ nhất, và Hội nghị lần thứ ba tổ chức tại La Hay, Hà Lan năm 2014 tập trung vào các
kết quả đã đạt được và tương lai của cơ chế Hội nghị.
Để chuẩn bị cho các HNTĐ, nhiều cuộc họp tư vấn đã được tổ chức. Đối với HNTĐ
ANHN lần thứ ba năm 2014, quá trình này đã bắt đầu ngay từ năm 2012. Các nhà đàm phán của
các nước (được gọi là các sherpa và sous-sherpa) thảo luận những tiến bộ đã đạt được và các chủ
đề chính cũng như kế hoạch và các biện pháp về an ninh hạt nhân để cuối cùng đưa ra một
Thông cáo chung (Communiqué) được các Nhà lãnh đạo phê duyệt tại Hội nghị.
Hội nghị sous-sherpa tháng 4/2013
1. Tiến trình Hội nghị thượng đỉnh An ninh hạt nhân
23
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
Hội nghị thượng đỉnh An ninh hạt nhân lần thứ nhất được tổ chức tại Oa-sinh-tơn, Hoa
Kỳ từ ngày 12-13/4/2010. Hội nghị có sự tham dự của Lãnh đạo cấp cao 44 nước (trong đó có
các nước lớn như Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản, Ấn Độ, cùng nhiều nước đang
phát triển; trong ASEAN có In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Xinh-ga-po, Thái Lan và
Việt Nam) và 3 tổ chức quốc tế (Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế, Liên hợp quốc và Cộng
đồng chung châu Âu).
Phiên toàn thể Hội nghị thượng đỉnh ANHN lần thứ nhất tại Oa-sinh-tơn, Hoa Kỳ
Mục đích chính của Hội nghị này là thúc đẩy hợp tác quốc tế để tăng cường an ninh đối
với vật liệu hạt nhân, chống lại việc vận chuyển, chuyển giao trái phép vật liệu hạt nhân và các
thông tin công nghệ nhạy cảm, với mong muốn mở rộng các hợp tác song phương thành hợp tác
đa phương trong lĩnh vực này. Kết quả của Hội nghị là một Thông cáo chung của các nhà lãnh
đạo thế giới, cam kết sẽ áp dụng mức an ninh hạt nhân cao nhất và coi đây là vấn đề mấu chốt
cho việc phát triển và mở rộng năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình. Ngoài ra, Hội nghị
còn thông qua một Kế hoạch làm việc được xây dựng để thực hiện Thông cáo chung. Thông cáo
chung và Kế hoạch làm việc đã đề cập một cách toàn diện đến tất cả các cơ chế hiện có liên quan
đến an ninh hạt nhân. Nội dung chính của hai văn kiện này gồm:
- Khuyến khích việc thực hiện các văn bản mang tính ràng buộc về pháp lý như: Nghị
quyết 1540 của Hội đồng Bảo an về chống phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt, Công ước quốc tế
về ngăn chặn các hành động khủng bố hạt nhân, Công ước bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân và
bản Bổ sung cho Công ước;
- Ủng hộ các cơ chế hợp tác đa phương như Sáng kiến toàn cầu chống khủng bố hạt nhân
và Đối tác toàn cầu G8;
- Nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống thanh sát của IAEA cũng như Hệ thống kế
toán và kiểm soát hạt nhân của quốc gia và cơ sở hạt nhân; khuyến khích thực hiện theo các
Hướng dẫn về an ninh hạt nhân của IAEA nhằm phát hiện, ngăn chặn và đối phó với việc lấy
cắp, phá hoại, tiếp cận trái phép, chuyển giao bất hợp pháp vật liệu hạt nhân và các cơ sở sử
dụng vật liệu hạt nhân cũng như Kế hoạch hỗ trợ an ninh hạt nhân của IAEA nhằm nâng cao
năng lực và hỗ trợ về an ninh hạt nhân đối với các quốc gia thành viên;
- Khuyến khích các quốc gia thúc đẩy và hỗ trợ việc chuyển đổi nhiên liệu urani có độ
giàu cao (HEU) xuống urani có độ giàu thấp (LEU) đối với các lò phản ứng nghiên cứu và đảm
bảo an ninh cho nhiên liệu HEU đã cháy;
24
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
- Khuyến khích sự tham gia của ngành công nghiệp điện hạt nhân cũng như tất cả các bên
liên quan trong vấn đề bảo đảm an ninh hạt nhân;
- Khuyến khích việc chia sẻ thông tin và phát triển năng lực trong việc phát hiện, ngăn
chặn và đối phó với việc buôn bán bất hợp pháp vật liệu hạt nhân.
Mục đích của Thông cáo chung và Kế hoạch làm việc là nhằm khẳng định cam kết chính
trị của các quốc gia, khẳng định tầm quan trọng của các văn kiện, biện pháp hiện có, kêu gọi các
quốc gia xem xét việc thực hiện tại quốc gia mình, đồng thời tham gia các cuộc thảo luận,
thương lượng và các hình thức hợp tác quốc tế liên quan.
Hội nghị thượng đỉnh An ninh hạt nhân lần thứ hai được tổ chức tại Xê-un, Hàn Quốc, từ
ngày 26-27/3/2014. Tại Hội nghị này, Hàn Quốc đã mời thêm 6 nước, đó là A-déc-bai-zan, Đan
Mạch, Ga-bông, Hung-ga-ri, Li-thu-an-ni-a và Ru-ma-ni và một tổ chức quốc tế là Interpol. Như
vậy, tổng cộng có 53 nước và 4 tổ chức quốc tế tham dự Hội nghị lần này.
