Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
liệu, thị trường...
III. thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế
giới.
1. Về thị trường may mặc Việt Nam.
1.1. thị trường EU:
Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại quần áo.
Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. ở đây, người ta có thấy
đủ loại hàng hố từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hồng Kông, Đài Loan.
Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa qua hạn ngạch mà EU dành cho
công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá trị khoảng 450 triệu USD và hiệp định
ký cho giai đoạn tới 1998-200 giá trị sẽ tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ (chi
giai đoạn 1993-1997). Đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký
hiệp định bn bán dệt may từ năm 1992 trong đó có hạn ngạch gia cơng thuần t
(TPP). Có nghĩa là khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba th gia
cơng tại Việt Nam, sau đó xuất sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ
liệu từ EU sang gia cơng tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì khơng
tính vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU
sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến vững
chắc. Năm 1993 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào EU đạt
được khoảng 250 triệu USD, năm 1996 đạt 400 triệu USD và dự kiến năm 1998 sẽ
đạt 650 triệu USD.
Cũng như các năm trước đây mặt hàng áo Jacket luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ
cấu xuất khẩu may mặc đi EU và thường chiếm 50% trong tổng kim ngạch. Chất
13
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
lượng hàng may mặc Việt Nam đã được khách hàng chấp nhận, chỉ tính riêng năm
1996 hàng dệt-may Việt Nam đã xuất sang tất cả các nước EU với giá trị hàng trăm
triệu USD, đứng đầu là Đức ( 150 triệu USD), Pháp (60 triệu USD), Tây Ban Nha (
16 triệu USD), Bỉ ( 10 triệu USD), Thuỵ Điển (7,5 triệu USD), Bồ Đào Nha ( 1,3
triệu USD)...
Thị trường may mặc EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối với các doanh
nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải
tuân thủ những quy định khá nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào thị trường này như:
- Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu các mặt hàng có
xuất xứ từ các nước khác vào EU.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đ•i, giá nhân cơng trong
nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện hành gây bất lợi cho các nhà sản xuất cùng
loại hàng đó hoặc các mặt hàng trực tiếp bị cạnh tranh của EU. Có thể sẽ bị áp dụng
quy định cụ thể đ• được hai bên thoả thuận.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho nước thứ ba để tái
xuất vào EU.
- Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi rõ phí gia cơng, giá
trị ngun vật liệu mua tại Việt Nam để làm căn cứ giảm thuế nhập khẩu vào EU.
Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim ngạch mà Việt Nam
đưa vào EU ( tổng cộng 151 nhóm mặt hàng với 108 nhóm thoe hạn ngạch và 43
nhóm tự do). Hạn ngạch năm trước khơng dùng hết có thể chuyển sang năm sau.
Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm Việt Nam và EU sẽ xem xét
khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng hạn ngạch cấp cho Việt Nam. Bởi
14
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các doanh nghiệp của ta cần tuân thủ tốt các
quy định này, tránh làm tổn hại đến quan hệ buôn bán giữa nước ta và cộng đồng
kinh tế Châu Âu.
1.2. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây là thị
trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với những đòi hỏi
khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm tra chất lượng chi tiết
và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:
- Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5%
- Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất.
- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả.
Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người 26 nghìn
USD/năm thì nhu cầu về may mặc là khơng nhỏ, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu
khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1994 hàng may Việt Nam xuất sang Nhật
xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1996 xuất sang Nhật chiếm 90% kim ngạch của mảng thị
trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD. Mặt khác, xuất sang Nhật thường là
áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị phía Bắc gia cơng, áo Kimono do các đơn vị
phía Nam thực hiện.
Đây tuy là thị trường địi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư tốt, nâng
cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm vững thị hiếu thì có
khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị trường này.
1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ
Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ khá đơng,
15
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập quốc dân cao. Do
đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng hàng dệt may nhu cầu nhập
khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm 1996 là 34 tỷ USD. Nguồn nhập chủ
yếu là từ các nước Châu á:
Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại Châu á của Hoa Kỳ.
Nước Giá trị ( tỷ USD)
Trung Quốc 6,1
Hồng Kông 5
Hàn Quốc
1,8
Đài Loan
2,3
Các nước ASEAN khác
4,5
(Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam.)
