Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Cửa khẩu Lào Cai là lối mở ngắn nhất, thuận tiện nhất cho tỉnh Vân Nam nói
riêng và vùng Tây Nam nói chung để ra các cảng biển, nối với vùng Đông Nam á
và cả thế giới.
- Cửa khẩu Lào Cai-Hà Khẩu là cửa khẩu duy nhất giữ Việt Nam-Trung Quốc
hội đủ tất cả các loại hình vân tải: đường sắt, đường bộ, đường sông và trong
tương lai gần là cả đường không.
- Cửa khẩu Lào Cai là duy nhất ở phía Bắc Việt Nam nằm trong lịng một thị xã
tỉnh lỵ (trong tương lai gần sẽ là thành phố), vì vậy cửa khẩu quốc tế Lào Cai có
cả một hệ thống dịch vụ của một thị xã gần 10 vạn dân phục vụ cho nhu cầu giao
lưu thương mại, xuất nhập khẩu, quá cảnh và du lịch giữa hai nước. Đây cũng là
một lợi thế quan trọng của cửa khẩu Lào Cai.
- Trong những năm qua do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan chẳng
hạn như: do thời gian thực hiện cơ chế chính sách tại khu vực kinh tế cửa khẩu
quốc tế Lào Cai còn ngắn, cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng còn thấp kém và chưa
đồng bộ, nguồn vốn đầu tư trở lại cho khu vực cửa khẩu còn quá hạn hẹp nên
hiệu quả còn thấp.Tình hình bn lậu và gian lận thương mại trong tình hình mới
đã có xu hướng giảm xong vẫn cịn xảy ra nguyên nhân chính do một số mặt
hàng tính thuế chưa có tiêu chí cụ thể, tình trạng gian lận thương mại xuất hiện
về chủng loại hàng hoá chưa tách biệt. Việc thanh tốn tiền hàng cịn nhiều
vướng mắc, hỗ trợ pháp lý chưa có cơ sở vững chắc. Việc tổ chức phối hợp giữa
các lực lượng và chính quyền huyện, thị xã, có nơi có lúc chưa chặt chẽ nên đã
lợi dụng tình hình đó để có thể buôn bán trái phép và buôn lậu qua biên giới các
Thế nên lợi thế kể trên của hành lang kinh tế nay chưa được khai thác đầy đủ để
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội cho cả hai phía Việt Nam-Trung Quốc,
nên cửa khẩu Lào Cai chỉ xếp thứ ba sau cửa khẩu Lạng Sơn và Móng Cái.
- Mặc dù vậy trong những năm gần đây, hàng hoá xuất nhập khẩu qua cửa khẩu
Lào Cai-Hà Khẩu tăng lên nhanh chóng (trong khi các cửa khẩu khác lại giảm
mạnh)
Thực tế trên cho thấy thời gian trở lại đây xuất nhập khẩu qua Lào Cai-Hà Khẩu
hàng năm tăng rất cao từ 50-70%. Điều đó càng khẳng định sức mạnh của khu
kinh tế cửa khẩu trong phát triển kinh tế ở giai đoạn hiện nay
2.2. Đánh giá chung về các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc
2.2.1. Những thành tựu đạt được:
Việc ban hành và thực hiện các quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã được
thực tế chứng minh là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu hình thành một loại hình
kinh tế. Việc hình thành khu kinh tế cửa khẩu đã làm phong phú thêm tính đa
dạng hóa của các loại hình khu kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế mở được xây dựng tại nước ta trong thời kì đổi mới vừa qua. Và
cũng chính việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu đã hình thành một mơ hình
phát triển kinh tế nhằm khơi dậy và phát huy khu kinh tế cửa khẩu tiềm năng của
một địa bàn có điều kiện đặc thù là có các cửa khẩu, điều mà từ trước tới nay vẫn
chưa được xem xét như một lợi thế. Cũng chính sự đúng đắn và phù hợp này đã
kích thích các địa phương có điều kiện hình thành khu kinh tế cửa khẩu đều
mong muốn được áp dụng cơ chế chính sách khu kinh tế cửa khẩu.
