Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Đề tài "Một số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển kinh tế của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001- 2010" pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.87 KB, 44 trang )

Đề tài
"Một số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho
sự phát triển kinh tế của Thành phố Thanh Hoá
trong giai đoạn 2001- 2010"
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: Lý luận chung về nền tài chính đô thị. 3
I. Hệ thống tài chính quốc gia và nền tài chính đô thị. 3
II. Quan hệ của các cấp chính quyền qua hệ thống tài chính. 9
III. Quan hệ của các cấp chính quyền qua hệ thống tài chính 10
IV. Các nội dung thu của ngân sách đô thị từ trong nước 11
V. Nguồn thu từ nước ngoài 15
CHƯƠNG II: Thực trạng tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát
triển của thành phố thanh hoá trong giai đoạn
2001-2005
16
I. Giới thiệu về Thành phố Thanh hoá 16
II.Thực trạng tăng nguồn thu cho sự phát triển của thành phố Thanh
hoá trong giai đoạn 2001- 2005
17
III. Những nguyên nhân tồn tại. 29
CHƯƠNG III: Những giải pháp nâng cao hiệu quả tăng nguồn thu
ngân sách cho sự phát triển của Thành phố Thanh Hoá trong giai
đoạn 2005-2010.
31
I. nhiệm vụ của Thành phố trong thời gian tới 32
II. định hướng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội thành phố
thanh hoá đến năm 2010.
34


III. Một số giải pháp để tăng nguồn thu ngân sách của thành phố trong
giai đoạn 2006-2010
35
KẾT LUẬN 41
Nhận xét nơi thực tập
Tài liệu tham khảo
Mục lục
A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
Cùng với sự CNH-HDH đất nước trong thời kỳ đổi mới. Các đô thị
lớn và nhỏ trong cả nước đang vươn lên chứng tỏ vai trò của mình. Mục tiêu
đến năm 2010 nước ta cơ bản sẽ là nước công nghiệp. Vì thế để thực hiện
được mục tiêu này thì quá trình CNH-HĐH ở các đô thị phải được ưu tiên
hàng đầu. Nhưng nguồn thu cho sự phát triển đó được lấy ở đâu? Đây đang
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
2
là bài toán nan giải cho các nhà quản lý đô thị nói chung và cho chính quyền
từng thành phố nói riêng.
Nguồn thu trên giác độ kinh tế- xã hội có vai trò rất quan trọng cho sự
phát triển ở đô thị. Về bản chất hoạt động thu là sự vận động của các nguồn
tiền tệ gắn với sự hình thành và các quỹ tiền tệ đó.
Thành phố Thanh Hoá sau 10 năm phát triển bây giờ là một đô thị loại
2. Trong 10 năm ấy đã thu được nhiều kết quả khả quan, Thành phố đang
dần hoàn chỉnh các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, quy hoạch khu Đông Bắc Ga, khu
nhà ở cho những hộ gia đình có thu nhập thấp, nâng cao đời sống cho người
dân…Thành phố có 12 phường và 6 xã với số dân là 286.848 người, mật độ
dân số nội thành là 17.188 n/km
2
(2003)
Nguồn thu ngân sách năm 2004 là 162.704200 (1000đ) và dự kiến

năm 2005 là 210.961 triệu đồng. Như vậy nguồn thu ngân sách có vai trò rất
quan trọng cho sự phát triển của Thành phố. Là sinh viên Khoa Kinh Tế &
Quản Lý Môi Trường - Đô Thị khoá 43 và là một người dân Thanh Hoá.
Nên tôi muốn tìm hiểu về Thành phố mình ở_ nơi tôi đã lớn lên. Tôi mạnh
dạn chọn đề tài
“ Một số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển
kinh tế của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001- 2010”
Tôi rất mong được sự quan tâm giúp đỡ của Th.s Lê Thăng Long và
các bạn trong lớp để tôi hoàn thành chuyên đề thực tập rất quan trọng này.
II. Mục đích chọn đề tài.
Tôi muốn tìm hiểu những vấn đề làm được và chưa làm được việc sử
dụng hợp lý nguồn thu cho sự phát triển của Thành phố Thanh Hoá những
năm qua. Nguồn thu của Thành phố là vấn đề rộng hay hẹp, mức độ phức tạp
không? Và việc vận dụng những kiến thức học trong 4 năm để tìm hiểu một
vấn đề cụ thể. Xem mình đã thu được gì trong thực tế trước khi ra trường.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
3
Đối tượng nghiên cứu là các nguồn thu từ thuế (thuế môn bài, thuế
trước bạ, thuế nông nghiệp…), các khoản phí, lệ phí (phí ô nhiễm môi
trường, phí giao thông…) từ việc cho thuê đất, bán đất… trên địa bàn Thành
phố.
Được thực tập ở phòng Quản Lý Đô Thị Thành phố là cơ quan hành
chính sự nghiệp nên phạm vi nghiên cứu chủ yếu là các đơn vị cơ quan hành
chính như chi cục thuế Thành phố, phòng tài chính, phòng kế hoạch… Nội
dung đề tài là vấn đề nguồn thu trong phạm vi Thành phố Thanh Hoá.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của đề án gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về nền tài chính đô thị.
Chương 2: Thực trạng tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển
của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001-2005.

Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả tăng nguồn thu ngân
sách cho sự phát triển của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2005-
2010.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN TÀI CHÍNH ĐÔ THỊ
I. Hệ thống tài chính quốc gia và nền tài chính đô thị.
1.1. Hệ thống tài chính quốc gia.
a. Trên quan điểm hình thành các quỹ tiền tệ:
Các hoạt động tài chính luôn gắn liền với các hoạt động kinh tế xã hội
đa dạng và phụ thuộc lẫn nhau tạo thành một hệ thống. Hệ thống tài chính
quốc gia có thể được nhìn nhận ở các góc độ khác nhau trong quá trình quản
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
4
lý. Về mặt bản chất, hoạt động tài chính là sự vận động của các nguồn tiền tệ
gắn với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Mỗi quỹ tiền tệ
có một chủ thể quản lý tương ứng, các quỹ có quan hệ với nhau tạo thành các
khâu của hệ thống. Theo sơ đồ 1, hệ thống tài chính quốc gia bao gồm các
khâu: Ngân sách, tài chính doanh nghiệp, tài chính các hộ gia đình, tài chính
các tổ chức xã hội, tài chính đối ngoại, tài chính tín dụng, tài chính bảo hiểm,
tài chính trung gian (các doanh nghiệp ngân hàng tín dụng).
Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà
nước( chủ thể quản lý là nhà nước) được tập trung từ các nguồn khác nhau
và được sử dụng để chi tiêu thực hiện các chức năng của nhà nước ở các cấp
chính quyền khác nhau.
Mục tiêu hoạt động của tài chính đô thị là tăng nguồn thu, sử dụng hợp
lý các nguồn thu để chi tiêu duy trì các hoạt động thường xuyên và kích thích
phát triển kinh tế, dịch vụ, văn hoá giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ sức
khoẻ….
Tài chính doanh nghiệp là các nguồn lực tài chính gắn với sản xuất
của các doanh nghiệp tồn tại dưới hình thức vốn và các quỹ chuyên dùng,

