Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Phân tích hợp tác Việt Nam và Liên minh châu Âu trong lĩnh vực dệt may - 2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.53 KB, 8 trang )

tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau . Quan hệ Việt Nam –EU bước vào giai đoạn lịch sử
mới khi .
Hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU được ký kết vào tháng 7/1995 . Hiệp định đã
tạo ra những yếu tố thuận lợi cho EU và mối nước thành viên EU trong quan hệ hợp tác
thương mại và đầu tư với Việt Nam . Có thể nói , hiệp định khung hợp tác Việt Nam –
EU vừa là cơ sở pháp lý vừa là động cơ thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU
phát triên mạnh mẽ và toàn diện trên rất nhiều lĩnh vực : hợp tác thương mại, đầu tư
khoa học kỹ thuật môi trường văn hoá giáo dục y tế… đặc biệt là trng lĩnh vực dệt may.
Bằng chứng là hai hiệp định dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1993 – 1997 và 1998 –
2000 đã ký kết . nhờ đó kim ngạch hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU đã
tăng lên nhanh chóng . Vẫn đề này sẽ được nghiên cứu kỹ ở chương tiếp theo.
Chương 2 Thực trạng thương mạI việt nam -eu trong lĩnh vực dệt may
2.1. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam .
Ngành dệt may là ngành công nghiệp truyền thống có lịch sử phát triển rất lâu đời ở
nước ta . Mạc dù thường xuyên phảI đối mặt với rất nhiều thử thách , song với đặc tính
thu hút nhiều lao động , đầu tư ít vốn , thu lãi nhanh , ngành dệt may đã tận dụng được
các lợi thế của đất nước và đóng góp ngày càng nhiều cho quá trình phát triển kinh tế
của đất nước .
Thứ nhất , ngành dệt may phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo đầy đủ
nhu cầu thiết yếu cho nhân dân trong nước “sau cái ăn là cái mặc ”, qua đó góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân . Trên thực tế sản phẩm của ngành
dệt may chỉ mới đáp ứng được một phần nhu cầu trong nước . Hàng năm chúng ta vẫn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phảI nhập với một khối lượng lớn nguyên liệu lẫn hàng dệt may thành phẩm . Mặt khác
ngành dệt may sản phẩm cho tiêu dùng trong nước chất lượng còn thấp , mẫu mã chưa
phong phú , giá cả lại cao so với sản phẩm dệt may nhập khẩu . Tuy nhiên trong những
năm gần đây , ngành dệt may đã có kế hoạch đổi mới trang thiết bị , tăng sản lượng ,
giảm giá thành , đa dạng hoá mẫu mã nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của
nhân dân trong nước .
Thứ hai , với đặc tính sử dụng nhiều lao động , đặc biệt là đối với ngành dệt may
Việt Nam thiếu thiết bị công nghệ hiện đại vì thế còn rất nhiêù công đoạn sản xuất thủ


công , nên ngành dệt may có khả năng giải quyết việc làm cho rất nhiều lao động . Hiện
nay toàn ngành dệt may Việt Nam đang sử dụng hơn 500. 000 lao động Con số này là
nhỏ khi so với tổng số 38 triệu người trong độ tuổi lao động của Việt Nam nhưng là
một con số khá lớn đối với một ngành công nghiệp , có ý nghĩa không chỉ trên phương
diện kinh tế mà còn góp phần bình ổn chính trị – xã hội .
Thứ ba , không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước , hiện nay sản phẩm dệt may của
Việt Nam đã có mặt ở rất nhiều thị trường nước ngoài . Các sí nghiệp dệt may lớn ở
Trung ương và địa phương đều đang cố gắng dành năng lực tốt nhất cho sản xuất hàng
dệt may . Ngành dệt may đã phát huy và tận dụng hết tiềm năng sẵn có của đất nước ,
thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đó . Trong thời gian tới , chúng ta cần phải có những chính
sách phù hợp để khai thác hiệu quả những ưu thế của ngành dệt may nhằm thúc đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước .
2.2. Cơ cấu thị trường ngành dệt may Việt Nam
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Nhiệm vụ đầu tiên của ngành dệt may là đáp ứng cho nhu cầu của nhân dân trong
nước “sau cái ăn là cái mặc ” . Nhưng trên thực tế , ngành dệt may chưa hoàn thành
nhiệm vụ này , hàng năm chúng ta vẫn phải nhập một lượng lớn nguyên liệu lẫn hàng
dệt may thành phẩm . Điều này chứng tỏ rằng trong quá trình phát triển và hướng ngoại
ngành dệt may Việt Nam đã để lại một khoảng trống sau lưng mình , đó là thị trường
may mặc trong nước Hiện nay các sí nghiệp dệt may lớn Trung ương và địa phương
đều đang cố gắng dành những năng lực tốt nhất cho sản xuất hàng dệt may xuất khẩu ,
phần nào không xuất được thì để lại tiêu dùng trong nước . bằng chứng là thỉnh thoảng
mọt doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nào đó lạI đưa ra “cửa hàng giới
thiệu sản phẩm” của mình những lô hàng kém phẩm chất bán cho hàng tiêu dùng , đó là
những chiếc quần áo rộng quá cỡ , khác biệt về màu sắc và kiểu mốt đối với người Việt
Nam . Hoạt động của ngành dệt may trên thị trường nội địa có thể được phản ánh như
sau :
ở thị trường thành thị , thị trường bị thả nổi : Các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng
may mặc của tư nhân gia đời rất nhanh với nhiều quy mô và hình thức khác nhau đã
thay thế dần cho may mặc quốc doanh , tình trạng kinh doanh đất trốn lậu thuế sản xuất

