Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

HỆ THỐNG NHTM CỦA VIỆT NAM pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.31 KB, 14 trang )








HỆ THỐNG
Ngân Hàng
Thương Mại
CỦA VIỆT NAM
Tên: Phùng Thị Phương Thảo
Lớp: Ngân hàng 4 – Ngày 1 K17

HỆ THỐNG NHTM CỦA VIỆT NAM

I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỆ THỐNG NHTM:
1. Khái niệm:
Theo Luật tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua vào ngày 12 tháng 12
năm 1997, định nghĩa: NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ họat động ngân hàng và các haọt động khác có liên quan.
Trong đó, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán.
2. Chức năng:
Nhìn chung, ngân hàng thương mại có ba chức năng cơ bản:
+ Chức năng trung gian tài chính, bao gồm trung gian tín dụng và trung gian
thanh toán giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Chức năng tạo tiền, tức là chức năng sáng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng
khối tiền tệ cho nền kinh tế.
+ Chức năng “sản xuất” bao gồm việc huy động và sử dụng các nguồn lực để


tạo ra “sản phẩm” và dịch vụ ngân hang cung cấp cho nền kinh tế.
3. Vị trí và vai trò:
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử
dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra
lưu thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay
và có những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này
không quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được
lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ
người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay.
Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn
rỗi trong nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu
vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch
có được nó sẽ duy trì họat động của mình.Vai trò trung gian này trở nên phong
phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,… NHTM có thể làm trung
gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng
khoán; đảm nhận việc mua trái phiếu công ty…
4. Các hoạt động chủ yếu của hệ thống NHTM:
Theo Luật tổ chức tín dụng nêu ra các hoạt động của Tổ chức tín dụng, trong đó
chủ yếu là ngân hàng thương mại, bao gồm:
a) Hoạt động huy động vốn:
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
 Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình
thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn và các loại tiền gửi khác.
 Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn
của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
 Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức
tín dụng nước ngoài.
 Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước.

 Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng nhà nước.
b) Hoạt động tín dụng:
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình
thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho
thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng nhà nước.
Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỉ
trọng lớn nhất.
c) Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
Hoạt động thanh toán và ngân quỹ của ngân hàng thương mại bao gồm các
hoạt động sau:
5. Cung cấp các phương tiện thanh toán
6. Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
7. Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ
8. Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo qui định của Ngân hàng nhà nước
9. Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng nhà nước cho phép
10. Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng
11. Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân
hàng trong nước
12. Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng nhà nước cho phép
d) Các hoạt động khác:
Ngoài các hoạt động chính như trên, ngân hàng thương mại còn có thể thực
hiện một số hoạt động khác, bao gồm:
Góp vốn và mua cổ phần: Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và
quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng
khác trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn
được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập
ngân hàng liên doanh.
Tham gia thị trường tiền tệ: Ngân hàng thương mại được tham gia thị
trường tiền tệ, theo quy định của Ngân hàng nhà nước, thông qua các hình thức
mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ.

Kinh doanh ngoại hối: Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh
doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị
trường trong nước và thị trường quốc tế.
Ủy thác và nhận ủy thác: Ngân hàng thương mại được ủy thác , nhận ủy
thác làm đại lý trong cáclĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc
quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp
đồng ủy thác, đại lý
Cung ứng dịch vụ bảo hiểm: Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ
bảo hiểm, được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo
hiểm theo qui định của pháp luật.
Tư vấn tài chính: Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn
tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập
công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng.
Bảo quản vật quý giá: Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ
bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có
liên quan theo qui định của pháp luật.
II. THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA:
Trước hết phải nói trong thời gian vừa qua, đã đánh dấu những bước phát
triển vượt bậc của ngành ngân hàng nói chung. Cụ thể là trong việc kiểm soát lạm
phát, tăng nhanh dự trữ ngoại tệ, tích cực cải cách thể chế và hiện đại hoá công
nghệ phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Còn trong chỉ tiêu lợi nhuận có thể nhận
thấy các ngân hàng thương mại cũng đã đạt được và vượt kế hoạch đề ra một cách
đáng kể (chỉ riêng năm 2008, một năm hoàn toàn khó khăn về nhiều mặt cho nền
kinh tế nên kết quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại cũng bị ảnh hưởng
đáng kể).
1. Ấn tượng lợi nhuận:
So với những giai đoạn hoạt động trước thi trong ba năm vừa qua, lợi nhuận
của các ngân hàng thương mại đã đạt được những con số lịch sử. Nhưng giá trị
hơn là sự chuyển biến về chất, đa dạng hoá nguồn lợi nhuận. Trong bối cảnh lãi