chủ doanh nghiệp là chủ thể thực hiện mục đích của doanh nghiệp. Tài chính
các hộ gia đình và các tổ chức xã hội là các quỹ được hình thành từ các
nguồn thu nhập khác nhau được sử dụng cho các mục đích tiêu dùng và tích
luỹ.
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
5
Ngân sách Nhà nước
Tài chính doanh
nghiệp
Thị
trường
T i à
chính
Các tổ chức tài
chính
Trung gian
Tài chính hộ gia đình
và các tổ chức xã hội
Tài chính đối
ngoại
Sơ đồ 1: Hệ thống tài chính quốc gia
Tài chính đối ngoại là những nguồn tài chính hình thành do quan hệ
giữa các cá nhân, tổ chức trong quan hệ trong nước với nước ngoài. Tài
chính đối ngoại hình thành hình thành một cách tương đối độc lập, tồn tại
dưới các hình thức viện trợ, cho vay, liên doanh… và được xem như một
trong số các nguồn tài chính khác.
Các tổ chức tài chính trung gian như ngân hàng thương mại, công ty
tài chính, các quỹ tiền tệ từ việc huy động vốn nhàn rỗi dưới các hình thức
khác nhau. Các tổ chức tài chính trung gian đóng vai trò cầu nối giữa người
bán và người mua quyền sử dụng các nguồn tài chính.

Các bộ phận của hệ thống tài chính có mối quan hệ với nhau qua các
hoạt động thu nộp đồng thời có quan hệ gián tiếp với nhau thông qua thị
trường tài chính.
Thị trường tài chính là một khái niệm trừu tượng dùng để chỉ nơi tiến
hành các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính. Thị trường
tài chính không phải là một khâu của hệ thống tài chính mà chỉ là môi trường
để hệ thống tài chính hoạt động.
b. Trên quan điểm phân cấp quản lý:
Các hoạt động tài chính có thể và cần được nghiên cứu theo các cấp
quản lý khác nhau. Ta có thể dễ dàng thấy sự tồn tại hai cấp hoạt động tài
chính là tài chính Trung ương và tài chính các địa phương. Trong hệ thống
tài chính các địa phương ta thấy sự phân cấp tài chính của các cấp chính
quyền: Tài chính tỉnh, thành phố, tài chính quận, huyện, phường, xã. Chủ thể
quản lý tài chính của tất cả các cấp là Bộ Tài chính, Sở Tài chính (các tỉnh,
thành phố), phòng tài chính các quận huyện, ban tài chính phường, xã. Thể
hiện tập trung nhất trong khâu ngân sách chính quyền các cấp. Các khoản thu
chi ngân sách của chính quyền các cấp. Các khoản thu chi ngân sách của
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
6
chính quyền các cấp được hình thành trên cơ sở Luật Ngân sách Nhà nước
năm 1998 và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội các địa phương có định
hướng của Nhà nước.
Quan hệ giữa ngân sách các cấp được thực hiện theo 3 nguyên tắc sau:
- Ngân sách Trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương
được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi một cách cụ thể.
- Thực hiện việc phân bổ hợp lý từ ngân sách cấp trên cho ngân sách
cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa
phương. Số bổ sung này là khoản thu ngân sách của cấp dưới.
- Không dùng ngân sách của cấp này để chu cho nhiệm vụ của cấp
khác, trừ trường hợp đặc biệt của chính phủ hoặc sự uỷ quyền của cơ quan

quản lý Nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện
nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ ngân
sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ chi đó.
1.2. Hệ thống tài chính đô thị.
a. Khái niệm và nội dung
Hệ thống tài chính của các đô thị là một bộ phận cấu thành của hệ
thống tài chính của cả nước. Hiện nay Nhà nước chưa phân định rõ luồng tài
chính- ngân sách đô thị và nông thôn do vậy ngân sách và tài chính đô thị
chưa có cơ chế chính sách, cơ chế quản lý riêng mà vẫn áp dụng cơ chế
chính sách tài chính chung trong cả nước
Ngân sách đô thị là một bộ phận của ngân sách địa phương và phụ
thuộc vào ngân sách địa phương. Để phát triển và quản lý đô thị, tăng cường
ngân sách địa phương là cần thiết và tất yếu. Trong phân tích kinh tế, có thể
coi ngân sách địa phương và ngân sách đô thị là hợp nhất. Sự phân cấp ngân
sách tạo nên tính độc lập tương đối về quyền hạn thu chi của mỗi cấp chính
quyền và là điều kiện để thực hiện tốt công tác quản lý ngân sách.
Trong các đô thị, việc hình thành ngân sách của chính quyền có sự
khác nhau tùy thuộc vào vai trò, vị trí của đô thị trong nền kinh tế quốc dân.
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
7
Các đô thị còn có 2 tổ chức quản lý thu ngân sách và quản lý kho bạc đước
tổ chức theo ngành dọc từ bộ tài chính xuống gồm:
+ Chi cục thuế tỉnh, Chi cục thuế thành phố, quận, thị xã.
+ Chi cục kho bạc, chi nhánh kho bạc thành phố, quận, thị xã.
Để hình thành ngân sách của mình, các cấp chính quyền địa phương
đều có ba nguồn thu chủ yếu: Thuế địa phương và các loại phí, nguồn thu từ
hàng hóa công cộng, trợ cấp của chính phủ. Kết quả của hoạt động thu đó tạo
nên ngân sách chung của địa phương.
b. Những đặc điểm cơ bản:
Tài chính đô thị là quá trình vận động liên tục phát sinh, phát triển của