Các khu kinh tế cửa khẩu được áp dụng một số chính sách đã có bước phát triển
lớn quan trọng so với trước khi áp dụng cơ chế chính sách. Tất cả các chỉ số về
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
tăng trưởng tại các khu kinh tế cửa khẩu đều tăng lên so với trước khi áp dụng cơ
chế chính sách. Đặc biệt, mức tăng lên của các chỉ số tăng trưởng qua khu kinh tế
cửa khẩu đều tăng cao hơn so với mức tăng trưởng trung bình của cả nước. Thu
ngân sách trên địa bàn các khu kinh tế cửa khẩu chiếm một tỉ trọng lớn trong thu
ngân sách tại các tỉnh có khu kinh tế cửa khẩu. Ví dụ tại Lạng Sơn, thu ngân sách
trên địa bàn khu kinh tế cửa khẩu chiếm trên 63% tổng thu ngân sách địa bàn tỉnh
Lạng Sơn. Có tình hình trên là do những khu kinh tế cửa khẩu đã tạo ra sự thơng
thống, hấp dẫn có sức thu hút các doanh nghiệp của nhiều tỉnh, nhiều vùng
trong cả nước đến đó kinh doanh xuất nhập khẩu, dịch vụ và đóng góp cho ngân
sách Nhà nước. Ngoài ra sự chuyển biến lớn khi các khu kinh tế cửa khẩu được
áp dụng một số chính sách khơng chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cịn trong lĩnh
vực xã hội.
Các khu kinh tế cửa khẩu đã có bước phát triển mạnh mẽ hơn so với các cửa
khẩu có cùng điểm xuất phát nhưng chưa áp dụng một số chính sách.
Các khu kinh tế cửa khẩu đã có tác động lan tỏa rõ rệt và làm tăng vị thế của các
tỉnh có khu kinh tế cửa khẩu. Từ chỗ là những địa phương thuộc vùng sâu vùng
xa khó khăn và đặc biệt khó khăn, đến nay đã thu hút được nhiều nguồn lực từ
hàng trăm doanh nghiệp cả nước đến kinh doanh. Tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu qua các khu kinh tế cửa khẩu chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch Việt –
Trung.
Cơ chế đầu tư trở lại không dưới 50% số thu ngân sách trên địa bàn khu kinh tế
cửa khẩu đã đem lại một lượng vốn đầu tư lớn cho địa phương. Thậm chí có nơi
lượng vốn này còn cao hơn cả số ngân sách đầu tư cho các khu vực khác trong
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
toàn tỉnh. Cơ chế này đã tạo điều kiện cải tạo, nâng cấp, phát triển nhanh chóng
cơ sở hạ tầng, góp phần tích cực vào việc tạo ra một diện mạo mới, khang trang
hơn tại khu kinh tế cửa khẩu, làm tăng thêm niềm tự hào của nhân dân trong các
quan hệ giao lưu kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội với nước láng
giềng; đồng thời tạo thêm động lực để nuôi dưỡng và tăng thêm nguồn thu ngân
sách Nhà nước tại khu kinh tế cửa khẩu.
Việc chỉ đạo điều hành, quản lý hoạt động tại các khu kinh tế cửa khẩu đòi hỏi bộ
máy tổ chức cán bộ tại địa phương phải có những thay đổi để phù hợp với tình
hình mới. Q trình thực hiện đã góp phần quan trọng cải cách hành chính nâng
cao năng lực tổ chức, điều hịa, phối hợp, phân cơng, phân cấp giữa các cơ quan
Trung ương và địa phương thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa Việt Nam và các nước
láng giềng. Việc áp dụng các cơ chế chính sách khu kinh tế cửa khẩu, đã đem lại
một số tác động tích cực đến cơng tác quản lý Nhà nước như:
- Công tác qui hoạch được quán triệt hơn tại các tỉnh có khu kinh tế cửa khẩu
- Cán bộ tại các địa phương có khu kinh tế cửa khẩu đã và đang có những bước
trưởng thành đáng kể so với trước đây về mặt quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực
giao lưu kinh tế, hội nhập kinh tế với các nước láng giềng, đặc biệt là vấn đề tổ
chức sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách theo ngành dọc của Trung ương
với các cơ quan chuyên môn và chính quyền của địa phương. Một số địa phương
đã chủ động tổ chức một số hoạt động đối ngoại với các tỉnh cùng biên giới để
phối hợp quản lý các vấn đề chung đặt ra trong khu vực cửa khẩu của hai bên.
- Nhân dân tại các khu kinh tế cửa khẩu đã có nhiều cơ hội tiếp xúc với cơ chế thị
trường, với giao lưu quốc tế và được hưởng thụ nhiều kết quả trực tiếp từ việc thí
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
điểm này, đặc biệt là từ việc mở rộng giao lưu kinh tế qua các khu kinh tế cửa
khẩu.
Việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu đã thu hút dân cư đến làm ăn, sinh
sống, tạo thành những khu tập trung dân cư, một số đơ thị biên giới góp phần làm
tăng thêm tiềm lực kinh tế, quốc phòng tại tuyến biên giới. Đời sống của nhân
dân tại địa bàn các khu kinh tế cửa khẩu được nâng cao, chẳng những đã chấm
dứt tình trạng di dân mà ngược lại, đã có sức thu hút dân cư các địa bàn khác đến
sinh sống, khơng bỏ biên giới. Bên cạnh đó các lực lượng cơng an, hải quan, biên
phịng tại khu kinh tế cửa khẩu được tăng cường năng lực cũng như trang thiết bị,
do đó hoạt động bảo vệ biên giới, chủ quyền Quốc gia, đảm bảo an ninh, quốc
phòng đã được nâng cao về nhiều mặt.
Các khu kinh tế cửa khẩu sau thời gian thí điểm đã góp phần từng bước thực hiện
tương đối có kết quả việc kiểm tra, kiểm soát, xử lý, hạn chế, ngăn ngừa các hoạt
động buôn lậu, làm ăn phi pháp tại địa bàn khu kinh tế cửa khẩu. Thực tế tại địa
bàn các khu kinh tế cửa khẩu tại Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai cho
thấy, việc áp dụng các cơ chế khu kinh tế cửa khẩu đã làm tăng thêm công việc
thuộc quản lý theo chức năng của các lực lượng, đơn vị chuyên trách tại các khu
kinh tế cửa khẩu (như lượng người qua lại nhiều hơn, hàng hoá qua lại nhiều
hơn, thời gian làm việc tăng lên), nhưng các lực lượng làm nhiệm vụ tại các khu
kinh tế cửa khẩu vẫn đảm đương được công việc theo yêu cầu. Đồng thời sự phối
hợp giữa các lực lượng, đơn vị đó cũng tiến triển được một số bước quan trọng.
2.2.2.Những mặt hạn chế còn tồn tại:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việc thu hút đầu tư còn hạn chế, các nhà kinh doanh trong nước tại các địa
phương ngoài vùng biên giới, các nhà đầu tư nước ngồi cịn chưa mạnh dạn đầu
tư vào các khu kinh tế cửa khẩu. Do các nhà đầu tư chưa mạnh dạn đầu tư vào
các khu kinh tế cửa khẩu, vì thế, tăng trưởng tại các khu kinh tế cửa khẩu thực
chất vẫn là nguồn hàng hoá ở các địa bàn thông qua khu kinh tế cửa khẩu. Vì
vậy, tăng trưởng của các khu kinh tế chưa mang tính bền vững.
Về chức năng khu kinh tế cửa khẩu chưa phát huy được các nội dung về sản xuất
công nghiệp. Về mặt chức năng khu kinh tế cửa khẩu, các Quyết định đều chú ý
đến phát triển công nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, chức năng này chưa được
phát huy do còn thiếu những điều kiện cần thiết như nguồn nhân lực, lao động
được đào tạo.
Việc phân công, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng quản lý Nhà nước
đối với khu kinh tế cửa khẩu còn chưa được qui định đầy đủ rõ ràng và thực hiên
nghiêm chỉnh. Cho tới nay, ở Trung ương chưa có cơ quan nào được chỉ định làm
đầu mối để giúp Chính phủ thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với khu kinh tế
cửa khẩu, chỉ đạo các địa phương thực hiện cơ chế chính sách dành cho loại hình
khu kinh tế này. Điều đó đã làm cho sự phát huy chưa được tốt hiệu lực cũng như
hiệu quả của cơ chế chính sách và tạo ra những sơ hở lỏng lẻo trong quản lý một
số lĩnh vực như đổi tiền, xuất nhập cảnh trái phép, kiểm dịch, kiểm tra chất lượng
hàng hoá.
Cơ chế đầu tư trở lại để xây dựng cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu đang nẩy
sinh một số vấn đề cụ thể cần giải quyết. Cơ chế chính sách đầu tư trở lại qua
ngân sách trên địa bàn khu kinh tế cửa khẩu đã được nhiều địa phương có khu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
kinh tế cửa khẩu có nguồn thu lớn đánh giá cả. Tuy nhiên, ở những khu kinh tế
cửa khẩu có nguồn thu, hoặc nguồn thu q ít thì dù nâng tỉ lệ lên 100% cũng
không đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng như các
khu kinh tế cửa khẩu khác. Vấn đề địa bàn thụ hưởng vốn đầu tư từ ngân sách
riêng cho phát triển cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu cũng có ý kiến khác nhau.
