Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Luận văn : Công tác quản lý tài tính Bảo hiểm Xã hội Việt Nam - ĐH Kinh tế Quốc dân - 2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.35 KB, 10 trang )

- Trợ cấp tàn tật.
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Các thành viên tham gia Công ước phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9 chế độ nói
trên, trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây:
- Trợ cấp tuổi già.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Trợ cấp tàn tật.
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ sở điều kiện
kinh tế, thu nhập, tiền lương, Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà còn phải tính đến
các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh dưỡng, để quy định các
mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng và đối tượng hưởng cho hợp lí. Các chế
độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên
tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kì.
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có
hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kì để phản ánh hết sự thay
đổi của điều kiện kinh tế -xã hội.
6. Quỹ BHXH và phân loại quỹ BHXH.
6.1. Quỹ BHXH.
Như chúng ta đã tìm hiểu trong phần 1 ở trên thì sự ra đời của quỹ BHXH là một
bước ngoặt lớn đối với ngành BHXH trên toàn thế giới. Quỹ BHXH là một quỹ tài
chính độc lập, tập chung nằm ngoài NSNN và được hình thành từ các nguồn sau


đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp,
- Người lao động đóng góp,
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm,
- Các nguồn khác (như cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi từ các hoạt
động đầu tư quỹ nhàn rỗi).
Trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả
người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này
không phải sự chia sẻ rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Sự đóng góp một phần quỹ
của người sử dụng lao động cho người lao động sẽ tránh được những thiệt hại kinh
tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà
mình thuê mướn. Đồng thời, nó còn góp phần giảm bớt mâu thuẫn, kiến tạo mối
quan hệ tốt đẹp giữa chủ- thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp của họ vừa thể
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hiện sự tự gánh chịu chính những rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc
nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu
trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia
BHXH có khác nhau tuỳ thuộc quy định của mỗi nước. Hiện nay mức đóng góp
BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan
điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ
lương cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, phải căn cứ vào
mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, mỗi nước
lại có những quy định khác nhau. Một số nước quy định người sử dụng lao động
phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và
trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động
cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Trong đó, một số nước khác lại quy
định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi quản lí BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả chủ yếu cho hai mục đích sau: thứ nhất là chi

trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH như đã nêu ở mục 5, còn lại là chi trả cho chi
phí sự nghiệp quản lí BHXH. Trong hai khoản chi đó thì khoản chi thứ nhất là
quan trọng và chiếm phần lớn trong quỹ BHXH. Các khoản trợ cấp này cũng được
quy định về mức trợ cấp và thời gian hưởng một cách cụ thể và có sự khác biệt đối
với từng chế độ. Tại những nước khác nhau thì các khoản trợ cấp này cũng được
quy định khác nhau.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
6.2. Phân loại quỹ BHXH:
Tuỳ theo mục đích và cách tổ chức của những hệ thống BHXH trên thế giới mà
quỹ BHXH được phân loại khác nhau:
- Phân loại theo các chế độ bao gồm: Quỹ hưu trí, tử tuất; Quỹ tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp; Quỹ thất nghiệp; Quỹ ốm đau thai sản.
- Phân loại theo tính chất sử dụng bao gồm: Quỹ ngắn hạn để chi trả cho các
chế độ ngắn hạn như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm mất khả năng lao động
tạm thời; Quỹ dài hạn để chi trả trợ cấp cho các chế độ như hưu trí, tử tuất.
- Phân loại theo đối tượng tham gia bao gồm: Quỹ cho công chức Nhà nước,
quỹ cho lực lượng vũ trang, quỹ cho lao động trong các doanh nghiệp, quỹ cho các
đối tượng còn lại.
Việc phân loại quỹ như trên cần được thực hiện và cân nhắc tránh những tình trạng
phân nhỏ quỹ dễ gây ra tình trạng mất tập trung, không có sự bổ xung và hỗ trợ lẫn
nhau. Việc phân chia quỹ không hợp lí sẽ dẫn tới những ảnh hưởng xấu đến việc
chi trả cho các đối tượng, đặc biệt là vấn đề quản lí quỹ một cách hợp lí. Dựa trên
các cách tổ chức thực hiện các chế độ mà mỗi nước lại có những quy định khác
nhau về các quỹ thành phần. Các quỹ thành phần phải thực sự phù hợp với hệ
thống BHXH đó.
II. Quản lí tài chính BHXH.
1. Khái niệm chung về quản lí tài chính BHXH.
Trước tiên chúng ta cần hiểu khái niệm về quản lí. Quản lí là những hoạt động
nhằm tác động một cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí vào một
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