các nguồn tài chính làm thay đổi các mối quan hệ tiền tệ có liên quan chặt
chẽ với hệ thống chính sách cơ chế quản lý để duy trì hoạt động thường
xuyên và quá trình đô thị hóa ở đô thị.
Hoạt động tài chính có quan hệ với tất cả các hoạt động của đô thị.
Mục tiêu của hoạt động tài chính đô thị là tăng nguồn thu, sử dụng nguồn thu
để chi tiêu duy trì các hoạt động thường xuyên và kích thích phát triển kinh
tế, dịch vụ, văn hóa giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ sức khỏe, giảm ô
nhiễm môi trường, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, chống chi phí
không cần thiết, chống lãng phí
Tuy nhiên tài chính đô thị chỉ hoạt động hiệu quả khi quá trình tạo
nguồn thông qua quá trình cấp phát thanh toán và hạch toán kinh tế với bộ
máy và những nhà quản lý xây dựng đô thị giỏi, tác nghiệp quản lý phù hợp,
hệ thống luật lệ và quy chế xây dựng đô thị theo quy hoạch.
c. Vai trò của chính quyền đô thị trong việc quản lý tài chính đô thị ở các
nước trên thế giới và ở Việt Nam.
Các nước trên thế giới: Các nước phát triển thì nền tài chính đô thị giữ
vị trí quan trọng trong nền kinh tế của quốc gia. Chính quyền đô thị có vai
trò tự chủ trong việc quản lý riêng biệt nền tài chính đó. Tức là chính quyền
thành phố đó ngoài việc tuân theo những quy định pháp luật của nhà nước thì
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
8
họ có quyền đưa ra những quy định riêng của thành phố trong việc tăng
nguồn thu cho ngân sách. Vì thế nền tài chính của họ tạo thành một hệ thống
hoàn chỉnh. Ngoài ra các đô thị đó có chính sách rất thông thoáng trong việc
tăng nguồn thu từ các khoản thuế. Họ không đề cao tăng nguồn thu từ thuế
mà tăng nguồn thu từ các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế, vệ sinh môi
trường, văn hóa, du lịch bằng cách cho tư nhân tham gia. Các nguồn thu đó
mang lại cho phát triển đô thị của họ đang sống. Tạo ấn tượng tốt cho người
dân đô thị và người nước ngoài. Ví dụ như Trung Quốc- Một nước cùng đi
theo con đường XHCN giống Việt Nam. Nhưng họ lại phát triển kinh tế theo

hướng đi riêng của họ, tiếp thu những cái mới, cái tốt của các nước đã phát
triển áp dụng cho sự phát triển của mình. Các đặc khu kinh tế là một ví dụ
điển hình, có nền tài chính rất lớn và cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, thu hút lượng
lớn nguồn đầu tư từ nước ngoài Các đặc khu ấy được ví như một nhà nước
riêng biệt.
Ở Việt Nam, tài chính đô thị cũng có vai trò quan trọng trong công
cuộc CNH- HĐH đất nước. Nguồn tài chính này chiếm 60% tổng thu ngân
sách Nhà nước. Tuy nhiên trong hệ thống tài chính quốc gia chưa hình thành
hệ thống tài chính đô thị được quản lý riêng biệt. Tài chính đô thị là bộ phận
quan trọng của hệ thống tài chính quốc gia. Nền tài chính của các thành phố
rất nhỏ so với nhu cầu của sự phát triển, nhất là phát triển cơ sở hạ tầng.
Những vấn đề đặt ra đối với hệ thống tài chính đô thị Việt Nam đó là:
• Xác định rõ hệ thống, tầm quan trọng của từng khâu trong hệ
thống, cơ chế hoạt động, những yếu kém trong cơ chế, nguyên
nhân, cách khắc phục.
• Quản lý cái gì? Quản lý nguồn thu, chi như thế nào.
• Quản lý như thế nào? thu đủ, chi đúng, chi có hiệu quả, chống
tham nhũng.
• Ai quản lý? Vấn đề cán bộ?
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
9
Đội ngũ cán bộ tài chính làm việc trong các cơ quan tài chính của Việt
Nam được đào tạo tư sơ cấp đến trình độ đại học ở trong nước, nước ngoài
với những chuyên ngành khác nhau: Tài chính, ngân hàng tín dụng, kế toán
Nhìn chung về số lượng tương đối đông đủ nhưng về chất lượng còn thiếu
nhiều cán bộ có kinh nghiệm quản lý theo cơ chế mới nhất là đối với lĩnh
vực tài chính đô thị và nghiệp vụ phát triển đô thị.
Chưa phân biệt được đặc thù của tài chính đô thị trong chế độ tài
chính dẫn đến các quy định trong quản lý tài chính chi phối cản trở quá trình
đô thị hoá. Về hình thức tài chính đô thị có vẻ tập trung cao độ nhưng thực

chất lại bị phân tán chia cắt tách biệt với công việc cụ thể về xây dựng đô thị.
Tài chính đô thị thuộc phạm trù kinh tế nhưng lại được tổ chức quản lý
kiểu hành chính làm mất năng động của các cấp quản lý đô thị, làm chậm tốc
độ đô thị hoá. Cơ chế cấp phát vốn và kinh phí còn mang nặng tính bao cấp.
Qúa coi trọng việc chế độ cấp phát vốn Nhà nước, xem nhẹ khả năng tự hoạt
động và cung cấp các dịch vụ đô thị. Một nguyên tắc cơ bản trong hạch toán
kinh tế là phải thu hồi vốn bỏ ra để hoạt động thì các nhà quản lý lại bỏ qua,
để rồi đến tình trạng thu tiền thuê nhà không đủ sửa chữa, thu tiền nước sinh
hoạt thấp hơn giá thành, cuối cùng là thiếu nước, thiếu nhà, thiếu trường
học
Các nguồn tài chính khác để xây dựng đô thị chưa có biện pháp khai
thác triệt để. Nguồn tài chính của các khu vực dân cư, của khu vực nước
ngoài gần như bị thả nổi. Nhiều gia đình có tiền muốn xây nhà nhưng không
được thực hiện được. Quản lý Nhà nước ở đô thị bị chia ra thành nhiều
ngành dọc cản trở quá trình kiểm tra, giám sát, thanh tra tài chính. Giữa các
cấp các ngành chưa phối hợp chặt chẽ dẫn đến có những quyết định chồng
chéo nhau.
Ngoài các thành phố Trung ương như thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Đà nẵng, Cần Thơ có những nguồn tài chính tương
đối vững mạnh. Còn các đô thị loại II, III, IV,V thì ngân sách nhỏ, không tự
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
10
chủ được nguồn tài chính mà chủ yếu vẫn là các nguồn tài chính từ ngân
sách Trung ương cấp. Là nước XHCN nên chúng ta phát triển kinh tế gắn
liền với công bằng xã hội. Tức là chúng ta phát triển hài hoà các yếu tố với
nhau. Vì vậy nguồn tài chính các đô thị nói chung ở Việt Nam chưa được
quan tâm đúng mức với vai trò của nó. Hy vọng trong một tương lai không
xa các cấp chính quyền nhận thức và thực hiện các chính sách để tăng nguồn
thu của đô thị. Chú trọng đến việc xây dựng và nuôi dưỡng các nguồn thu.
Như vậy chính quyền đô thị mới thể hiện được vai trò rất quan trọng của