suất tăng cao, lợi nhuận của các ngân hàng không thể chỉ tiếp tục phụ thuộc vào
nguồn tín dụng, mà phải mở rộng từ phí thu được từ các loại hình dịch vụ và đặc
biệt là từ hoạt động đầu tư. Chính vì thế trong thời gian vừa qua, chúng ta cũng
nhận thấy các ngân hang thương mại thực hiện đa dạng hoá và cung cấp ngày càng
nhiều những sản phẩm mới. Cụ thể là việc ra đời các dịch vụ home banking,
internet banking, mobile banking, hay cung cấp các dịch vụ về thẻ thanh toán.
Nhũng dịch vụ này đã được các ngân hàng chuẩn bị từ khá lâu nhưng trong giai
đoạn vừa qua chúng ta mới nhận thấy sự phát triển ngày càng rộng lớn ở các ngân
hàng. Ngoài ra, trong năm 2008 cũng đánh dấu việc ra đời một sản phẩm còn khá
mói mẻ nhưng tiềm năng lợi nhuận mà nó mang lại cho các ngân hàng là rất lớn
đó là “sàn giao dịch vàng”. Những điều này là sự dịch chuyển, đa dạng của một
ngân hàng hiện đại và theo sự vận động tất yếu của thị trường.
Tuy nhiên, thời hoàng kim của lợi nhụân đã thoái trào trong năm 2008, một
phần là do sự có mặt ngày càng nhiều các ngân hàng mới và các ngân hàng nước
ngoài được mở rộng hoạt động, cạnh tranh lớn hơn, thị phần bị chia sẻ. Hơn nữa,
như đã nói ở trên riêng năm 2008 thì đa số các ngân hàng không đạt mục tiêu lợi
nhuận. Với lãi suất huy động cao trong suốt thời gian của năm, tốc độ tăng trưởng
tín dụng thấp, tín dụng bất động sản và tiêu dùng thu hẹp, đầu tư tài chính khó
khăn…Tất cả những việc đó khiến lợi nhuận của các ngân hàng đã bị ảnh hưởng
đáng kể.
2. Vốn điều lệ tăng nhanh:
Sau khi Việt Nam gia nhập vào WTO thì một trong những cam kết mà chúng
ta phải thực hiện đó là nới lỏng thị trường tài chính và cụ thể là ở lĩnh vực ngân
hàng. Trong thời gian vừa qua, các ngân hàng nước ngoài cũng đã được phép mua
cổ phần của các ngân hàng thương mại trong nước với một tỉ lệ cao hơn trước.
Ngoài ra, đầu tháng 01/2009 ngân hàng nhà nước cũng vừa chính thức trao giấy
phép hoạt động cho đại diện hai ngân hàng có vốn 100% nước ngoài là ngân hàng
Shinhan Việt Nam và ngân hàng Hong Leong Việt Nam. Chính vì nhận thấy một
khả năng bị cạnh tranh rất lớn từ các ngân hàng nước ngoài mà trong thời gian vừa
qua, các ngân hàng thương mại trong nước cũng đã chủ động tăng cường chất