đối tượng quản lí nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con
người từ đó có thể duy trì được tính ổn định của đối tượng. Đối tượng của quản lí
ở đây là tài chính BHXH, tài chính BHXH là một thuật ngữ thuộc phạm trù tài
chính chỉ một mắt khâu tài chính tồn tại độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia.
Tài chính BHXH tham gia vào quá trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính
nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro từ đó
đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, nhìn rộng ra thì quản lí
tài chính BHXH là việc sử dụng tài chính BHXH như một công cụ quản lí xã hội
của Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động tài chính BHXH để thực hiện mục
tiêu quản lí xã hội đó là đảm bảo ổn định cuộc sống cho nhân dân trước những rủi
ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hay khi về già, giúp người lao động yên
tâm lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. BHXH thể hiện tính
ưu việt của mỗi quốc gia, mỗi thể chế xã hội . Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lí
tài chính BHXH là quản lí thu chi BHXH. Như vậy quản lí tài chính BHXH chủ
yếu liên quan tới việc làm thế nào để hoạt động thu chi quỹ BHXH được thực hiện
một cách bình thường trước những biến động của môi trường. Biến động ở đây là
những biến động về đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, biến động của môi
trường sống, môi trường kinh tế , những biến động tác động trực tiếp đến đời
sống của người lao động, đến việc thu chi quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự đầu tư
tăng trưởng quỹ BHXH. Nội dung của quản lí tài chính BHXH chủ yếu là sự lựa
chọn và xác định các chính sách, chế độ, quy chế về tài chính BHXH một cách
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hợp lí và lấy đó làm căn cứ để ra quyết định cụ thể của thu chi BHXH thực hiện
mục tiêu của Nhà nước đặt ra.
Khi thực hiện quản lí tài chính BHXH cần chú ý hai nguyên tắc chủ yếu sau:
- Quá trình quản lí tài chính BHXH phải luôn được tính toán, so sánh và cân
đối trong trạng thái động: Bởi vì lượng tiền mặt của quỹ biến động theo từng chế
độ trợ cấp BHXH khác nhau, lượng lao động biến động một cách thường xuyên
nên trong quản lí, đặc biệt là khâu lập kế hoạch phải chú trọng tới vấn đề này. Đây
cũng là một đặc thù trong ngành Bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng vì tính