mình.
II. Quan hệ của các cấp chính quyền qua hệ thống tài chính
Vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền đô thị diễn ra trong
phạm vi nền tài chính quốc gia và trên địa bàn đô thị họ quản lý. Tài chính
của mỗi cấp thể hiện sức mạnh quyền hạn, trách nhiệm của cấp đó trong bộ
máy quản lý đô thị. Những mối quan hệ cơ bản về tài chính nảy sinh trên cơ
sở công việc và điều kiện tài chính bao gồm:
- Phân chia trách nhiệm: Ai làm gì? ai chi khoản gì? thực chất là sự
phân quyền mà các cấp chính quyền luôn đòi hỏi sự công bằng và chính xác.
- Phân chia nguồn thu: Ai nhận nguồn vốn nào? Phải làm gì khi thu
chi không cân bằng? Là những điều kiện cơ bản để các cấp chính quyền thực
hiện nhiệm vụ của mình.
Bình đẳng trong vay mượn và hỗ trợ cung cấp các dịch vụ của Chính
phủ: Tài chính liên cấp. Chính quyền đô thị vừa là người điều tiết vừa là
người cung cấp các dịch vụ trong phạm vi đô thị của mình;
Những loại dịch vụ cấp thành phố cung cấp bao gồm: Đường sá đô thị
duy tu bảo dưỡng đường sá, chiếu sáng đô thị, vệ sinh môi trường, giao
thông, bệnh viện, cảnh sát, Trong nền kinh tế thị trường, các chính quyền
đô thị chỉ nên giới hạn vào cung cấp các dịch vụ cho dân cư đô thị của mình.
Để sản xuất có hiệu quả các cấp các ngành cần xác định rõ sản xuất cái gì,
cho ai, bao nhiêu và chất lượng thế nào?
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
11
Chính quyền đô thị phải cung cấp các dịch vụ có tính xã hội mà các
doanh nghiệp tư nhân không muốn cung cấp như y tế cộng động, giáo dục
công, văn hoá xã hội, trật tự an toàn xã hội
III. Quan hệ của các cấp chính quyền qua hệ thống tài chính
a. Sự tồn tại khách quan của các mối quan hệ
Vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền đô thị diễn ra trong
phạm vi nền tài chính quốc gia và trên địa bàn đô thị họ quản lý. Tài chính

của mỗi cấp thể hiện sức mạnh quyền hạn, trách nhiệm của cấp đó trong bộ
máy quản lý đô thị. Những mối quan hệ cơ bản về tài chính nảy sinh trên cơ
sở công việc và điều kiện tài chính bao gồm:
 Phân chia trách nhiệm: Ai làm gì? ai chi khoản gì? thực chất là
sự phân quyền mà các cấp chính quyền luôn đòi hỏi sự công
bằng và chính xác.
 Phân chia nguồn thu: Ai nhận nguồn vốn nào? Phải làm gì khi
thu chi không cân bằng? Là những điều kiện cơ bản để các cấp
chính quyền thực hiện nhiệm vụ của mình.
 Bình đẳng trong vay mượn và hỗ trơ cung cấp các dịch vụ của
Chính phủ:Tài chính liên cấp.
Chính quyền đô thị vừa là người điều tiết vừa là người cung cấp các
dịch vụ trong phạm vi đô thị của mình.
Những loại dịch vụ cấp thành phố cung cấp bao gồm: Đường sá đô thị
duy tu bảo dưỡng đường sá, chiếu sáng đô thị, vệ sing môi trường, giao
thông, bệnh viện, cảnh sát, Trong nền kinh tế thị trường, các chính quyền
đô thị chỉ nên giới hạn vào cung cấp các dịch vụ cho dân cư đô thị của mình.
Để sản xuất có hiệu quả các cấp các ngành cần xác định rõ sản xuất cái gì,
cho ai, bao nhiêu và chất lượng thế nào?
Chính quyền đô thị phải cung cấp các dịch vụ có tính xã hội mà các doanh
nghiệp tư nhân không muốn cung cấp như y tế cộng động, giáo dục công,
văn hoá xã hội, trật tự an toàn xã hội
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
12
IV. Các nội dung thu của ngân sách đô thị từ trong nước
4.1. Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Ngân sách đô thị, hay ngân sách của thành phố, thị xã, thị trấn, được
hình thành theo luật ngân sách Nhà nước năm 1998. Cũng giống như ngân
sách các địa phương, ngân sách đô thị hình thành dựa vào nhiệm vụ quản lý
Nhà nước về hành chính kinh tế, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội trên chế