lượng dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm và gia tăng vốn điều lệ.
Chỉ trong năm 2005, mốc vốn điều lệ 1,000 tỉ đồng còn khá xa so với các
ngân hàng cổ phần. nhưng chỉ trong năm 2006, mốc này đã bị đẩy lùi một cách ấn
tượng. Và cho đến nay thì mốc 1,000 tỉ đồng chỉ là con số tối thiểu mà các ngân
hang phải đạt được để có thể tiếp tục hoạt động của mình. Vốn điều lệ tăng nhanh,
một mặt khẳng định hiêu quả hoạt động và tốc độ phát triển của ngành ngân hàng.
Nhưng mặt khác, cơ chế đào thải thể hiện rõ ở mặt này. Ngân hàng nhà nước có
quan điểm không lập mới những ngân hàng nhỏ bé, thậm chí buộc phá sản những
ngân hàng nhỏ, hoạt động yếu kém.
Các ngân hàng buộc phải tăng vốn nhưng cũng có nhiều điều kiện thuận lợi
để tăng vốn. Lợi nhuận cao là một thuận lợi. Thị trường vốn phát triển nhanh cũng
là một yếu tố hỗ trợ. Trong năm 2006, một loạt ngân hàng đã tăng vốn bằng cách
phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu và không có thông tin nào nói về thất bại vì
đây là một mặt hàng vẫn thu hút khá lớn trên thị trường. Một yếu tố khác hỗ trợ
không kém phần quan trọng là nguồn vốn đầu tư gian tiếp từ các tổ chức tín dụng
lớn từ nước ngoài.
3. Bùng nổ dịch vụ và phát triển công nghệ:
Tiếp nối làn sóng đầu tư công nghệ trong những năm 2005, 2006 các ngân
hàng bứoc vào hoàn thiện cơ bản và đưa ra những dịch vụ ứng dụng. Công nghệ
thẻ ngày càng hiện đại và tiện ích. Các dịch vụ Internet Banking, Home Banking,
Mobile Baking…đã trở nên phổ biến và khá thông dụng. Trong năm 2006, “cơn
sốt” công nghệ phần mềm T24 của Temenos có khả năng thực hiện tới 1,000 giao
dịch/giây, cùng lúc cho phép tới 110,000 người truy cập và quản trị tới 50 triệu tài
khoản đã được nhiều ngân hàng tiếp cận.
Lượng tiền các ngân hàng đổ vào cho hệ thống công nghệ cũng tập trung rất
mạnh trong thời gian vừa qua. Sacombank đầu tư khoảng 4 triệu USD cho việc
ứng dụng công nghê Core Banking: VIB Bank cũng mất hàng triệu USD để hoàn
thành dự án hệ thống ngân hàng đa năng SYMBOL do hang System Access
(Singapore) cung cấp, MB cũng mạnh tay cho dự án cung ứng công nghệ T24 và
đưa internet vào ứng dụng quản lý hệ thống; EAB không tiếc tiền để đầu tư nghiên

cứu những chiếc máy ATM thông minh…
Việc các ngân hàng buộc phải lên đời công nghệ theo như nhận định của giói
quan sát thì vì yêu cầu hội nhập, đặc biệt là cho thời “hậu WTO”. Đó là một yêu
cầu, nhưng gần nhất và vì mục đích xa hơn, các ngân hàng buộc phải đầu tư công
nghệ, tăng cường dịch vụ để tăng thêm nguồn thu khi mà lợi nhuận từ hoạt động
tín dụng đang bị chia sẻ, bị hạn chế vì lãi suất quá cao…
Cũng như trên thế giới, lợi nhuận từ phí dịch vụ cũng được các ngân hàng
đặc biêt coi trọng không kém với lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính. Công
nghệ thẻ, thanh toán và gần đây là công nghệ quản lý tài chính doanh nghiệp, tài
chính cá nhân đang và sẽ mang lại những nguồn thu lớn cho ngân hàng. Đây được
đánh giá là những nguồn thu bền vững và sẽ mở rộng nhanh chóng trong tương lai.
4. Ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động của ngân hàng:
Lạm phát tăng cao trong năm 2008 đã tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh tế
- xã hội, trong đó có hoạt động của các ngân hàng thương mại. Đối với các ngân
hàng thương mại, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao, sức mua
đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay,
đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn
của các ngân hang gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn
vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy
động sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý,
luôn là bài toán khó cho các ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động
ngoài mong đợi tại các ngân hàng (17% - 18%/năm cho kì hạn tuần hoạt tháng),
luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất
huy động gần sát với lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng thua lỗ nhưng vẫn
phải thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống ngân hàng thương mại.
Lạm phát tăng cao, Ngân hàng nhà nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để
giảm bớt khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh
nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn lớn. Các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một
số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả,

