Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tóm tắt luân án tiến sĩ pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.26 KB, 26 trang )

Viện hn LM Khoa học x hội Việt Namã
Học viện khoa học xã hội
Nguyễn Quang V
PHP LUT V DOANH NGHIP CUNG NG
HNG HO, DCH V CễNG - THC TRNG
V GII PHP HON THIN
Chuyờn ngnh : Lut Kinh t
Mó s : 62.38.50.01
Tóm tắt luận án tiến sĩ luật học
Hà Nội - 2013
Công trình đợc hoàn thành tại
Học viện Khoa học Xã hội - Vin hn lõm Khoa học Xã hội Việt Nam
Ngời hớng dẫn khoa học:
1- PGS. TS. Nguyn Nh Phỏt
2- PGS. TS. Lờ Th Chõu
Phản biện 1: GS. TS. Lê Hồng Hạnh
Phản biện 2: PGS. TS. Nguyễn Quang Tuyến
Phản biện 3: PGS.TS. Đinh Văn Thanh
Luận án sẽ đợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Khoa học Xã hội
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2013
Có thể tìm hiểu luận án tại Th viện Quốc gia và
Học viện Khoa học Xã hội - Viện hn lõm Khoa học Xã hội Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Ở Việt Nam trong những năm qua, yêu cầu phát triển đang đặt ra
cho các nhà quản lý, nhà khoa học và toàn xã hội đổi mới cách tiếp cận,
tìm kiếm mô hình tiến bộ và phù hợp cho hoạt động cung ứng hàng hoá,
dịch vụ công.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ XI khẳng định “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ


nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước…”
1
; và tiếp tục “xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế”
2
. Vai trò của hàng hoá, dịch vụ công càng có ý nghĩa trước
yêu cầu mới, đảm bảo thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh; xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh". Trên cơ sở Luật Doanh nghiệp Nhà
nước 1995, Nghị định 56/CP ngày 2 - 10 - 1996 của Chính phủ quy
định chi tiết tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hoạt
động công ích được ban hành, cụ thể hoá những vấn đề liên quan đến
doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Luật Doanh nghiệp Nhà
nước 2003 tiếp tục phân biệt hai loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp
nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động
công ích), tạo điều kiện cho loại hình doanh nghiệp cung ứng hàng hoá,
dịch vụ công được chính thức ghi nhận trong các văn bản pháp luật.
Qua quá trình thực hiện pháp luật về doanh nghiệp, thực tiễn đã
chứng minh rằng: Đã đến lúc đất nước ta cần phải có một đạo luật thống
nhất qui định các loại doanh nghiệp không phân biệt của Nhà nước hay
1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr 11.
2
Sđd, tr 75.
1
tư nhân ; đặc biệt là quy định rõ hơn về "doanh nghiệp có sản xuất,
cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích"
3

và "doanh nghiệp phục vụ quốc
phòng, an ninh"
4
. Ngày 29 - 11 - 2005, Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 8
thông qua Luật Doanh nghiệp quy định về tổ chức, hoạt động, quyền và
nghĩa vụ của các loại hình doanh nghiệp.
Tuy nhiên, pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ
công ở nước ta vẫn tồn tại nhiều hạn chế. “Hệ thống thể chế, pháp luật,
nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn
nhiều bất cập, vướng mắc. Chức năng nhiệm vụ của một số cơ quan
trong hệ thống hành chính nhà nước chưa đủ rõ, còn trùng lặp và chưa
bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước”
5
. “Thể chế luật pháp về quản
lý tài chính công tuy có nhiều đổi mới nhưng còn bất cập. Thủ tục hành
chính còn nhiều vướng mắc, gây phiền hà cho tổ chức và công dân”
6
.
Để từng bước giải quyết những vướng mắc đó, cần “đẩy mạnh
vững chắc việc sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước và xã hội hoá một số loại hình dịch vụ công
cộng”
7
đang là chủ trương và giải pháp lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X,
Đảng ta chỉ rõ: Thực hiện cơ chế tổ chức hoạt động đối với các đơn vị
sự nghiệp dịch vụ công theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực
hiện hạch toán thu - chi không vì lợi nhuận tối đa và nhà nước không
bao cấp bình quân. Cải cách tài chính công phục vụ cho chủ trương đẩy
mạnh xã hội hoá trong các ngành ; phát huy trách nhiệm và tính sáng