độ định mức chi tiêu và chính sách để lại nguồn thu cho các đô thị để thiết
lập và chấp hành ngân sách. Các nguồn thu của ngân sách cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương bao gồm:
• Các khoản thu được giữ lại 100%:
- Tiền thuê chênh lệch giá đất
- Tền thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước
- Lệ phí trước bạ phát sinh trên địa bàn quận, huyện không
kể lệ phí trước bạ nhà đất
- Thu tiền từ hoạt động sổ xố kiến thiết
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước
ngoài trực tiếp cho tỉnh, thành phố theo quy định của pháp luật.
- Các khoản phí, lệ phí và các khoản thu nhập khác nộp
vào ngân sách tỉnh theo quy định của chính phủ
- Các khoản huy động của các tổ chức, cá nhân để đầu tư
xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định của chính
phủ(các loại quỹ phát triển nhà ở)
- Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước cho ngân sách cấp tỉnh, thành phố
- Thu kết dư ngân sách ngân sách cấp tỉnh, thành phố
- Bổ sung từ ngân sách trung ương (tài trợ của chính phủ)
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
• Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách Trung
ương và ngân sách cấp tỉnh, thành phố:
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
13
- Thuế giá trị gia tăng (VAT) không kể VAT của hàng hoá
nhập khẩu
- Thuế thu nhập doanh nghiệp không kể thuế thu nhập
doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành
- Thuế thu nhập (đối với người có thu nhập cao)

- Thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài
- Thu sử dụng vốn ngân sách
• Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách tỉnh và
ngân sách quận, phường:
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất, thực chất là chênh lệch
giá đất
- Thuế nhà đất
- Tiền sử dụng đất
• Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách tỉnh và
ngân sách huyện, xã:
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp(cho thị trấn, xã tối thiểu là
20%)
- Thuế tài nguyên
- Lệ phí trước bạ nhà đất
- Thuế tiêu thụ đặc biệt (kinh doanh vàng mã; vũ trường,
karaoke, massage )
4.2. Ngân sách cấp thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, quận
* Các khoản thu này được giữ lại 100%.
- Thu ngoài quốc doanh: Đó là các khoản thu từ thuế và lệ phí đối với
các công ty, doanh nghiệp, các tiểu thương, tiểu chủ không thuộc sở hữu Nhà
nước.
- Thuế môn bài: Không gồm thuế môn bài thu từ các hộ gia đình, các
nhà kinh doanh nhỏ ở thị trấn, xã.
- Thuế sát sinh: Thu từ các doanh nghiệp giết mổ gia súc trên địa bàn.
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
14
- Lệ phí từ các hoạt động do các cơ quan thuộc quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh quản lý.
- Thu kết dư ngân sách cấp thành phố: Đó là những khoản chi còn dư
được tổng kết vào cuối năm.

- Bổ sung từ ngân sách tỉnh: Là những khoản trợ cấp ngân sách tỉnh cho
thành phố, thị xã, huyện, xã.
- Các khoản thu khác theo quy định của nhà nước: Thuế tắc nghẽn giao
thông, thuế ô nhiễm môi trường… cũng là những nguồn thu quan trọng,
đồng thời góp phần khắc phục các vấn đề về giao thông và cải thiện môi
trường.
* Các khoản thu phân chia theo tỉ lệ phần trăm giữa ngân sách tỉnh và
ngân sách thành phố thuộc tỉnh.
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất: Là chênh lệch giá của đất trong quá
trình chuyển quyền sử dụng. Thuế có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng
đất, nên người sử dụng phải cân nhắc khi chuyển quyền sử dụng đất.
- Thuế đất ở: đất xây dựng các công trình sử dụng vào các mục đích phi
nông nghiệp. Căn cứ để tính thuế là diện tích và khả năng thu nhập của các
công trình. Nếu đất đô thị chỉ để ở thì đất phụ thuộc vào vị trí từng loại phố,
tuỳ loại đô thị, thuế đất ở đô thị cao hơn thuế đất nông nghiệp từ 2 đến 32
lần. Đất ven đô, ven trục giao thông chính có mức thuế cao hơn từ 1,5 đến
2,5 lần thuế đất nông nghiệp vào loại cao nhất trong vùng.
- Tiền thuê đất: Là khoản thu điều tiết vào thu nhập do sử dụng đất
mang lại. Tiền thuê đất phải lớn hơn thuế đất một khoản bằng lợi nhuận của
người có tài sản cho thuê. Các đơn vị không được nhà nước giao đất phải đi
thuê đất để xây dựng nhà xưởng để hoạt động.
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp (cho thị trấn, xã tối là 20%): Thực hiện
điều tiết đối với đất được sử dụng vào sản xuất nông nhiệp. Căn cứ để tính
thuế là diện tích và chất lượng kinh tế đất. Thuế suất được tính bằng kg
thóc/sào/năm. Thực tế thường quy đổi thành tiền để đơn giản khâu thu nộp.
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
15
- Tiền sử dụng đất: Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sủ dụng
ổn định lâu dài, người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước.
- Thuế tài nguyên: Đánh vào các chủ thể sử dụng tài nguyên khoáng sản

hoặc người trực tiếp khai thác.
- Lệ phí trước bạ nhà đất: Là khoản tiền mà người mua đất hoăc mua
nhà phải nộp thay người bán cho chi cục thuế.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt kinh doanh hàng mã, vũ trường, karaoke,
massage….
- Nguồn thu từ hàng hoá công cộng.
Chính quyền địa phương có nhiệm vụ cung cấp một số hàng hoá dịch
vụ, dịnh vụ giao thông, bảo vệ của cảnh sát, phòng cháy chữa cháy, công
viên và thoát nước… Tuy nhiên trong một số các điều kiện nhất định thì việc
cung cấp hàng hoá của chính quyền địa phương đạt hiệu quả cao.
Nói chung nguồn thu từ hàng hoá công cộng là rất ít vì nó mang tính
chất phục vụ cho tầng lớp nhân dân. Người dân sử dụng các hàng hoá công
cộng đó họ phải trả tiền thông qua các dịch vụ.
• Các loại lệ phí:
+ Lệ phí giao thông
+ Lệ phí cấp giấy phép xây dựng
+ Lệ phí xử phạt hành chính
+ Lệ phí lưu trú đô thị
+ Lệ phí khác: Phòng cháy chữa cháy, sử dụng bến
bãi, lề đường, quảng cáo công chứng, vệ sinh môi
trường
* Trợ cấp của Chính phủ
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
16
Trợ cấp của chính phủ cho các công trình của địa phương như trợ cấp
giáo dục, phúc lợi xã hội, nhà ở và phương tiện công cộng, đường giao
thông, bệnh viện, y tế… là những nguồn tài chính quan trọng cho đô thị.
* Nguồn thu ngân sách từ trong nhân dân
Nguồn thu từ trong nhân dân có vai trò cũng rất quan trọng cho sự
phát triển đô thị, huy động được lượng tiền nhàn rỗi trong nhân dân sẽ rất tốt