Số ngân sách dùng để đầu tư xây dựng sở hạ tầng nhất thiết chỉ trong khu kinh tế
cửa khẩu hay cũng nên cho phép đầu tư ra vùng lân cận có liên quan mật thiết đối
với khu kinh tế cửa khẩu. Một số cơng trình như cầu, đường, điện, nước, thủy
lợi… trên địa bàn khu kinh tế cửa khẩu được đầu tư từ nguồn ODA có cần được
hỗ trợ về vốn đối ứng từ vốn đầu tư của khu kinh tế cửa khẩu hay không? Những
vấn đề này tuy đã được giải quyết theo những trường hợp riêng lẻ trong thời gian
qua, nay cần được qui định lại thành qui chế chung.
Vấn đề thiếu lực lượng hải quan tại nhiều cửa khẩu quốc gia, cửa khẩu địa
phương. Tại nhiều cửa khẩu nơi chưa có lực lượng hải quan, việc giao lưu hàng
hoá chưa được xác nhận. Các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh muốn có xác
nhận hải quan phải đưa hàng đến các cửa khẩu có lực lượng hải quan để làm các
thủ tục hải quan, do vậy rất tốn kém về thời gian, chi phí vận chuyển, giao dịch…
Vấn đề đặt ra là, một mặt lực lượng hải quan khơng thể có mặt ở tất cả các cửa
khẩu; mặt khác, doanh nghiệp, hộ kinh doanh mong muốn được mua bán, trao
đổi hàng hoá ở địa điểm thuận lợi, ít tốn kém nhất cho mình.
Vấn đề thanh toán biên mậu mới chỉ được tiến hành ở giai đoạn thí điểm trong
bn bán biên giới và các cửa khẩu phần lớn chưa có hoạt động của ngân hàng;
việc các đồng tiền của Việt Nam cũng như của các nước láng giềng còn chưa
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phải là đồng tiền chuyển đổi đang làm cho việc thanh toán của các doanh nghiệp,
các chủ hàng còn bị thả nổi, chịu nhiều rủi ro. Trong những năm qua, việc thanh
toán tiền tệ trong giao lưu giữa các doanh nghiệp, chủ hàng Việt Nam với các đối
tác của nước láng giềng qua các khu kinh tế cửa khẩu chủ yếu theo phương thức
dùng tiền mặt, không qua tổ chức ngân hàng nào. Việc lưu thông một lượng tiền
mặt lớn đã đặt doanh nghiệp, chủ hàng Việt Nam vào tình trạng rất bất ổn. Thứ
nhất, phải vận chuyển một lượng tiền mặt lớn, rất dễ nảy sinh rủi ro, thiếu an
toàn. Thứ hai, việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ để thu về các đồng tiền của các
nước láng giềng là điều rất không thuận lợi cho giao dịch của các doanh nghiệp
và các chủ hàng, vì các đồng tiền đó đều là loại chưa tự do chuyển đổi được. Thứ
ba, nếu các doanh nghiệp chuyển đổi đồng tiền của nước láng giềng ra ngoại tệ
mạnh thì lại nảy sinh vấn đề bị ép về tỷ giá. Thứ tư, việc đổi đồng Việt Nam ra
đồng tiền nước láng giềng và ngược lại, cho tới nay vẫn chưa có sự tham gia,
quản lý của hệ thống ngân hàng, gây nhiều bất cập cho doanh nghiệp, chủ hàng.
Giao dịch tiền tệ tại các khu kinh tế cửa khẩu được tiến hành dưới các thể thức
"phi hình thức", trong đó các tổ chức ngân hàng thuộc các thành phần kinh tế đều
chưa vào cuộc đang là một trở ngại lớn trong việc mở rộng có hiệu quả giao lưu
kinh tế qua các khu kinh tế cửa khẩu. Đây là một vấn đề đòi hỏi có sự thoả thuận
giữa Việt Nam với các nước láng giềng.
2.2.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân của các kết quả tích cực:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Hình thành và phát triển khu KTCK là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu và xu thế
giao lưu kinh tế biên giới Việt Nam và các nước láng giềng, đáp ứng được
nguyện vọngcủa người dân địa phương.