3
Xem Điều 10 Luật Doanh nghiệp 2005.
4
Xem Điều 167 Luật Doanh nghiệp 2005.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá X, tr 1,
(Xem trên Internet, trang Cải cách hành chính tỉnh Đồng Nai).
6
Sđđ, tr 1.
7
Sđđ, tr 6.
2
tạo, chủ động của các đơn vị này nhằm cung cấp các dịch vụ công ngày
càng có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nhân dân
8
.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có nhiều hoạt động và công
trình nghiên cứu có liên quan đến doanh nghiệp cung ứng hàng hoá,
dịch vụ công nhưng hầu hết vẫn còn dừng lại ở mức độ đơn lẻ, chưa
nghiên cứu một cách tổng thể, đầy đủ và triệt để. Đề tài luận án Tiến sỹ
luật học “Pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công
- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” sẽ góp phần nghiên cứu toàn
diện những vấn đề pháp luật về tổ chức, hoạt động, quyền và nghĩa vụ
và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận án nhằm:
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp
luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công.
- Tìm ra những bất cập của pháp luật hiện hành, đề xuất phương

hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng
hoá, dịch vụ công.
Từ mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
- Tổng hợp, phân tích những vấn đề lý luận về doanh nghiệp cung
ứng hàng hoá, dịch vụ công;
- Phân biệt doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công với
doanh nghiệp khác; từ đó, xây dựng cơ chế cung ứng thích hợp đối với
doanh nghiệp;
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng
hoá, dịch vụ công; phát hiện những bất cập của pháp luật trong mối
quan hệ với thực tiễn.
8
Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá
X, (xem trên Internet, trang Cải cách hành chính tỉnh Đồng Nai).
3
- Đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu là các vấn
đề sau:
- Khái niệm, đặc điểm, vai trò, tầm quan trọng… của doanh nghiệp
cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
- Thực trạng và nhu cầu của xã hội, các yếu tố tác động đến việc
cung ứng và thụ hưởng hàng hoá, dịch vụ công; từ đó đề xuất qui trình,
thứ tự ưu tiên trong việc cung ứng các loại hình hàng hoá, dịch vụ công
để tạo ra sự cân bằng, ổn định cho sự phát triển;
- Thực trạng và bất cập của pháp luật về doanh nghiệp cung ứng,
người thụ hưởng; cơ quan quản lý, điều hành; trách nhiệm của các bên
khi tham gia hoạt động cung ứng và thụ hưởng hàng hoá, dịch vụ
công…;

- Mối quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp cung ứng hàng
hoá, dịch vụ công; tìm mô hình tổ chức hiệu quả, tránh lãng phí nguồn
lực nhằm đảm bảo việc cung ứng đầy đủ, chất lượng;
- Đặc trưng của hoạt động cung ứng hàng hoá, dịch vụ công làm
căn cứ so sánh với các hoạt động trên phạm vi quốc gia và ở một số
nước trên thế giới, tìm những ưu điểm, hạn chế và đề xuất phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng
hoá, dịch vụ công ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Phương pháp này được
sử dụng trong tất cả các Chương của luận án để xem xét từng vấn đề
nghiên cứu trong mối liên hệ giữa lịch sử, lý luận, pháp lý với thực tiễn tổ
chức thực hiện.
4
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử
dụng trong tất cả các Chương của luận án, đi sâu trình bày các hiện tượng,
các quan điểm, quy định và thực tiễn thực hiện pháp luật về doanh nghiệp
cung ứng hàng hoá, dịch vụ công; rút ra bản chất của các hiện tượng, các
quan điểm, quy định và hoạt động thực tiễn.
- Phương pháp hệ thống: Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt
toàn bộ luận án nhằm trình bày nội dung theo một trình tự, bố cục hợp lý,
chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề để đạt được mục
đích, yêu cầu đã được xác định cho luận án.
- Phương pháp luật học so sánh: Phương pháp này chủ yếu được sử
dụng tại Chương 2 của luận án, được vận dụng trong việc tham khảo kinh
nghiệm quốc tế rút ra những điểm chung, điểm khác biệt giữa các quốc gia.
Ngoài ra, tại Chương 4 của luận án cũng sử dụng phương pháp này để so
sánh và rút ra các bài học kinh nghiệm và kiến nghị cho việc xây dựng,
hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công

trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp lịch sử: Phương pháp này chủ yếu được sử dụng tại
Chương 2, Chương 4 của luận án nhằm đưa ra những cứ liệu trong từng
giai đoạn lịch sử đặt trong những bối cảnh, mối quan hệ qua lại với những
yếu tố lịch sử khác. Ngoài ra, phương pháp này cũng được sử dụng tại các
Chương khác của luận án khi trình bày, phân tích và đánh giá pháp luật về
doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Với việc thực hiện mục đích và nhiệm vụ trên đây, nội dung của
luận án đạt được những ý nghĩa khoa học sau:
- Xây dựng khái niệm, đặc điểm, tiêu chí xác định và phân loại
doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công làm cơ sở lý luận đối
chiếu với pháp luật, giải quyết các vấn đề khoa học có liên quan.
5
- Với nội dung trên, luận án góp phần xây dựng phương pháp tiếp
cận và quản lý, nâng cao chất lượng cung ứng hàng hoá, dịch vụ công…
- Phân tích vai trò của nhà nước và của doanh nghiệp tham gia
việc cung ứng, sử dụng hàng hoá, dịch vụ công trong từng hoàn cảnh
lịch sử cụ thể và trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Xây dựng khái niệm khoa học pháp lý vào hệ thống lý luận về
hàng hoá, dịch vụ công và doanh nghiệp cung ứng
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về doanh
nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay, tìm ra
những điểm bất cập, chưa phù hợp;
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp làm cơ sở khoa học
cho hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cung
ứng hàng hoá, dịch vụ công ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên

cứu như đã nêu ở trên, luật án được kết cấu với những nội dung cơ bản
như sau:
Mở đầu;
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
của đề tài;
Chương 2. Lý luận về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ
công và pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
Chương 3. Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng
hoá, dịch vụ công ở Việt Nam;
Chương 4. Phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công ở Việt Nam;
Kết luận.
6
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nội dung đã được nghiên cứu
Tại chương này, luận án trình bày khái quát về tình hình nghiên
cứu những vấn đề có liên quan đến pháp luật về doanh nghiệp cung ứng
hàng hoá, dịch vụ công. Các vấn đề được luận án đề cập, hệ thống như:
- Quan niệm về hàng hoá, dịch vụ công;
- Vấn đề cung ứng hàng hoá, dịch vụ công trong nền kinh tế tập
trung, bao cấp;
- Về vai trò của Nhà nước và các chủ thể trong cung ứng hàng hoá,
dịch vụ công;
- Trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của chủ thể cung ứng hàng hoá,
dịch vụ công
- Các mô hình cung ứng hàng hoá, dịch vụ công trên thế giới;

- Về phương thức cung ứng hàng hoá, dịch vụ công điển hình, thể
hiện xu hướng phát triển hiện nay trên thế giới;
- Xã hội hóa cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
- Về tăng cường kiểm tra giám sát, áp dụng các biện pháp đảm bảo
trong cung ứng hàng hoá, dịch vụ công.
1.1.2. Một số kết quả đạt được của hoạt động nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống, phân tích các vấn đề khoa học như đã nêu ở
trên, luận án đưa ra những đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu, với
nội dung cơ bản là:
Cùng với việc tìm hiểu, phân tích, xác định khái niệm hàng hoá,
dịch vụ công, các công trình còn nêu lên những hạn chế của hoạt
8
động cung ứng trong thực tiễn. Từ việc nghiên cứu ấy, các tác giả
đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động
cung ứng hàng hoá, dịch vụ công của các doanh nghiệp;
- Phương hướng được kiến nghị nhiều nhất là "xã hội hoá" hoạt
dộng cung ứng hàng hoá, dịch vụ công theo nguyên tắc: "Nhà nước chỉ
làm những gì mà tư nhân không làm, không làm được, không được
phép làm";
- Cùng với "xã hội hoá" các công trình cũng kiến nghị nâng cao
trách nhiệm của các chủ thể cung ứng. Nhà nước không bao cấp bình
quân, không làm thay doanh nghiệp trong cung ứng hàng hoá, dịch
vụ công;
- Tăng cường kiểm tra, giám sát và áp dụng bảo vệ pháp chế,
trật tự kỷ cương trong hoạt động cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
- Bên cạnh kiến nghị chủ yếu nêu trên, các công trình nghiên cứu
cũng có đề cập đến mô hình cung ứng hàng hoá, dịch vụ công trên thế
giới mà Việt Nam có thể tham khảo, học tập, rút kinh nghiệm phục vụ
cho hoàn thiện chính sách pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng
hoá, dịch vụ công.