cho sự phát triển đô thị. Chính quyền đô thị nên tạo ra nhiều dịch vụ mới để
thu hút nhân dân tham gia và dựa trên nguyên tắc người được hưởng phải trả
tiền.
V. Nguồn thu từ nước ngoài
Đó là các khoản viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở
nước ngoài trực tiếp cho tỉnh, thành phố theo quy định của pháp luật. Vay
nước ngoài như từ nguồn vốn World Bank, IMF…Các nguồn vốn khác như
ODA, FDI thì chủ yếu đầu tư vào nông thôn, vùng miền núi kinh tế còn gặp
nhiều khó khăn.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TĂNG NGUỒN THU NGÂN SÁCH CHO SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHỐ THÀNH HÓA TRONG
GIAI ĐOẠN 2001 - 2005
I. Giới thiệu về Thành phố Thanh Hoá
Một người pháp tên là Charles Robequin viết lại những quan sát về
thành phố Thanh hoá trong một luận văn tiến sĩ của mình, ông đặc biệt tán
thưởng chất lượng các đồ gốm sành màu tím ngắt hoặc màu da lươn vàng
ươm ở Lò Chum Bến Ngự chất đầy trên các con thuyền mành và thuyền
đinh, mỗi năm có sản lượng 1.500 tấn và xuất khẩu ít nhất 270 tấn ra thị
trường Bắc Bộ.
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
17
Thành phố Thanh hoá được biết đến với chiến thắng Hàm Rồng vẻ
vang thể hiện tinh thần chiến đấu quật cường của quân dân Nam Ngạn trong
kháng chiến chống Mĩ. Bây giờ lại rất nổi tiếng bởi là nơi cung ứng hàng
trăm mặt hàng đá ốp lát có hàm lượng Silic cao với nhiều màu sắc tuyệt vời.
Thành phố nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam
Bộ. Chịu ảnh hưởng trực tiếp của địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Vị trí
địa lý trên là một lợi thế quan trọng tạo điều kiện cho phát triển Thành phố
mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh trong khu vực và trong cả nước cũng

như với nước bạn Lào.
Ngày 1/5/1994 Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập Thành
phố Thanh hoá trên cơ sở là Thị xã Thanh hoá, Địa giới bao gồm:
Phía Bắc tới núi Vôi- Xã Đông Cương
Phía Đông tới cảng Lễ Môn- Xã Quảng Hưng
Phía Nam tới Cầu Quán Nam- Xã Đông Vệ
Phía Tây tới cây số Ba- Phường Phú Sơn
Năm 2003, Thành phố có diện tích tự nhiên là 58,58 km
2
riêng
đất xây dựng đô thị là 14.926 km
2
. Có 12 phường và 6 xã. Tính đến
01/01/2003 tổng số dân toàn thành phố là 286.848 người, mật độ dân số nội
thành là 17.188 người/km
2
Khu trung tâm có các phường Ba Đình, Điện Biên, Lam Sơn, Ngọc
Trạo, Tân Sơn, Trường Thi.
Kế cận có phường Đông Sơn, Đông Vệ, Phú Sơn, Đông Thọ, Nam
Ngạn, Hàm Rồng.
Ngoại vi thành phố có các xã Đông Cương, Đông Hương, Đông Hải,
Quảng Hưng, Quảng Thành, Quảng Thắng.
Hướng phát triển của thành phố là Đông- Đông Bắc(xã Đông Cương)
và Đông- Đông Nam(xã Quảng Thành). Các xã Đông Hương, Đông Hải,
Quảng Hưng và Quảng Thắng là những quỹ đất tiềm năng rộng lớn cho các
khu đô thị mới có quy hoạch hiện đại. Thành phố có khu công nghiệp có
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
18
tổng diện tích 180 ha: khu công nghiệp Đình Hương 30 ha, khu công nghiệp
vừa và nhỏ Tây Bắc ga 50 ha, khu công nghiệp Lễ Môn 100 ha. Giá trị Sản

xuất chiếm 34,4% tổng GDP của thành phố.
II. Thực trạng tăng nguồn thu cho sự phát triển của thành phố Thanh
hoá trong giai đoạn 2001- 2005
2.2.1 Vấn đề xây dựng nguồn thu:
Đây không phải là hạn chế riêng của Thành phố Thanh hoá mà còn là
hạn chế của nhiều đô thị khác. Xây dựng nguồn thu là một phạm trù mới
trong quản lý thu ngân sách Nhà nước. Cho nên vấn đề xây dựng và nuôi
dưỡng nguồn thu chưa được các cấp chính quyền Thành phố quan tâm.
Nguồn thu ngân sách chủ yếu là nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản
thu khác. Các cán bộ quản lý chưa nhận thấy được tầm quan trọng khi tạo
nên các nguồn thu mới trên địa bàn Thành phố. Ví dụ như thất thu từ việc
không áp dụng thu thuế xây dựng nhà ở mà chỉ thu lệ phí cấp giấy phép xây
dựng. Mà vô tình làm mất hàng chục tỷ đồng vào ngân sách Nhà nước.
Các nguồn thu thường xuyên hàng năm không thể thay đổi được mà
chính quyền các cấp thực hiện công tác thu tốt hơn, ngày một có hiệu quả
hơn. Chính quyền thực hiện còn nhiều khó khăn như phụ thuộc vào quyết
định của lãnh đạo tỉnh, theo đúng pháp luật hiện hành. Có một ví dụ về việc
tạo thêm nguồn thu ngân sách của thành phố trong năm 2003-2004: Xã
Quảng Thành năm 2003 lập quy hoạch một khu dân cư 50 lô đất, xã tiến
hành đầu tư xây dựng hạ tầng đền bù giải phóng mặt bằng trước khi đấu giá
đất. Năm 2004 thành phố thực hiện việc đấu giá đất, mỗi lô có giá trị gần
200 triệu đồng. Như vậy tổng thu là 50 tỷ đồng nếu được thực hiện thành
công. Tài chính thành phố quy định số tiền này nộp vào Kho bạc Nhà nước
để thu vào ngân sách thành phố 100% và yêu cầu xã giải trình để xin lại các
chi phí đã bỏ ra. Quá trình giải quyết kéo dài nên quyền lợi của xã không
được đảm bảo. Xã dừng việc thực hiện khu dân cư thứ hai lại. Xã Quảng
Hưng bên cạnh biết như thế cũng dừng hạ tầng khu dân cư của mình lại.
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
19
Như vậy nguồn thu kia đã vô tình bị mất do không thực hiện được dự án.