đảo ngược chu kì kinh doanh tức là thu phí trước chi trả cho các chế độ sau. Tuy
có sự hỗ trợ của NSNN, song quản lí tài chính BHXH phải góp phần giảm gánh
nặng cho NSNN và vẫn thực hiện chính sách xã hội này một cách tốt nhất.
- Quỹ BHXH phải được bảo tồn và phát triển: Như trên đã đề cập thì ngành
Bảo hiểm có đặc thù thu phí trước, chi trả sau, thời gian đóng và thời gian hưởng
có thể kéo dài, đồng tiền có giá trị về mặt thời gian. Do vậy cần đầu tư để bảo tồn
và tăng trưởng quỹ một cách hợp lí. Để đảm bảo nguyên tắc này cơ quan BHXH
phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu chi và quản lí quỹ thực hiện đầu
tư phần quỹ nhàn rỗi một cách có hiệu quả và tuân thủ các nguyên tắc sau:
+An toàn: Mục đích của quỹ là bảo đảm chi trả lương hưu và các trợ cấp BHXH
cho người lao động. Vì vậy, quỹ dù có đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải đảm bảo
an toàn cho khoản đầu tư đó. Đảm bảo an toàn là không chỉ bảo toàn vốn đầu tư về
danh nghĩa, mà còn là bảo toàn về cả giá trị thực tế, điều này càng có ý nghĩa quan
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trọng trong thời kì lạm phát. Nói cách khác thì đầu tư quỹ phải lựa chọn lĩnh vực
để giảm thiểu rủi ro.
+ Hiệu quả: Đây là mục tiêu của việc đầu tư tăng trưởng quỹ do vậy nguyên tắc
này rất quan trọng và phải được đi liền với nguyên tắc thứ nhất. Lãi đầu tư không
chỉ góp phần đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản chi mà còn góp phần
cho phép hạ tỉ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động.
+ Khả năng thanh toán (tính lưu chuyển của vốn): Đây cũng là yêu cầu đặc thù của
nghành do các khoản chi trả là phát sinh sau và kéo dài nên các khoản đầu tư phải
đảm bảo tính thanh khoản để dễ dàng chi trả cho các đối tượng kịp thời. Đặc biệt
tránh những khoản đầu tư dễ vướng vào những vấn đề tồn khoản. Các hình thức
đầu tư dễ thanh khoản và an toàn thường được ưu tiên thực hiện trước.
+ Có lợi ích kinh tế, xã hội: Là một quỹ tài chính để thực hiện chính sách xã hội,
do đó trong quá trình đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi cho người dân,
phải ra sức cải thiện chất lượng chung cho đời sống dân cư của đất nước. Các hình
thức, hạng mục đầu tư phải đặt vấn đề hiệu quả kinh tế xã hội lên hàng đầu. Hoạt
động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH khác với các hoạt động đầu tư khác với mục

tiêu lợi nhuận làm đầu vì BHXH chính là một chính sách quan trọng trong hệ
thống An sinh xã hội của mỗi nước.
2. Nội dung quản lí tài chính BHXH.
Nhìn chung, quản lí tài chính BHXH bao gồm bốn nội dung cơ bản sau:
- Quản lí thu BHXH.
- Quản lí chi BHXH.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
- Quản lí cân đối quỹ BHXH.
2.1. Quản lí thu BHXH.
Quản lí thu giữ vai trò quan trọng và quyết định đến sự thành công của quá trình
thu BHXH, từ đó quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để đảm bảo cho việc chi
trả cho các chế độ trợ cấp. Trước tiên chúng ta phải nắm được nội dung thu gồm
hai khoản thu từ người lao động và người sử dụng lao động. Đây là khoản thu lớn
nhất và đóng vai trò quan trọng, quyết định. Các khoản thu khác như: thu từ các
quỹ của các tổ chức, cá nhân từ thiện hay sự hỗ trợ của NSNN là nhỏ, NSNN chỉ
bù đắp cho những trường hợp cần thiết. Hơn nữa đây là khoản thu mà tổ chức
BHXH cũng không thể tự điều chỉnh được vì nó mang tính thụ động. Do vậy mà
công tác quản lí thu chỉ tập chung vào nguồn thu từ hai đối tượng chính người lao
động và người sử dụng lao động. Nội dung của quản lí thu lại tập chung vào ba đối
tượng chính sau đây:
Quản lí đối tượng tham gia BHXH: Đây là việc đầu tiên mà mỗi tổ chức BHXH
khi thực hiện quan tâm đến, thường các đối tượng này được quy định rõ trong các
văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hơn thế nữa BHXH cũng hoạt động
trên nguyên tắc san sẻ rủi ro và tuân theo quy luật số đông bù số ít nên việc tham
gia đầy đủ của các đối tượng tham gia BHXH là việc rất quan trọng. Quản lí đối
tượng tham gia cần thực hiện các công việc sau:
+ Quản lí số lượng đăng kí tham gia BHXH.
+ Quản lí đối tượng bắt buộc tham gia BHXH theo quy định.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