Tháng 2/1994 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1994 Mỹ bỏ cấm vận viện trợ
và tháng 7/1995 Mỹ bình thường hố mối quan hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng
ta đang mong chờ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN-The Most Favourel
Nation) cho hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là điều kiện chìa khố
để xâm nhập thị trường Mỹ.
Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp dẫn ngay
bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ phong cách của
người Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Song với Việt Nam sự lạc quan đó vẫn
nằm trong nỗi ơ âu vì Mỹ chưa dành cho Việt Nam MFN và như vậy hàng may Việt
Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn rất cao, từ 40-49% giá trị nhập khẩu.
Trong khi Trung Quốc và một số nước khác được hưởng quy chế này chỉ phải chịu
16
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh đã không tthuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt
khác, ngân hàng hai nước chưa có mối quan hệ bạn hàng bang giao chặt chẽ nên
việc thanh tốn cịn là một vấn đề bất cập. Trường hợp này đã có thực tế khi có một
Cơng ty Mỹ muốn trả tiền cho Công ty may Phương Đông, họ không thể mở L/C từ
Mỹ mà phải sang tận Việt Nam yêu cầu Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh cho
phép vừa mở vừa nhận tiền và họ phải trả bằng tiền mặt.
Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ
mới chỉ là mức tương đối. Năm 1994 đạt 2 triệu USD, năm 1995 đạt 5 triệu, năm
1996 đạt 25 triệu và năm 1997 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới chỉ là những con số
rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường Mỹ và khả năng xuất khẩu của ta. Vậy
chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập được vào thị trường đầy triển vọng này
đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều nhà quản lý và cả phía doanh
nghiệp.
1.4. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu
Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì tỷ trọng
kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai trị quan trọng,
xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian dài đó nhà xuất khẩu
của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng ở khu vực này
và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với hàng may mặc của ta. Tuy nhiên, kể
từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ thì kim ngạch hàng may mặc của ta vào thị
trường này giảm mạnh. Hiện nay, hàng may mặc của ta vào thị trường này chủ yếu
do các thương gia bn theo từng chuyến cịn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp
do chưa tìm được phương thức thanh tốn hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi
17
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hàng trước đây.
Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy năm vừa
qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải pháp cần thiết để
nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này. Các doanh nghiệp cần
mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát huy lợi thế vốn có của ta
trong nhiều năm qua trên thị trường này.
1.5. Thị trường các nước ASEAN
Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình thực hiện
AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách thức. Phải tiến hành
cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do giữa các nước ASEAN tạo
nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt Nam, buộc các doanh nghiệp Việt
Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp dụng phương thức quản lý hiện đại và phải
tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về mọi mặt để trụ vững trên thương
trường. Sản phẩm có được thị trường chấp nhận hay không quyết định đến sự tốn tại
của Cơng ty. Dưới sức ép đó sẽ xố bỏ đi được các Cơng ty làm ăn trì trệ. Tuy
nhiên về phía Việt Nam chắc chắn sẽ có nhiều Công ty cần phải “lột xác “.
Bù lại, thị trường ASEAN với 430 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người hàng
năm 1.608 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là một thị
trường lớn cho hàng may mặc. ASEAN cịn là một thị trường có nền văn hố tương
đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tương đối giống nhau, điều này là điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam xâm nhập dế ràng hơn.
1.6. Thị trường trong nước
Chúng ta chủ yếu chú trọng đến sản xuất hàng may xuất khẩu và đã có những đóng
18
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Song chúng ta đã để lại khoảng trống sau
lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện nay, dân số Việt Nam trên 75 triệu người,
chỉ tính khiêm tốn sức mua cũng vào khoảng 750 triệu USD/năm (10
USD/người/năm). Đây là con số không nhỏ có sức hấp dẫn đối với bất kỳ nhà đầu
tư nào.
Thực tế trên thị trường Việt Nam còn nhiều mặt hàng second-hand của nước ngoài,
chứng tỏ rằng nhu cầu đa vượt khả năng cung cấp trong nước. Do vậy, các doanh
nghiệp Việt Nam một mặt tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu, một mặt phải chú ý
đến sản xuất hàng phục vụ nhu cầu nội địa. Nhà nước chỉ có biện pháp như giao chỉ
tiêu cho một số doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc đáp ứng tiêu dùng trong nước.