Việc làm ấu trĩ về hạch toán và phân chi quyền lợi, chi phí về đất sử dụng
nguyên thuỷ, quyền lợi về đất xã được bao nhiêu phần trăm. Bởi vậy việc
làm của chính quyền thành phố vừa làm mất tiền vừa làm mất lòng tin của
nhân dân của chính quyền thành phố.
2.2.2 Thực trạng thực hiện thu ngân sách
Năm 2001 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ
thành phố lần thứ 14 nhiệm kỳ 2001-2005. Là năm tạo tiền đề cho xây dựng
kế hoạch 5 năm 2001-2005.
Trong năm qua UBND thành phố đã tích cực chỉ đạo công tác thu trên
địa bàn và đạt được những kết quả khả quan, cụ thể:
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
20
Đơn vị: 1000đ
ST
T Chỉ tiêu thu Dự toán
tỉnh giao
Thành
phố
thực hiện
%
thực hiện/
dự toán
1 Thuế CTN ngoài quốc doanh 1.7300.000 1.7546.000 101
2 Thuế nông nghiệp 1.050.000 501.000 47
3 Thuế trước bạ nhà đất 750.000 2.741.900 365
4 Thuế nhà đất 1.800.000 2.001.700 111
5 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 2.000.000 3.742.800 187
6 Tiền sử dụng đất 8.000.000 8.524.400 106
7 Tiền thuê đất 100.000 102.100 102
8 Phí, lệ phí 900.000 1.105.800 123

9 Thu khác ngân sách 600.000 314.300 52
10 Thu đóng góp 5.241.500
11 Thu sự nghiệp 245.700
12 Các khoản phụ thu 300.000
13 Trợ cấp ngân sách 9.547.500
14 Tổng 32.500.000 51.644.700
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2001)
Tổng thu ngân sách năm 2001 đạt 51.644.700 (1000đ) bằng 113 % so
với cùng kỳ. Các khoản thu thành phố thực hiện đều đạt và vượt chỉ tiêu là
thuế CTN ngoài quốc doanh, thuế trước bạ nhà đất, thuế nhà đất, thuế
chuyển quyền sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, trong đó thuế
trước bạ nhà đất là cao nhất 365%. Chỉ có thuế nông nghiệp không đạt dự
toán tỉnh giao(47%). Nguyên nhân là do thành phố có chính sách giảm, miễn
thuế nông nghiệp cho các hộ nông dân có hoàn cảnh khó khăn và hiện tại tỷ
trọng lao động trong nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần (4%). Tuy
nhiên bên cạnh những kết quả đó còn tồn tại nhiều khó khăn: Thành phố có
khoảng 3.000 hộ kinh doanh vừa và nhỏ, 167 doanh nghiệp tư nhân nhưng
vẫn còn tình trạng trốn thuế, nợ đọng thuế, quản lý các nguồn thu để xác
định doanh thu thuế ở một số mặt hàng không đúng gây thất thu cho ngân
sách. Nguồn thu từ đất thấp, một phần là do thành phố chưa duyệt quy hoạch
chi tiết sử dụng đất thành phố các khu chung cư trên địa bàn phường Đông
Thọ, Điện Biên, các khu đô thị trong tương lai ở xã Đông Hải, Quảng Hưng.
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
21
Tại kỳ họp thứ 8 Hội Đồng Nhân Dân Thành phố khoá 18 đã có nghị
quyết phấn đấu thực hiện dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2002, thành
phố đã tổ chức thực hiện thu ngân sách đạt được những kết quả sau:
Đơn vị: 1000đ
STT
Chỉ tiêu thu Dự toán tỉnh

giao
Thành
phố
thực hiện
%
thực hiện/
dự toán
1 Thuế CTN ngoài quốc doanh 19.800.000 20.331.800 103
2 Thuế nông nghiệp 400.000 628.600 157
3 Thuế trước bạ nhà đất 2.800.000 2.961.200 106
4 Thuế nhà đất 1.750.000 1.900.600 108
5 Thuế chuyển quyền sử dụng
đất
3.700.000 2.702.600 73
6 Tiền sử dụng đất 13.000.000 16.251.800 125
7 Tiền thuê đất 36.000 105.000 291
8 Phí, lệ phí 1.400.000 1.033.700 74
9 Thu khác ngân sách 735.000 515.100 70
10 Thu đóng góp 3.375.700
11 Thu sự nghiệp 330.000
12 Các khoản phụ thu 0
13 Trợ cấp ngân sách 5.200.500
14 Tổng 43.621.000 55.336.900
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2002)
Tổng thu ngân sách đạt 55.336.900(1000đ) bằng 107% so với cùng
kỳ. Như vậy nguồn thu năm 2002 đạt chỉ tiêu dự toán tỉnh giao nhưng tổng
thu tăng không đáng kể (7%). Các chủ tiêu thuế CTN ngoài quốc doanh, thuế
sử dụng đất nông nghiệp, thuế trước bạ nhà đất, thuế nhà đất, tiền sử dụng
đất, tiền thuê đất đều đạt chỉ tiêu. Nguyên nhân là do thành phố duyệt quy
hoạch chi tiết các khu chung cư và quy hoạch phát trển thành phố đến năm