buôn bán hàng giả , hàng “Sida” , hàng ngoại tràn vào một cách tràn lan , khó kiểm soát
được . ở thị trường nông thôn , miền núi lại khác hẳn thị trường bị bỏ trống bởi cầu ít ,
khả năng thanh toán kém do đó không đủ sức để thu hút tư thương vào .
Nếu ta chỉ làm một phép tính đơn giản cũng có thể thấy được sự lãng phí đáng quan
tâm của ngành dệt may Việt Nam . Nước ta hiện nay có khoảng 78 triệu dân , chỉ tính
khiêm tốn mỗi người tiêu dùng bình quân 100. 000 đồng / năm sẽ tạo được một thị
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trường với sức mua 7800 tỷ đồng ( tương đương với khoảng 600 triệu USD ) xấp xỉ
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của chúng ta vào 14 quốc gia thành viên EU năm
1998 .
Đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu ra hai khu vực
thị trường : có hạn ngạch và phi hạn ngạch . Thị trường có hạn ngạch do EU áp đặt .
Nơi đây , loại hình gia công chiếm vhủ yếu 80% kim ngạch xuất khẩu hầu như ổn định
. Sau khi Hiệp định dệt may thời kỳ đầu ( 1993 – 1997 ) được ký kết kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU không ngừng tăng lên . Thời kỳ đầu có 105
chủng loại ( category – cat ) quản lý bằng hạn ngạch , sau khi điều chỉnh ( tháng 8/
1995 ) còn 54 cat và khi hiệp định thời kỳ 1998 – 2000 được ký kết thì số cat quản lý
hạn ngạch chỉ còn 29 . Tính gia , có 122 đã được EU “giải phóng ” số lượng Cat được
giải phóng này có thể mang lạI một kim ngạch không nhỏ .
Trước những khó khăn trong việc khai thác thị trường xuất khẩu như đã nêu trên ,
việc mở rộng và tăng cường hơn lữa hợp tác với thị trường EU là một đòi hỏi khách
quan của nganhf dệt may Việt Nam . Đó cũng chính là lý do mà toàn bộ chỉ đi sâu tìm
việc thực trạng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đi EU để rút ra thách
thức và thuận lợi .
2.3. Cơ cấu của ngành dệt may Việt Nam .
Theo thống kê cuối năm 1995 , tổng số cơ sở dệt may là 109369. Trong đó : số cơ sở
dệt là 74633, may là 34736 đơn vị . Hiện nay các cơ sở dệt may phân bố hầu như khắp
các tỉnh thành trong cả nước . Song , hiệu quả hoạt động của các cơ sở ở các tỉnh khác
nhau là khác nhau . Theo thống kê chung , các cơ sở miền trung hoạt động kém hiệu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