- Các cơ chế chính sách ưu đã đã tạo mơi trường thơng thống, có tác dụng kích
tích, huy động các nguồn lực tại chỗ và các vùng khác vào phát triển kinh tế xã
hội tại các khu vực cửa khẩu, những nơi này vốn là vùng sâu, vùng xa, vùng kinh
tế chậm phát triển cịn gặp nhiều khó khăn.
- Các ngành chức năng đã có nhiều nỗ lực trong việc tập trung sự chỉ đạo hướng
dẫn, chỉ đạo triển khai thực hiện cơ chế chính sách để có thể nhanh chóng đi vào
thực tiễn cuộc sống và đã có những kết quả tích cực.
- Các địa phương được áp dụng các chính sách ưu đãi chủ động xây dựng đề án
về quy hoạch, kế hoạch, bộ máy cán bộ và tích cực triển khai thực hiện, nên đã
tạo ra sự chỉ đạo, quản lý điều hành một cách có hiệu lực và đồng bộ.
- Cơ chế đầu tư riêng qua ngân sách cho phát triển cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa
khẩu đã thực sự là một động lực cho việc thực hiện các quyết định của Thủ tướng
Chính phủ; đa góp phần vào việc nâng cao cơ sở hạ tầng, cơ sở quản lý điều hành
cũng như trong đầu tư kinh doanh.
Nguyên nhân tồn tại:
- Hình thức pháp lý của việc thực hiện các chính sách ưu đãi là các Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ, do vậy mức độ ưu đãi không thể vượt quá những quy
định tại các văn bản luật, Pháp lệnh, Nghị định hiện hành, do đó có những vấn đề
tồn tại phải chờ sửa đổi, bổ sung của các văn bản pháp luật này.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Bộ máy quản lý từ Trung ương đến địa phương chưa có những điều chỉnh đồng
bộ phù hợp để thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với các khu kinh tế cửa khẩu
được trải dài trên vành đai biên giới. Chưa có một cơ quan trung ương đứng ra để
điều hoà, phối hợp các vấn đề cần triển khai cũng như để nghiên cứu, xử lý các
vấn đề nảy sinh. Việc triển khai hướng dẫn thực hiện của các cơ quan Trung
ương còn chậm so với yêu cầu. Các cơ quan thuộc ngành dọc cũng chưa có cơ
chế phối hợp đầy đủ với các cơ quan địa phương, do đó khi gặp những bất cập
thướng lúng túng, chậm khắc phục.
- Cán bộ quản lý tại các khu kinh tế cửa khẩu còn thiếu và chưa được chuẩn bị
đầy đủ, kịp thời để đáp ứng những yêu cầu nảy sinh trong quá trình triển khai
thực hiện. Về cơ bản, cán bộ quản lý tại các khu kinh tế cửa khẩu là các lực
lượng tại chỗ từ trước khi có Quyết định của Thủ tướng chính phủ về các khu
kinh tế cửa khẩu. Do đó, sau khi các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về các
khu KTCK đi vào thực hiện, cơng việc tăng lên, u cầu địi hỏi cao lên. Vì vây,
cán bộ quản lý tại các khu KTCK gặp phải những khó khăn khơng dễ khắc phục
ngay được.
Phần III. Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc
I. Quan điểm của Đảng và Nhà nước cề phát triển các kinh tế cửa khẩu vùng
Đông Bắc
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước:
Để thực hiện tốt những ý tưởng của cải cách theo đúng những phương hướng đã
vạch ra trong Đại hội VI của Đảng, trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã
không ngừng nghiên cứu, tìm tịi, nhằm phát hiện ra những cách đi thích hợp,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
sáng tạo, cho phép đạt được các mục tiêu đặt ra một cách nhanh chóng hơn, với
những chi phí thấp, và mang lại kết quả cao hơn. ý tưởng về mở cửa nền kinh tế
đất nước theo nhiều hướng, nhiều tầng nấc khác nhau, là kết quả quan trọng của
những nghiên cứu, tìm tịi này. Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, ý tưởng
này đã ln được phát triển, hồn thiện và được thể hiện ngày càng rõ rệt trong
nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Trong đó quan trọng nhất là việc khẳng
định quan điểm chủ đạo trong chính sách kinh tế đối ngoại hiện nay. Đó là: “Tiếp
tục thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương
hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, … phấn đấu vì hịa bình độc lập và phát triển”.
Từ phương châm chủ đạo nói trên, các quan điểm cụ thể của Đảng cũng ngày
càng được làm rõ trong các Đại hội VII, VIII, IX của Đảng với những quan điểm
chủ đạo sau:
- Khẳng định nguyên tắc độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi trong phát
triển kinh tế đối ngoại.
- Đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại là phù hợp với nhữn yêu cầu của
cơ chế thị trường.
- Đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại là phù hợp với những đòi hỏi của
kinh tế trong nước và quốc tế.
Với quan điểm mở rộng giao lưu kinh tế như vậy chúng ta đã có được những
thành tựu khơng nhỏ trong thời gian qua. Để tăng cường đẩy mạnh giao lưu kinh
tế, đặc biệt là tại các cửa khẩu biên giới Đảng và Nhà nước đã Quyết định thành
lập các khu kinh tế cửa khẩu để thực hiện thí điểm các chính sách. Đây là mô
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hình đã được thực hiện thành công ở một số nước và trong thời gian qua với sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước sự phát triển của các khu kinh tế cửa khẩu ngày
càng mạnh mẽ. Sự quan tâm được thể hiên qua các quyết định, các thông tư và
một số các văn bản của các cấp các ngành nhằm chỉ đạo việc thực hiện các chính
sách theo quan điểm của Đảng và Nhà nước. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 về chính sách đầu tư đối với khu
kinh tế cửa khẩu biên giới. Theo đó, ngồi quyền được hưởng ưu đãi theo qui
định hiện hành, các nhà đầu tư trong và ngồi nước cịn được hưởng.
- Các hoạt động kinh doanh: xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, vận chuyển hàng
hoá quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế hội trợ triển lãm, cửa hàng
giới thiệu sản phẩm, sản xuất, gia công hàng xuất khẩu, chi nhánh đại diện, chợ
cửa khẩu, dịch vụ-du lịch, đầu tư cơ sở hạ tầng..
- Các nhà đầu tư được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất và cơng trình kiến
trúc theo đúng mục đích sử dụng đất đã được phê duyệt, được vay vốn ưu đãi của
Nhà nước để đầu tư xây dựng cơ sở kinh doanh, được hưởng các ưu đãi về buôn
bán biên giới, theo qui định.
- áp dụng thuế suất, thuế xuất khẩu hiện hành ở mức thấp nhất đối với những mặt
hàng được sản xuất trong khu vực phải chịu thuế.
- Giảm 50% giá thuê đất và mặt nước so với mức hiện hành
- Mức thuế thu nhập doanh nghiệp thấp nhất (10%) trong suốt thời hạn thực hiện
dự án đầu tư; được miễn thuế thương mại doanh nghiệp trong 4 năm kể từ khi
kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo.
- Mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thấp nhất (3%).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Thủ tục xuất nhập cảnh thuận lợi cho người nước ngoài ra, vào khu vực này.
2. Định hướng phát triển kinh tế xã hội vùng Đông Bắc
Phát triển Đông Bắc phải đạt trong mối quan hệ hữu cơ với Đồng bằng Sơng
Hồng và Tây Bắc, tận dụng cơ hội để hồ nhập vào sự phát triển của vùng phát
triển kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
- Với vị trí đầu nguồn cho nên mọi sự phát triển của vùng cán bộ, công chức phải
được đặt trong mối quan hệ hữu cơ, nhất là về mặt tự nhiên với ĐBSH để đảm
bảo cân bằng về tự nhiên, môi trường trên qui mô vùng lớn, nhất là trong các
hoạt động thủy văn, bảo vệ nguồn nước.
- Đồng bằng sông Hồng đất chật, người đông, quỹ dất dành cho nơng nghiệp có
hạn, trong khi đó nhu cầu về các sản phẩm nông nghiệp rất lớn cũng như nhu cầu
về nguyên liệu cho công nghiệp; do đó sự bố trí cơ cấu kinh tế cần phải tính tới
u cầu đó.
- Nằm trong tổng thể tự nhiên của miền núi Bắc bộ, sự đan xen về các điều kiện
khí hậu, phát triển lâm nghiệp, khai thác các dịng sơng… cho nên các phương án
phát triển của Đơng Bắc phải gắn bó chặt chẽ với Tây Bắc. Đồng thời trong chiến
lược an ninh quốc phòng, mở rộng thương mại biên giới thì Đơng Bắc cũng cần
phải phối hợp chặt chẽ với Đông Bắc.
Đông Bắc đang ở điểm xuất phát thấp, muốn phối hợp và hoà nhập với sự phát
triển chung của Đồng bằng Sơng Hồng và phía Tây Nam Trung Quốc để tránh
những tụt hậu và thua kém thì cần phát triển nhanh, đồng thời phát triển bền
vững.