2010. Chi cục thuế kết hợp tốt với các ban ngành liên quan như chi cục quản
lý thị trường, phòng tài chính thực hiện thu và xử phạt hành chính đối với
các đối tượng trốn thuế,gian lậu thuế, kinh doanh, buôn bán trên các phường
trung tâm. Các ngành chức năng ở cấp phường xã đã rà soát hầu hết các đối
tượng phải nộp thuế, đưa vào sổ bộ quản lý, đã bước đầu điều chỉnh doanh
thu tính thuế sát và đúng. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng đọng thuế xác định
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
22
doanh thu các hộ kinh doanh vẫn còn sai sót, còn thất thu ở các lĩnh vực kinh
doanh anư uống buổi sáng, tối, hộ kinh doanh vận tải, hoạt động buôn
chuyến, xây dựng cơ bản tư nhân…
Thuế chuyển quyền sử dụng đất, phí, lệ phí, thu khác ngân sách không
đạt dự toán ngân sách là do các cấp các ngành liên quan chưa phối kết hợp
thường xuyên và có hiệu lực trong việc nắm bắt quản lý và thu thuế đối với
các hộ mua bán nhà ở trên địa bàn. Công tác thu phí gặp nhiều khó khăn do,
mức thu của nhà nước quy định giảm. Mặt khác trong thời gian qua tỉnh có
chính sách cho các đơn vị kinh doanh nhà đất được nộp chậm tiền cấp quyền
sử dụng đất một số dự án lớn như khu công nghiệp Tây Bắc ga, khu Bệnh
viện Hợp Lực.
Nguồn thu ngân sách năm 2003 đạt kết quả như sau:
Đơn vị: 1000đ
Số
thứ
tự
Chỉ tiêu thu Dự toán
tỉnh giao
Thành
phố
thực hiện
%

thực
hiện/ dự
toán
1 Thuế CTN ngoài quốc doanh 25.700.000 25.650.000 100
2 Thuế nông nghiệp 20.000 52.100 13
3 Thuế trước bạ nhà đất 3.000.000 5.077.200 149
4 Thuế nhà đất 1.900.000 2.243.500 112
5 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 3.500.000 6.140.200 157
6 Tiền sử dụng đất 25.000.000 83.483.000 334
7 Tiền thuê đất 70.000 516.800 345
8 Phí, lệ phí 1.000.000 1.857.200 169
9 Thu khác ngân sách 500.000 453.000 91
10 Thu đóng góp 2.364.000
11 Thu sự nghiệp 620.300
12 Các khoản phụ thu 0
13 Trợ cấp ngân sách 726.600
14 Tổng 60.690.000 129.183.900
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2003)
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
23
Tổng thu ngân sách đạt 129.183.900 bằng 233,5% (tăng 126,5%) so
với cùng kỳ. So với năm 2002 thì năm 2003 tổng thu ngân sách có sự tăng
trưởng vượt bậc. Tại sao lại đạt được kết quả cao như vậy? Nhìn vào bảng ta
thấy năm nay do có sự tăng trưởng vượt bậc của tiền sử dụng đất là 83.483
triệu đồng đạt 334% thành phố thục hiện/ dự toán tỉnh giao. Tăng 513,7% so
với cùng kỳ. Tiền sử dụng đất cao như vậy là do thành phố thực hiện quy
hoạch chi tiết sử dụng đất thành phố các khu chung cư trên địa bàn phường
Đông Thọ, Điện Biên, các khu đô thị trong tương lai ở xã Đông Hải, Quảng
Hưng. Thu tiền đơn vị kinh doanh nhà đất dự án lớn như khu công nghiệp
Tây Bắc ga, khu Bệnh viện Hợp Lực. Người dân mua nhiều đất để xây dựng

nên đẩy giá đất lên cao. Tuy nhiên đây là sự tăng tưởng tạm thời không bền
vững vì giá đất tăng cao rồi thì sẽ dừng lại và giảm xuống. Tồn tại trong
công tác thu thuế là chưa quản lý hết các đối tượng sản xuất kinh doanh, dịch
vụ trên địa bàn, doanh thu tính thuế phần lớn chưa được xác định sát đúng
thực tế, công tác quản lý hộ nộp thuế kê khai chưa có chuyển biến so với
năm 2002. Việc ghi chép trên sổ sách kế toán đối với nhiều hộ kinh doanh
chỉ là hình thức đối phó với cơ quan thuế. Thu chưa được gọn bộ thuế, tình
trạng dây dưa nợ đọng thuế vẫn còn tồn tại. Tình trạng bán hàng không xuất
đủ hoá đơn, ghi không đúng giá bán trên hoá đơn, kê khai không đủ doanh
thu thực tế tuy có giảm nhưng vẫn chưa được ngăn chặn, do vậy thuế GTGT
còn thất thu.
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
24
Nguồn thu thành phố thực hiện năm 2004 như sau:
Đơn vị: 1000đ
Số
thứ
tự
Chỉ tiêu thu Dự toán
tỉnh giao
Thành
phố
thực hiện
%
thực
hiện/ dự
toán
1 Thuế CTN ngoài quốc doanh 34.400.000 39.500.000 126
2 Thuế nông nghiệp 40.000 33.900 85
3 Thuế trước bạ nhà đất 4.850.000 4.293.000 89

4 Thuế nhà đất 2.100.000 2.669.000 127
5 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 5.600.000 9.828.000 175
6 Tiền sử dụng đất 85.000.000 67.367.000 79
7 Tiền thuê đất 40.000 3.720.000 9.300
8 Phí, lệ phí 1.050.000 2.178.000 207
9 Thu khác ngân sách 530.000 995.100 95
10 Thu đóng góp 1.335.600
11 Thu sự nghiệp 400.000
12 Các khoản phụ thu 0
13 Trợ cấp ngân sách 30384000
14 Tổng 130.610.000 162.704.200
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2004)
Thu ngân sách Nhà nước năm 2004 thực hiện đạt dự toán tỉnh giao.
Các chỉ tiêu thu vượt dự toán tỉnh giao là thuế CTN ngoài quốc doanh, thuế
nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, tiền thuê đất, phí, lệ phí. Trong đó
tiền thuê đất vượt dự toán (9.300%) cao nhất trong các chỉ tiêu. Các chỉ tiêu
thu không đạt dự toán là thuế nông nghiệp, thuế trước bạ nhà đất, tiền sử
dụng đất, thu khác ngân sách. Công tác thu thuế còn nhiều tồn tại, thu hộ cá
thể trực tiếp năm 2004 vẫn chưa quản lý hết diện hộ có sản xuất kinh doanh,
số hộ nộp thuế theo kê khai nhưng vẫn phải thực hiện biện pháp ấn định thuế
hàng tháng, vẫn còn hộ dây dưa, nợ đọng thuế
Nguyên nhân là do năm nay từ thành phố đến các địa phương tập
trung cho công tác bầu cử HĐND các cấp và kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ,
10 năm thành lập và phát triển thành phố nên một phần cũng ảnh hưởng đến
việc tập trung thường xuyên cho công tác thu ngân sách Nhà nước. Trong
năm qua do chủ trương về quy hoạh đất ở tại các mặt bằng và khu đô thị đầu
Khoa Kinh tế môi trường & Đô thị
25

×