Tránh bỏ trống thị trường ngay trong tầm tay.
Trên đây là một số thị trường lớn mà chúng ta đã và đang có được. Cần phải có biện
pháp và định hướng đúng đắn để khai thác nó một cách triệt để. Mặt khác phải tăng
cường mở rộng và tìm kiếm những thị trường đang bị bỏ ngỏ, đây cũng là mục tiêu
mà chúng ta đang đặt ra. Chẳng hạn sẽ tìm cách tiếp cận thị trường Trung Cận Đơng
và Mỹ La Tinh là một ví dụ.
2. Xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới.
Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ chức và
đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau:
- Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động, về sở hữu
trí tuệ...
- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN...
- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân hàng.
19
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở , hàng dệt
may...
- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris, Singapore,
Chicago...
- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức du lịch
quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thơng quốc tế, các mạng lưới và trung tâm dịch
vụ tiêu thụ...
Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho thương
mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế này sẽ khơng
thể khơng tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới và khu vực nói trên.
Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới việc sản xuất
và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có các mức thuế ưu đãi
đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất khẩu vào thị trường này.
Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may mặc với từng nước cụ thể,
dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của Trung Quốc.
Với các định chế này, nó tạo ra sự cơng bằng giữa các nước có nền cơng nghiệp
may phát triển và các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản xuất và
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi lên một số đặc
điểm sau:
+ Năm 1997 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn ngạch 22
nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký hiệp định trong
lĩnh vực này cho giai đoạn 1998-2000, điều đó sẽ mở ra một triển vọng to lớn về
20
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.
+ Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ được cải thiện một cách cơ bản, song quy chế tối
huệ quốc cho Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi chưa chính xác. Nếu chế độ này
được áp dụng thì đây sẽ là cơ hội lớn về thị trường hàng dệt may cho Việt Nam.
+ Kinh tế khu vực phát triển chận lại : việc trao trả Hồng Kơng cho Trung Quốc vào
1/7/1997 vừa qua có thể ảnh hưởng đến kinh tế thị trường khu vực. Hiện nay một số
khách hàng Hồng Kông đang đặt gia công hàng may mặc tại Việt Nam như vậy sẽ ít
nhiều bị biến động. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu á vừa qua làm
ảnh hưởng nặng nề tới việc tiêu thụ cũng như khả năng sản xuất trên thị trường các
mặt hàng nói chung và hàng may mặc nói riêng.
+ Trước đây khách hàng EU tập trung vào thuê gia công áo Jacket ba lớp (cat 21) và
sơ mi (cat 8) tại Việt Nam. Thời gian tới xu hướng chung là giảm cat 21 và cat 8, đi
vào một số cat khác như quần (cat 78), áo (cat 161).
+ Xí nghiệp may khơng ngừng cải tiến trang thiết bị, máy móc nâng cao năng suất
lao động. Bên cạnh đó một số xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng may mặc đã đi
vào hoạt động.
+ Mọi năm các xí nghiệp có quota cat 21 thì bắt buộc các khách hàng nước ngồi
phải làm gia cơng ở xí nghiệp đó để tận dụng quota cat 21. Thời gian tới, những xí
nghiệp nào làm chất lượng tốt, đảm bảo thời gian giao hàng đúng hạn thì khách
hàng mới đặt hàng.
+ Giá cả sợi để dệt vải trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm
quần áo và liên quan tới gia cơng. Trong khi đó, giá cả sản phẩm bán ra lại hạ mà
giá gia cơng của Việt Nam nói chung thì ngày càng cao do yêu cầu của đời sống và
21
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
lượng thu nhập ngày càng tăng lên của nhân dân. Nó đã tạo sự mâu thuẫn giữa phía
Việt Nam và phí các khách hàng nước ngồi.
+ Bộ Thương mại có chủ trương sắp tới bỏ hoạt động cấp quota cho các doanh
nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông tư liên bộ Thương mại - Công
nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng dệt may xuất đi EU.
Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá cả.
+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước nghiên cứu
các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và trong nước.