+ Quản lí công tác cấp sổ BHXH: Vì đây là căn cứ xác định quá trình đóng góp,
ngành nghề lao động, thời gian lao động, tên người lao động và một số thông tin
khác.
Quản lí quỹ lương của các doanh nghiệp: Theo những quy định hiện hành như
ngày nay thì phí thu BHXH thường được tính theo phần trăm tổng quỹ lương của
doanh nghiệp và tiền lương tháng của người lao động nên quỹ lương còn là cơ sở
để quản lí thu một cách thuận lợi. Dựa trên quỹ lương của doanh nghiệp BHXH có
thể đảm bảo thu đúng, thu đủ và hạn chế được tình trạng gian lận trốn đóng
BHXH. Bên cạnh đó chính các doanh nghiệp trở thành những “đại lí” thực hiện
thu và chi trả trực tiếp cho một vài chế độ là thực sự thuận lợi cho công tác thu phí
nói riêng và công tác thực hiện các chế độ BHXH nói chung.
Quản lí tiền thu BHXH: Các đơn vị, doanh nghiệp sẽ thực hiện nộp phí thông qua
tài khoản của BHXH. Do vậy, BHXH khó nắm bắt được tình hình thu. Để đảm
bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời cần có những quy định rõ ràng về thời gian nộp, hệ
thống tài khoản thu nộp phải thuận lợi và an toàn cho việc nộp. Việc nắm bắt tình
hình thu BHXH giúp quản lí quỹ dễ dàng, kịp thời điều chỉnh và đảm bảo cho
công tác chi trả được thực hiện một cách tốt nhất. Trong nội dung quản lí thu
BHXH, tất cả các đóng góp BHXH sẽ được quản lí chung một cách thống nhất,
dân chủ, công khai trong toàn hệ thống.
2.2. Quản lí chi BHXH.
Các khoản chi BHXH bao gồm các khoản chi cho các chế độ, chi quản lí và chi
khác. Trong đó có thể nói hai khoản chi đầu là rất lớn đặc biệt là chi cho các chế
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
độ, hơn nữa khoản chi này chính là thể hiện sự bảo đảm cuộc sống của chính sách
BHXH. Vì vậy nhắc đến quản lí chi là nhắc đến hai nội dung chính sau:
Quản lí hoạt động chi trả cho các chế độ: Mục tiêu của hoạt động quản lí chi
không với mục đích giảm khoản chi này một cách lớn nhất có thể mà quản lí để
tránh tình trạng chi sai chế độ hoặc chi không đúng đối tượng vừa tránh lãng phí
lại đảm bảo công bằng cho các đối tượng tham gia BHXH. Do vậy, để đảm bảo
chi trả trợ cấp đúng chế độ, đúng đối tượng, kịp thời cần có phương thức chi hợp

lí, tổ chức thực hiện chi trả cho các chế độ thuận lợi, dễ dàng. Cũng như quản lí
hoạt động thu trước tiên chúng ta phải quản lí những đối tượng được hưởng các
chế độ BHXH. Đối tượng có thể hưởng các chế độ chính là bản thân người lao
động hoặc người thân trong gia đình họ. Đối tượng được hưởng các chế độ trợ cấp
là những người lao động tham gia đóng phí BHXH và gặp phải những rủi ro làm
mất hoặc giảm khả năng lao động dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập của họ. Các
điều kiện hưởng được quy định cụ thể trong các văn bản, thường thì mức trợ cấp,
loại trợ cấp và thời gian trợ cấp thì phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng
góp, mức độ hay tỉ lệ thương tật, và chính biến cố mà người lao động gặp phải.
BHXH Việt Nam muốn quản lí tốt cần có những văn bản quy định rõ ràng và hợp
lí về các điều kiện hưởng của các loại chế độ, dựa trên cơ sở đó để xử lí các trường
hợp cho công bằng. Đối tượng hưởng cần được xem xét và kiểm tra nhằm tránh
tình trạng chi sai hoặc chi không hợp lí. Quản lí chi cho các chế độ cũng cần được
phân loại và phân cấp quản lí để dễ quản lí và thực hiện chi trả cho thuận tiện.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×