Hội nghị đã nhất trí thông qua Thông cáo chung khẳng định lại mục tiêu chung về không
phổ biến và giải trừ vũ khí hạt nhân, sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích hòa bình và tiếp
tục đề cao các biện pháp đã nêu ở Hội nghị lần thứ nhất như hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và cơ
chế quản lý quốc gia; chống buôn lậu hạt nhân, đảm bảo an ninh vận tải; đề cao vai trò của các
cơ chế đa phương toàn cầu như IAEA, Liên hợp quốc; tăng cường hợp tác quốc tế. Trong bối
cảnh sự cố hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) làm dấy lên quan ngại quốc tế về an ninh hạt nhân
khi các cơ sở hạt nhân bị mất an toàn do tác động tự nhiên, Thông cáo chung đã khẳng định mối
quan hệ mật thiết giữa an toàn và an ninh hạt nhân, đề ra các biện pháp mới đảm bảo an toàn và
an ninh hạt nhân như việc thiết kế, xây dựng, quản lý các cơ sở hạt nhân cần được thực hiện đảm
bảo cả an toàn và an ninh, khuyến khích trao đổi thông tin về quan hệ tương tác giữa an toàn và
an ninh hạt nhân; khuyến khích các quốc gia xây dựng kế hoạch phù hợp quản lý các vật liệu hạt
nhân và chất thải phóng xạ. Đồng thời, Thông cáo chung cũng cụ thể hóa một số biện pháp đã
nêu ở Hội nghị trước thông qua việc xác định thời gian thực hiện như: khuyến khích các nước
phê chuẩn để hướng tới đưa Phần Sửa đổi của Công ước Bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân có
hiệu lực năm 2014; và khuyến khích các nước thông báo các biện pháp tự nguyện giảm thiểu sử
dụng u-ran-ni làm giàu cao trước cuối năm 2013.
Tại Hội nghị lần này, một số nước tham gia Hội nghị quan tâm đến việc tiến một bước xa
hơn trong việc thực hiện các cam kết nêu ra trong các Thông cáo chung. Vì vậy, đã đưa ra các
Sáng kiến được gọi là “Rổ quà” (gift basket). Các nước đề xuất sáng kiến sẽ đề xuất các nước
khác cùng tham gia với mình để trở thành như những khuôn mẫu cho một khía cạnh an ninh hạt
nhân cụ thể. Năm sáng kiến (được gọi là Gift Basket) thúc đẩy một số lĩnh vực khác nhau trong
an ninh hạt nhân đã được đề xuất, gồm Sáng kiến về An ninh Thông tin (Anh), Sáng kiến về An
ninh Nguồn Phóng xạ (Đức), Sáng kiến xây dựng Bộ hướng dẫn Pháp lý quốc gia về An ninh hạt
nhân (In-đô-nê-xi-a), Sáng kiến về Chống buôn lậu Hạt nhân (Gióoc-đa-ni) và Sáng kiến về Các
Trung tâm Hỗ trợ và Đào tạo An ninh hạt nhân (Mỹ). Nhìn chung, các sáng kiến, đặc biệt sáng
kiến của Anh và In-đô-nê-xi-a, được các nước ủng hộ, cam kết thực hiện trên cơ sở tự nguyện và
phù hợp điều kiện quốc gia.
25
Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân số 3/2014| VARANS
Các nhà lãnh đạo tại Hội nghị thượng đỉnh ANHN La Hay, Hà Lan
Hội nghị thượng đỉnh An ninh hạt nhân lần thứ ba được tổ chức tại La Hay, Hà Lan, từ
ngày 24-25/3/2014. Hội nghị cũng có sự tham dự của 53 nước và 4 tổ chức quốc tế.
Hội nghị lần này được cho là rất thành công với việc các Nhà lãnh đạo cùng cam kết
ngăn chặn những kẻ khủng bố lấy được vật liệu hạt nhân có thể sử dụng làm vũ khí hạt nhân.
Thông cáo chung của Hội nghị thượng đỉnh An ninh hạt nhân lần này đưa thêm nhiều cam kết
mới, bao gồm:
- Giảm lượng vật liệu hạt nhân nguy hiểm mà khủng bố có thể sử dụng làm vũ khí hạt
nhân (urani có độ làm giàu cao và plutoni).
- Cải thiện an ninh đối với vật liệu phóng xạ (bao gồm cả urani có độ làm giàu thấp) có
thể sử dụng làm bom bẩn.
- Tất cả các quốc gia tham gia HNTĐ ANHN sẽ thực hiện theo các hướng dẫn của IAEA
về an ninh hạt nhân. Đặc biệt, 35 quốc gia, trong đó có Việt Nam đã cam kết đưa các hướng dẫn
này vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong nước.
- Giám định hạt nhân là một công cụ quan trọng trong đấu tranh chống lại việc sử dụng
vật liệu hạt nhân bất hợp pháp vì có thể xác định được nguồn gốc của vật liệu hạt nhân cũng như
đường di chuyển của vật liệu hạt nhân.
- Tăng cường trao đổi thông tin và hợp tác quốc tế. Sự tin tưởng lẫn nhau sẽ cho phép
hợp tác hiệu quả hơn và dễ dàng đánh giá liệu vật liệu hạt nhân trên toàn thế giới có được bảo
đảm an ninh hay không.
- Các quốc gia tham gia HNTĐ ANHN cũng đã đặt cơ sở cho một cấu trúc an ninh hạt
nhân hiệu quả và bền vững, bao gồm các điều ước quốc tế, các hướng dẫn và các tổ chức quốc
tế, trong đó IAEA đóng vai trò quan trọng.
- Liên quan đến việc sử dụng vật liệu hạt nhân trong các ngành công nghiệp, Hội nghị
xác định, chính phủ và các ngành công nghiệp cần hợp tác chặt chẽ. Việc bảo đảm an ninh cho