với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất
cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro
đạo đức sẽ xuất hiện. Cụ thể, trong tháng 7, Ngân hàng Nhà nước công bố loạt vi
phạm nảy sinh trong mối quan hệ trên tại một số ngân hàng thương mại.Ngoài ra,
do sức mua đồng tiền Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy
động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn. Trong khi nhu cầu vay vốn
trung và dài hạn trong thời gian qua ở các ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã
ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn, rủi ro tỷ giá
xảy ra là điều khó tránh khỏi.
Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng
hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát,
nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt
Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch
không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng.
Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, NHNN thực sự khó khăn trong
việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các NHTM cũng khó khăn trong
việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ
thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động.
Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn,
ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao
gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây
khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài
chính - tín dụng. Vì vậy xét ở góc độ các NHTM cần có những biện pháp kiềm chế
lạm phát.
5. Các ngân hàng thương mại đã vượt khó khăn và khắc phục
ảnh hưởng của lạm phát hiệu quả:
Hoạt động kinh doanh của các NHTMCP tiếp tục duy trì sự ổn định và đạt
được những kết quả rất khích lệ. Điều này phản ánh trên 3 kết quả nổi bật sau đây:
Một là, thanh khoản của các NHTMCP đã được cải thiện đáng kể, áp lực về

vốn đã giảm và các ngân hàng đang nhắm đến kế hoạch kinh doanh trung -dài hạn.
Điều này đã được thể hiện rõ:Nhu cầu vốn cho thanh toán không còn cao như các
tháng đầu năm, áp lực về thanh khoản đã giảm rất nhiều.Lãi suất giao dịch trên thị
trường liên ngân hàng không còn biến động mạnh và đã ổn định hơn, trong thời
gian qua liên tục duy trì ở mức phổ biến từ 13,5% - 14%/năm đối với loại kỳ hạn
cho vay qua đêm và 15% - 17,5% đối với loại kỳ hạn 1 tuần và 2 tuần.Vốn khả
dụng luôn được bảo đảm và duy trì ở mức đủ.
Hiện tượng “chạy đua lãi suất”, tăng lãi suất huy động liên tục như trong
những tháng đầu năm đã chấm dứt. Các NHTMCP đã và đang thay đổi lãi suất
theo hướng phù hợp hơn với các kỳ hạn tiền gửi. Trong đó giảm mạnh lãi suất huy
động không kỳ hạn; điều chỉnh lãi suất theo hướng lãi suất huy động kỳ hạn ngắn
thấp hơn lãi suất huy động kỳ hạn trung dài hạn.
Hai là, cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn hợp lý hơn. Trong đó các
NHTMCP đã điều chỉnh dư nợ tín dụng phù hợp hơn trong điều kiện nền kinh tế
lạm phát. Khai thác và sử dụng vốn hợp lý, giảm tỷ lệ sử dụng vốn từ thị trường
chủ yếu đáp ứng nhu cầu cho thanh khoản và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
mỗi ngân hàng để cho vay, từng bước cơ cấu lại nguồn phù hợp với nguyên tắc sử
dụng vốn và bản chất của thị trường này. Tỷ lệ dư nợ cho vay trung dài hạn; tỷ lệ
sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn đều ở mức hợp lý và theo đúng
quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Mặt khác, các NHTMCP đã cơ cấu lại dư nợ tín dụng hợp lý. Trong đó chủ
yếu tăng trưởng tín dụng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại dịch
vụ. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu. Tín dụng cho vay bất động sản
và cho vay kinh doanh đã được điều chỉnh hợp lý theo xu hướng giảm, tỷ lệ cho
vay đầu tư kinh doanh chứng khoán chiếm rất thấp so với tổng dư nợ cho vay.
Ba là, kết quả kinh doanh của các NHTMCP đặc biệt là các ngân hàng lớn là
rất tốt. Trong đó một số NHTMCP kết quả thu nhập – chi phí đã vượt so với cả
năm 2007. Đây là một trong những kết quả quan trọng và nổi bật nhất trong điều
kiện hiện nay, là nền tảng để các NHTMCP tiếp tục duy trì sự phát triển trong thời
gian tới và các năm tiếp theo. Kết quả này không chỉ có ý nghĩa đối với hệ thống