1.1.3. Vấn đề cần tiếp tục tập trung nghiên cứu tìm giải pháp
Cùng với những kết quả chủ yếu như đã nêu ở trên, các công
trình nghiên cứu ít nhiều còn chưa quan tâm đầy đủ, triệt để một số
vấn đề, như:
- Nghiên cứu hoạt động cung ứng hàng hoá, dịch vụ công ở đây
chủ yếu mới chỉ tiếp cận dưới góc độ kinh tế học. Dưới giác độ pháp lý,
nhiều vấn đề chưa được quan tâm, đào sâu nghiên cứu
- Việc tiếp cận, giải quyết các vấn đề của các công trình nhiều khi
bị cắt nhỏ, chưa bao quát. Mỗi công trình chủ yếu mới chỉ đề cập vấn đề
9
cụ thể, chưa tập trung cho hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công.
- Dưới giác độ pháp lý, pháp luật Việt Nam còn bỏ trống nhiều
hoạt động hoặc điều chỉnh chưa chính xác, khoa học đối với doanh
nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công; như:
+ Khái niệm về hàng hoá, dịch vụ công chưa được pháp luật thực
sự quan tâm dẫn đến khó vận dụng trong thực tiễn;
+ Chưa xác định đầy đủ, chính xác tiêu chí xác định nhóm hàng
hoá, dịch vụ công; từ đó, xây dựng chính sách pháp luật điều chỉnh phù
hợp với nhu cầu thực tiễn;
+ Mô hình tổ chức doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công
còn thiếu phù hợp với lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là trách nhiệm tài sản
của doanh nghiệp;
+ Quy định về xã hội hoá hoạt động cung ứng hàng hoá, dịch vụ
công còn chưa triệt để, thiếu tính cụ thể và chính xác ;
+ Pháp luật chưa quy định cụ thể, đầy đủ quyền và nghĩa vụ cũng
như trách nhiệm của chủ thể cung ứng;
+ Cơ chế giám sát, quy trình thực hiện quyền yêu cầu của người
thụ hưởng việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ công chưa được cụ thể hoá;
+ Trách nhiệm, thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong quản lý

doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công chưa được pháp luật đề
cao, qui định rõ.
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài
1.2.1. Câu hỏi nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả luận án xác định một
số câu hỏi nghiên cứu như:
- Doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công là gì, ý nghĩa, vai
trò của chúng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội?
10
- Ở nước ta hiện nay, pháp luật đang quy định cho các doanh nghiệp
hoạt động cung ứng hàng hoá, dịch vụ công dưới những hình thức nào?
Những ưu điểm và hạn chế của quy định đó?
- Những yêu cầu nào đặt ra cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công? Phương hướng và giải
pháp hoàn thiện?
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu:
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của đề tài luận án là lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật; khẳng định vai trò xã hội to lớn của Nhà nước trước nhân dân.
Cùng với tư tưởng nêu trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng duy vật và các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập đến việc xây dựng, hoàn thiện, đổi
mới nhà nước và pháp luật; đồng thời tiếp thu có chọn lọc lý thuyết
về cung ứng hàng hoá, dịch vụ công từ các nhà khoa học trong và
ngoài nước.
1.2.3. Các giả thuyết nghiên cứu:
- Cung ứng hàng hoá, dịch vụ công là hoạt động có tính chính trị -
pháp lý và nhân văn sâu sắc, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc ổn
định và phát triển đất nước.
- Thực tiễn cung ứng hàng hoá, dịch vụ công ở Việt Nam những

năm qua đã hình thành và phát triển mạnh nhưng còn nhiều hạn chế, chưa
được pháp luật quy định cụ thể. Do vậy, hoạt động này chưa phát huy hết
vai trò, ý nghĩa to lớn của mình.
- Muốn nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của hoạt động cung
ứng hàng hoá, dịch vụ công, cần phải đổi mới và hoàn thiện mạnh mẽ hệ
thống quy phạm pháp luật hiện hành theo hướng: Xác định cụ thể các
doanh nghiệp tham gia cung ứng hàng hoá, dịch vụ công; quyền và nghĩa
11
vụ của doanh nghiệp đó; cơ chế quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
và hoạt động của chúng
1.2.4. Về hướng tiếp cận của đề tài:
- Luận án kế thừa có chọn lọc, phân tích và bình luận các kết quả
nghiên cứu về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công đã được
công bố trên cơ sở tập hợp, hệ thống ở mức đầy đủ nhất.
- Luận án nghiên cứu các quy định về doanh nghiệp cung ứng
hàng hoá, dịch vụ công và thực tiễn hoạt động cung ứng ở nước ta từ
trước đến nay, đánh giá những thuận lợi, khó khăn cùng với những
ưu điểm, hạn chế trong lĩnh vực hoạt động này để rút ra kiến nghị.
- Trên cơ sở đặc điểm chung trong hoạt động cung ứng hàng hoá,
dịch vụ công; tổng hợp kinh nghiệm quốc tế, luận án kiến nghị nhằm tiếp
thu có chọn lọc những kinh nghiệm phù hợp góp phần hoàn thiện pháp
luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công ở nước ta.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua các nghiên cứu về hàng hoá, dịch vụ công đã công bố cho
thấy đây là một lĩnh vực phức tạp, quan trọng của các ngành khoa học
như: Kinh tế, chính trị, hành chính và luật học Nhà nước là một tổ chức
có sứ mệnh đảm bảo, duy trì trật tự, an toàn và phát triển bền vững của xã
hội Gắn với vai trò này, ở mức độ khác nhau, hàng hoá, dịch vụ công là
phương tiện truyền tải sứ mệnh ấy tới đời sống nhân dân và đã được lịch
sử ghi nhận.