quả , sản phẩm không đủ chất lượng để cạnh tranh trên thị trường quốc tế do thiếu công
nghệ hiện đại , thiếu thông tin về thị trường , cơ sở hạ tầng lạc hậu …Các doanh nghiệp
hoàt động có hiệu quả thường tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh , Đồng Nai , Nha
Trang , Hải Phòng , Hà Nội …Sự phát triển không đồng bộ này chính là câu hỏi đặt ra
với các nhà hoạch định chính sách . Chúng ta cần có những chính sách đầu tư và tín
dụng phù hợp để khai thác đầy đủ và hiệu quả các tiềm lực ở các địa phương nhằm xây
dựng ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ của nó , một ngành công nghiệp chủ lực trong
chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam .
Và đáng nói nhất của ngành dệt may Việt Nam là nguyên vật liệu . Đây là một vấn đề
nan giải , làm ảnh hưởng đến chất lượng giá cả , sự cạnh tranh của sản phẩm dệt may
Việt Nam trên thị trường quốc tế :
Nguyên vật liệu của ngành dệt bao gồm các loại : Bông , đay , tơ tằm , xơvisco , xơ
PE , các loại xơ liber khác , các loại hoá chất , thuốc nhuộm . Trong đó nguyên liệu sản
xuất trong nước chỉ có bông , đay , tơ tằm . Tuy nhiên sản lượng bông đay , tơ tằm vẫn
còn thấp ,chất lượng kém do sử dụng giống cũ đã thoái hoá , máy móc trong trang bị
trong khâu thu hoạch và bảo quản còn lạc hậu , giá thành cao hơn giá của nguyên liệu
ngoại nhập . Hơn nữa , từ năm 1993 đến nay , diện tích trồng các loại nguyên liệu này
đã giảm mạnh do ngành dệt chưa có kế hoạch thu mua khiến cho người trồng trọt lo
lắng vì giá cả , thị trường tiêu thụ không ổn định . Chính vì vậy , hàng năm chúng ta
phải nhập khẩu với số lượng lớn, bông , đay , tơ tằm và các nguồn sợi tổng hợp khác .
Nguyên liệu của ngành may cũng vậy , vải trong nước cung cấp cho may công
nghiệp rất ít doanh nghiệp đáp ứng được , Mặc dù , một vài năm gần đây công nghệ dệt
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
của ta đã có những bước tiến đáng kể nhưng nhìn chung chưa đồng bộ , chất lượng vải
chưa cao. Tính trong toàn bộ năm 1998 lượng bông nhập khẩu là 78 triệu USD , lượng
sợi các loại là 207 triệu USD , vải các loại là 418 triệu USD . Đáng chú ý là lượng vải
nhập khẩu cho gia công là 392 triệu USD , trong khi lượng vải nhập khẩu cho kinh
doanh là 27 triệu USD . Chính vì thế , giảm bớt sự phụ thuộ về nguyên liệu trong
ngành dệt – may vừa là mong muốn chủ quan vứa là yêu cầu khách quan .
Ngoài ra ngành dệt may còn phải nói đến đổi mới công nghệ , theo đánh giá chung

thiết bị và công nghệ của ngành dệt may Việt Nam hiện nay lạc hậu khoảng 10-20 năm
so với thế giới . Tuy nhiên so với năm gần đây , có khá nhiều thiết bị , máy móc tiên
tién đã được đưa vào sản xuất thay thế cho thiết bị cũ , đặc biệt là ngành may . Nhiều
doanh nghiệp đã trang bị nhữnh thiết bị chuyên dùng như máy thêu tự động , máy cắt ,
hệ thống ủi hơi hập từ các nước công nghiệp tiên tiển . Điều đáng buồn là việc đầu tư
trong ngành dệt may không được xem xét dưới các góc độ bảo đảm sự phát triển kinh tế
bền vững của một ngành nói riêng và của toàn nền kinh tế nói chung . Đầu tư không
đồng bộ giữ ngành may và ngành dệt và giữa các công đoạn trong quá trình sản xuất
của một doanh nghiệp . Hầu hết , các chủng loại máy may và công nghệ đang sử dụng
trong nghành may đều là máy mới . Ngược lại ngành dệt may chưa có sự thoả đáng ,
ngành dệt còn 50% thiết bị đã sử dụng trên 20 năm . Sự đồng bộ này còn được thể hiện
ngay ở lượng FDI vào ngành dệt may Việt Nam trong những năm vừa qua .
Với tình hình trên , nếu việc đầu tư đổi mới công nghệ dệt – may không được cải tiến
và không có một chiến lược xét trên giác ngộ toàn ngành dệt sẽ mãi mải tụt hậu so với
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
ngành may và ngành may cũng sẽ bị suy giảm khi Việt Nam không còn thế mạnh là
nước có giá trị nhân công rẻ .
2.4. Một số đánh giá về thực trạng thương mại dệt may Việt Nam-EU
Từ khi nền kinh tế nước ta mới chập chững vận hành theo cơ chế thị trường ngành
công nghiệp dệt may đã chứng tỏ vai trò quan trọng của mình , với đặc điểm sử dụng
nhiều lao động . Ngành dệt may đã khai thác được lợi thế so sánh của nước ta và trở
thành một trong năm ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may tăng lên nhanh chónh từ năm 1989- 1997 và luôn chiếm vị trí thứ hai sau
dầu thô . Riêng năm1998 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã vươn lên vị trí đầu
bảng với 1,375 tỷ USD .
Tuy nhiên việc xuất khẩu mặt hàng này trong năm 1998 cũng đầy “sóng gió” . Mặc
dù giữ vị trí đầu bảng nhưng cũng chỉ là mức đã đạt trong năm 1997 và thấp khá xa so
với mức dự kiến 1,5 tỷ USD ban đầu . Sự chững lại trong xuất khẩu mặt hàng này là do
thị phần ở thị trường phi hạn ngạch giảm quá mạnh từ 900 triệu USD năm 1997 xuống
chỉ còn 700 triệu USD năm 1998 . Đồng thời vơíi sự suy giảm vai trò của thị trường các