ngân hàng mà còn tác động tích cực đối với thị trường tài chính, thị trường chứng
khoán trong một mục tiêu chung là ổn định kinh tế vĩ mô.
6. Rủi ro từ nội lực và môi trường kinh doanh:
Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội
lực của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình
độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực.
Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng
còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân
hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng
thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu
vực. Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường
huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng.
Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại
Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và
thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%),
lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Hơn nữa, nếu trích lập đầy đủ những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì vốn
tự có của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam, nhất là ngân hàng thương mại
Nhà nước, ở tình trạng âm.
Điểm hạn chế thứ hai của các ngân hàng trong nước là hệ thống dịch vụ ngân
hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu
cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy
động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp
tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập.
Ngoài ra, do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng đã khiến
các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh
tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới
hạn nhất định.
Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó
đáng chú ý là các tổ chức tín dụng nhà nước. Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến

cuối năm 2008, nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam khoảng 43.500 tỷ đồng,
chiếm 3,5% tổng dư nợ tín dụng và cơ bản đã được các ngân hàng trích lập đủ dự
phòng rủi ro.Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ quá hạn gia tăng tại các
ngân hàng thương mại quốc doanh là do: việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản
đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển
và còn nhiều biến động phức tạp; tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng
lãi suất trong nước tăng lên, tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống
ngân hàng.
Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo
thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn
vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến
tình trạng mất vốn ngày càng lớn.
Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài
chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài
hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy
động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số
vốn huy động ngắn hạn.
Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá
cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an
toàn cho toàn bộ hệ thống.

7. Ảnh hưởng từ những thay đổi nhanh chóng của các công cụ
điều hành:

Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008
chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng cuối năm. Đi cùng với
quá trình này là tần suất điều chỉnh các công cụ điều hành chưa từng có của Ngân
hàng Nhà nước, tập trung ở các lãi suất chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ
tỷ giá.
Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất

cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh
tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3
tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ
bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm).
Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong
lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên
ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12.
Một công cụ được Ngân hàng Nhà nước sử dụng đến, cũng là một sự kiện nổi bật
trong năm 2008, là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc (17/3). Nhiều
NHTM gặp khó khăn về thanh khoản, phải vay lãi suất cao. Đi cùng với kế hoạch
này, nhà điều hành đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cho tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8%
lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%.
8. Những biến động trong tỷ giá USD/VND

Năm 2008 là năm đặc biệt của cơ chế điều hành tỷ giá cũng như những biến
động trên thực tế. So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND mua vào – bán ra của
các ngân hàng thương mại đã tăng khoảng 9%, một mức tăng đột biến so với thay
đổi quen thuộc quanh 1% những năm trước.

Năm 2008 cũng là năm biên độ tỷ giá liên tiếp 3 lần nới rộng, 2 lần được
tăng mạnh trực tiếp ở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, những điều chỉnh chưa từng
có trong lịch sử.