+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia cơng, xuất khẩu
trực tiếp cịn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung cấp nguyên liệu
dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.
Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam có tốc độ
tăng trưởng lớn nhất. Năm 1995 tăng gấp 5 lần so với năm 1991. Đây là con số khả
quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu, song nhìn vào thực tế thì giá
trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150 triệu USD trên tổng giá trị xuất khẩu
là 874 triệu USD, còn năm 1996 là 194 triệu USD trên tổng số kim ngạch xuất khẩu
là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất khẩu kiểu này không mấy hiệu quả.
Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể đạt 2,15
tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư không ngừng của các doanh nghiệp, xí nghiệp
Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra đời, các xí nghiệp may
như : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công ty may Đức Giang, Công ty
may Nhà Bè.. không ngừng cải tiến trang thiết bị, đào tạo đội ngũ quản lý, cơng
nhân phục vụ q trình sản xuất tạo ra sản phẩm chất lượng cao.
22
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã thành lập
Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công ty may sản xuất
có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam các Công ty nước
ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào ngành may mặc, nhiều liên
doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt động thu kết quả khả quan. Tất cả đã
tạo ra một năng lực sản xuất mới cho ngành may mặc Việt Nam. Quy mô sản xuất
được mở rộng, tay nghề công nhân không ngừng được nâng lên, mẫu mã được cải
tiiến phong phú, đa dạng. Các yếu tố này gây nên sự hấp dẫn đối với các khách
hàng có ý định hợp tác.
3. Một số kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất hàng may
mặc.
Ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ
và được nhiều đơn vị, thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các Cơng ty , xí nghiệp
may từ Trung ương đến địa phương đều trưởng thành đáng kể. Năm 1997 có trên
400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu dự kiến 1998 con số này sẽ là gần 500 doanh
nghiệp. Không những đội ngũ may xuất khẩu tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp
mà quy mô doanh nghiệp công nghệ sản xuất, chất lượng, đội ngũ công nhân lành
nghề đang từng bước được nâng cao. Tất cả những điều này đang là dấu hiệu tốt cho
sự khởi sắc của ngành may Việt Nam khi vươn ra thị trường thế giới.
Tuy nhiên, để làm tốt hơn nữa chứng từ xuất khẩu may mặc, phát huy hết mọi sức
mạnh tiềm tàng của đất nước thì bên cạnh các biện pháp chuyên môn các nhà xuất
khẩu Việt Nam cần phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ các cơ sở may xuất
khẩu trong nước và ngồi nước. Thường xun coi trọng cơng tác tự đánh giá và rút
23
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
ra những bài học chính mình để kịp thời điều chỉnh những vấn đề còn yếu kém,
tránh thua thiệt trong cạnh tranh, tránh xu hướng đầu tư sai lầm mà trong thời gian
ngắn khó có thể thay đổi được.. Cụ thể trong thực tiễn hoạt động của chúng ta đang
còn nổi cộm lên một số vấn đề lớn sau và cần được nhìn nhận lại một cách nghiêm
túc.
Trong đầu tư mua sắc, chuyển giao máy móc cơng nghệ một số đơn vị do nguồn vốn
hạn hẹp phải mua thiết bị Second-hand đã để khách hàng nước ngoài lợi dụng đưa
thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng rất hạn chế ; nguy cơ là bãi thải
công nghiệp với những cỗ máy lạc hậu tới hàng thế kỷ. Bên cạnh đó cơng tác lập
luận chứng đầu tư cịn phiến diện, thiếu đồng bộ. Có trường hợp khi mua thiết bị sợi
về thấy thiếu thiết bị lạnh lại phải chờ lập luận chứng mua thiết bị lạnh nên phải mất
thêm 2 năm mới sử dụng được, hoặc thiếu sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư
dẫn đến máy móc thiết bị nhập về rồi mới tính chất đào tạo cơng nhân. Tình trạng
đã dẫn tới thời gian vay nợ kéo dài nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Cơng ty vì
nguồn vốn vay đầu tư khơng được trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả
năng chi trả.
Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trường hợp Công tylàm hàng gia
công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như : định mức tiêu
hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm giao nhận, phương
thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra những kết cục tranh chấp
đáng tiếc.
Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi tham gia
thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó tăng cường thực
24