quốc gia Châu á đối với ngành dệt may Việt Nam , vai trò của thị trường EU càng được
củng cố . Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vẫn tăng 30% sau khi hiệp định
dệt may Việt Nam EU giai đoạn 1998-2000 có hiệu lực , chiếm khoảng 45% so với
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may EU thực sự là một thị trường xuất khẩu chủ
đạo của ngành dệt may Việt Nam .
Đối với hàng hoá trong lĩnh vự dệt may nhập từ EU vào Việt Nam , tỷ lệ hàng thành
phẩm rất ít , chủ yếu là các loại máy móc , thiết bị , vật tư nguyên liệu và hoá chất .
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Mặc dù chất lượng hàng dệt may của EU rất cao , nhưng kích thước mẫu mã mầu sắc
lạI không phù hợp với thị hiếu của người Việt Nam .
Nhìn chung cơ cấu trao đổi hàng hoá đã thể hiện đúng khả năng và nhu cầu của mỗi
bên . Cơ cấu trao đổi này cũng hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của công cuộc công
nghiệp hoá , hiện đại hoá mà Việt Nam đang theo đuổi . Trong những năm tới , chúng
ta cần phải tiếp tục khai thác thị trường EU theo hướng này . Có như vậy chúng ta mới
tận dụng được tiềm năng của mình và khai thác được các mặt mạnh của EU .
Thành quả đã đạt được trong những năm qua là kết quả của những lỗ lực từ hai phía .
Phía Việt Nam , chúng ta không ngừng cải tiến mẫu mã , nâng cao chất lượng , hạ giá
thành sản phẩm để đáp ứng nhu cầu các khách hàng EU . Ngược lại EU cũng dành cho
chúng ta những điều kiện có lợi để thúc đẩy quan hệ buôn bán mặt hàng này . Tuy
nhiên , việc thâm nhập một thị trường kỹ tính như EU trong khi chúng ta chưa phải là
thành viên của WTO quả là đIều hết sức khó khăn . Mặc dù , kim ngạch xuất khẩu dệt
may sang thị trường EU có tăng , song đó vẫn chưa phải là tất cả những gì chúng ta
mong đợi . Nguyên nhân của việc này cũng chính là khó khăn thách thức má các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam phải đối đầu khi thâm nhập thị trường EU .
Thứ nhất : Phương châm “may làm lối ra cho dệt” chưa được thể hiện trong việc sản
xuất và xuất khẩu sang thị trường EU . Vải sản xuất trong nước không đáp ứng được độ
đồng đều về mầu sắc , độ co rút sự đa dạng chủng loại , tính thời trang … Chẳng hạn
với tiêu chuẩn vải may sơ mi xuất khẩu sang thị trường EU là sợi bông 100% nhưng
yêu cầu hình thức như Polyeste thì các công ty dệt may Việt Nam đều không đáp ứng
được .

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×