Tính chất đặc biệt của tỷ giá năm 2008 cũng thể hiện ở những biến động trái
chiều. Trong những tháng đầu năm, thị trường có hiện tượng ứ đọng ngoại tệ, tỷ
giá có lúc xuống “đáy” 15.300 VND; nhiều doanh nghiệp, ngành hàng xuất khẩu
phải thông qua các hiệp hội yêu cầu ngân hàng đẩy mạnh mua vào USD, tháo gỡ
khó khăn. Nhưng từ tháng 5, “cơn sốt” khan hiếm ngoại tệ lại diễn ra căng thẳng
trên cả thị trường chính thức lẫn thị trường tự do. Nhiều doanh nghiệp phải mua
với giá trên 18.000 VND, chi phí tài chính bị đẩy cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận.


Ngoài ra do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tháng
9/2008 cũng làm gia tăng tỷ giá USD/VND. Trong tháng 10, cầu ngoại tệ của các
ngân hàng ngoại có dấu hiệu tăng mạnh, trong đó có nguyên nhân từ hoạt động
chuyển vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Một số ngân hàng nước ngoài cũng có
hiện tượng bán lại nợ cho các ngân hàng nội địa…

Với sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, cũng như năng lực dự trữ ngoại
hối lần đầu tiên được công khai một cách chính thức, tỷ giá ổn định dần về cuối
năm.



III. NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG NHTM VIỆT NAM:
1. Các biện pháp kiềm chế lạm phát của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, kiểm soát tăng trưởng tín dụng.
Mỗi NHTM tự điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng giảm dư nợ và tỷ
trọng tín dụng trung, dài hạn để phù hợp với quy mô và thời hạn huy động vốn.
Tăng vòng quay vốn tín dụng, sẽ giảm bớt khó khăn do thiếu vốn. Trước mắt chỉ
nên dành vốn vào những dự án nhanh tạo ra khối lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của xã hội.

Thứ hai, điều hành giá mua và bán vốn (lãi suất) ổn định và theo xu hướng
giảm dần.
Tăng lãi suất là giảm cung tiền, kiềm chế tăng trưởng tín dụng nóng. Tuy
nhiên, lãi suất liên tục tăng cao không chỉ có khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp
trong việc tiếp cận vốn vay, mà còn kho khăn cho NHTM trong việc huy động vốn
trung và dài hạn, nhưng nó chỉ là biện pháp trong ngắn hạn. Khi gói giải pháp tài
chính - tiền tệ đã được triển khai một cách đồng bộ, lạm phát được kiểm soát ở

mức độ nhất định, thì một trong những công cụ cần điều chỉnh ngay - đó là lãi suất
kinh doanh của các NHTM.
Thực tế cho thấy, sau khi NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 12% và
14%/năm vào tháng 5 và 6 năm 2008 vừa qua, đã xuất hiện cuộc chạy đua lãi suất
giữa các NHTM, mà mở đầu là các NHTMCP nhỏ, buộc các NHTM lớn cũng phải
theo nếu không muốn mất khách hàng, kéo theo một lượng vốn nhất định. Lãi suất
tăng cao để thu hút tiền về, kiềm chế tăng trưởng tín dụng nóng là rất cần thiết.
Song cũng chính từ cuộc đua lãi suất của các NHTM vừa qua đã có tác động tiêu
cực đối với thị trường tài chính, nền kinh tế và môi trường kinh doanh của chính
các ngân hàng. Đối với các NHTM: chi phí huy động vốn cao, làm giảm khả năng
sinh lời, khiến ngân hàng phải tăng cường nới rộng tín dụng, làm tăng khả năng
rủi ro trong hoạt động. Đối với thị trường tài chính: lãi suất tiết kiệm càng cao,
càng làm cho giá chứng khoán giảm xuống, huy động vốn của các doanh nghiêp
trên thị trường tài chính càng khó khăn, gây áp lực lớn về vốn trung và dài hạn lên
các NHTM. Còn đối với nền kinh tế: lãi suất huy động và cho vay ở mức cao, đã
làm giảm đầu tư tư nhân, làm tăng chi phí vay mượn, và giảm sức cạnh tranh của
doanh nghiệp và nền kinh tế. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho nền kinh tế trở nên
xấu hơn, vi mô tiếp tục bất ổn hơn, ảnh hưởng lớn đến an sinh xã hội. Như vậy,
tăng lãi suất chỉ là biện pháp cấp bách trong ngắn hạn, một khi tăng lãi suất bắt
đầu tỏ ra không hiệu quả xét cả ở khía cạnh vĩ mô và vi mô, thì việc duy trì lãi suất
ổn định và theo xu hướng giảm dần, cần được đặt ra đối với các NHTM ở những
tháng còn lại của năm 2008.
Để xu hướng này diễn ra như mong muốn, thì NHNN có vai trò rất quan
trọng trong việc kiểm tra, giám sát với những chế tài cụ thể và đủ mạnh đối với
các NHTM cố tình tăng lãi suất huy động vốn quá cao vượt quá ngưỡng an toàn,
đưa những chi phí bất hợp lý vào giá của khoản vay, để làm lành mạnh môi trường
đầu tư, cho vay của chính các ngân hàng.
Liên quan đến lãi suất tín dụng là phạm trù tỷ giá hối đoái. Ở Việt Nam, do
tiền đồng chưa phải la đồng tiền chuyển đổi, trong khi tình trạng đôla hoá lại ở
mức cao, vì vậy xử lý lãi suất không thể tách rời việc xử lý tỷ giá hối đoái. Vừa

qua tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh với biên độ +/- để khuyến khích xuất khẩu
và chủ động nhập khẩu. Cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến cho rằng nên phá giá
đồng tiền Việt Nam với biên độ rộng hơn nữa để khuyến khích xuất khẩu.

Thứ ba, phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán
không dùng tiền mặt.
Phát triển các dịch vụ phi tín dụng vừa có điều kiện tăng thu nhập cho
ngân hàng, vừa thu hút khách hàng đến với ngân hàng để tăng khả năng huy
động vốn với chi phí thấp. Để tăng tỉ lệ dịch vụ phi tín dụng, về phía các ngân
hàng cần:
Nâng cao chất lượng và tính tiện ích của dịch vụ theo hướng: (i) Đối với dịch
vụ truyền thống: đây là yếu tố nền tảng không chỉ có ý nghĩa duy trì khách hàng
truyền thống, tạo nguồn thu nhập lớn nhất cho ngân hàng, mà còn phát triển các
dịch vụ mới trên nền tảng của dịch vụ truyền thống để thu hút các khách hàng tiềm
năng. (ii) Đối với các dịch vụ hiện đại, cần thực hiện chiến lược Marketing sâu
rộng, có chính sách khuyến khích khách hàng (chính sách phí, khuyễn mãi ) sử
dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử như dịch vụ mở tài khoản cá nhân, thanh toán,
chi trả thu nhập theo hướng không dùng tiền mặt qua thẻ ATM.
Bên cạnh kênh truyền thống để cung ứng các dịch vụ ngân hàng bán lẻ đến
người sử dụng, cần phát triển các kênh phân phối hiện đại như các loại hình giao
dịch tại nhà, qua điện thoại, internet, ngân hàng tự phục vụ (self-service outlest)

Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản trị tài sản nợ - có, đặc biệt là quản trị thanh
khoản.
Tình trạng lộn xộn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng trong thời gian qua,
suy cho cùng đều bắt nguồn từ việc các ngân hàng chưa quản lý tốt rủi ro thanh
khoản. Do sự yếu kém từ quản trị tài sản Nợ, tài sản Có và sự thiếu hụt của các
công cụ quản lý hữu hiệu, trong khi các NHTM lại muốn sử dụng triệt để phần
vốn này cho các hoạt động kinh doanh sinh lời. Vì vậy một vài ngân hàng thiếu
thanh khoản phải vay với lãi cao trên thị trường là điều khó tránh khỏi. Để khắc

phục tình trạng này, các ngân hàng phải xây dựng qui trình kiểm soát và quản lý
thanh khoản nhằm đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ thanh toán đến hạn, đảm bảo an
toàn trong hoạt động, giảm thiểu rủi ro thanh khoản.

Thứ năm, nâng cao vị thế, chất lượng hoạt động, phục vụ của ngân hàng để
tạo niềm tin cho dân chúng gửi tiền vào ngân hàng bằng những hành động thiết
thực.
Niềm tin phải được xây dựng trên cơ sở thông tin minh bạch và kịp thời. Mọi
sự tù mù sẽ là "đất" cho tin đồn lộng hành. Vì vậy mỗi ngân hàng cần phải minh
bạch hoá thông (chính sách lãi suất, chính sách đầu tư, chính sách khách hàng, tình
hình nợ xấu ). Xây dựng hệ thống thông tin để hình thành cơ sở dữ liệu phục vụ
cho việc nghiên cứu, phân tích để đưa ra những quyết sách điều hành nhanh nhạy
và khoa học.
Chú ý đến quyền lợi của khách hàng, bao gồm cả khách hàng gửi tiền và
khách hàng vay cũng như khách hàng sử dụng những dịch vụ của ngân hàng.

Thứ sáu, các NHTM cần tăng cường liên kết, hợp tác, trao đổi chia sẻ kinh
nghiệm hoạt động ngân hàng trên các lĩnh vực; kết nối các nghiệp vụ, sản phẩm
dịch vụ, tạo ra hệ thống phục vụ khách hàng rộng lớn, hiệu quả, tiết giảm chi phí.
Tăng cường sự đồng thuận giữa các NHTM, thành viên trong hiệp hội Ngân
hàng Việt Nam trong nhiều chính sách của NHTM vì lợi ích và sự ổn định, kiềm
chế lạm phát và phát triển kinh tế đất nước, vì lợi ích và sự phát triển của số đông
cộng đồng doanh nghiệp, của các tầng lớp dân cư, vì lợi ích hiệu quả kinh doanh
của từng NHTM, cũng như của cả hệ thống NHTM Việt Nam.
2. Giải pháp đề xuất nâng cao năng tực của các ngân hàng thương
mại:
Thứ nhất là nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại bằng
việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, điều chỉnh lãi suất tiền gửi trung và
dài hạn hợp lý. Ngoài ra, các ngân hàng cần cơ cấu đầu tư vốn trong điều kiện mới
theo hướng, giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay trung và

dài hạn, phát triển cho vay tiêu dùng đối với các cá nhân trong nền kinh tế.
Điểm thứ hai là tăng cường hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống
thanh toán. Các ngân hàng thương mại cần tăng mức vốn đầu tư để trang bị kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, các dự án đầu tư công nghệ cần tính toán
kỹ lưỡng để sử dụng công suất phù hợp với chiến lược mở rộng kinh doanh của
ngân hàng.
Điểm thứ ba được chúng ta đều nhận thấy là nhân lực chất lượng cao là động
lực để bứt phá. Nâng cao năng lực cán bộ thông qua nâng cao trình độ quản trị
điều hành. Việc nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng thương mại Nhà
nước sau khi cổ phần hóa sẽ được thực hiện nhanh nhất và hiệu quả nhất thông
qua sự trợ giúp của các đối tác chiến lược nước ngoài.
Và một phần quan trọng để khắc phục những rủi ro tín dụng của ngân hàng là
thực hiện quản trị ngân hàng thương mại từ chiều rộng sang chiều sâu theo hướng
nâng cao năng lực quản trị rủi ro thông qua việc hoàn thiện bộ máy tổ chức quản
trị nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và chế độ báo cáo thường xuyên.

×