Doanh nghiệp - chủ thể chủ yếu thực hiện việc cung ứng hàng hoá,
dịch vụ công được các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam quan tâm
nghiên cứu. Trên cơ sở nhu cầu phát triển quyền con người, tính dân
chủ được đề cao, việc nghiên cứu về các công cụ, phương tiện thực hiện
12
quyền dân chủ đó càng trở nên bức xúc. Vì lẽ đó, việc ra đời các công
trình và hoạt động nghiên cứu nêu trên là xu hướng tất yếu, góp phần
thúc đẩy quá trình phát triển xã hội, đảm bảo lợi ích của người dân ngày
càng khả thi và phát triển bền vững.
Các công trình khoa học nêu trên mặc dù đã giải quyết được các
vấn đề cơ bản trong việc tiếp cận, phân tích về hàng hoá, dịch vụ công và
cung ứng, nhưng nhìn chung, dưới góp độ nghiên cứu pháp luật về
doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công vẫn còn nhiều vấn đề cần
được tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ.
13
Chương 2
LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP CUNG ỨNG HÀNG HOÁ, DỊCH
VỤ CÔNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CUNG ỨNG
HÀNG HOÁ, DỊCH VỤ CÔNG
2.1. Nhận thức chung về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá,
dịch vụ công
- Trên cơ sở tham khảo các quan điểm khác nhau và căn cứ vào
nội dung của pháp luật hiện hành, luận án xác định: Doanh nghiệp cung
ứng hàng hoá, dịch vụ công là tổ chức có chức năng hoạt động kinh tế -
xã hội, có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng
ký và hoạt động trong lĩnh vực cung ứng hàng hoá, dịch vụ công theo
quy định của pháp luật.
- Từ nội dung khái niệm, luận án rút ra đặc điểm của doanh nghiệp
cung ứng hàng hoá, dịch vụ công căn cứ vào tiêu chí như: Tính chất,
mục đích, nhiệm vụ, cách thức tổ chức bộ máy quản trị, mức độ chủ

động trong cung ứng hàng hóa, dịch vụ công, đối tượng cung ứng hàng
hóa, dịch vụ công của doanh nghiệp.
- Luận án cũng rút ra vai trò của của doanh nghiệp cung ứng hàng
hóa, dịch vụ công. Những vai trò đó là: Doanh nghiệp cung ứng hàng
hóa, dịch vụ công đảm bảo sự phát triển ổn định, bình đẳng, công bằng
của các đối tượng thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ công; đảm bảo phát
triển chế độ xã hội theo chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước;
xây dựng cơ sở hạ tầng cho sự phát triển; góp phần thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi
trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh…; là
công cụ điều hành của Nhà nước đối với sự phát triển của một số hoạt
động, lĩnh vực đặc thù trong quản lý, cũng là những nhu cầu bức thiết
của đời sống xã hội.
14
- Để làm sáng tỏ, sâu sắc hơn khái niệm doanh nghiệp cung ứng
hàng hóa, dịch vụ công; luận án tiến hành phân loại doanh nghiệp căn
cứ vào các tiêu chí khác nhau như: Căn cứ vào tính chất, mục đích, mô
hình tổ chức, sở hữu vốn, tính chất của chế độ trách nhiệm tài sản,
nguồn vốn và phương thức đầu tư.
2.2. Pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công
- Sau khi trang bị các kiến thức cơ bản về doanh nghiệp cung ứng
hàng hoá, dịch vụ công, luận án nêu khái niệm và nghiên cứu những đặc
điểm của pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
theo đó: Pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công
là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành và đảm bảo thực hiện, điều chỉnh
những quan hệ xã hội phát sinh liên quan đến lĩnh vực tổ chức, hoạt
động, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ
công.
- Đặc điểm của pháp luật về doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công là:

+ Pháp luật bảo vệ, phục vụ quyền lực công, đảm bảo lợi ích
xã hội;
+ Cơ chế điều chỉnh của pháp luật mang tính liên ngành;
+ Pháp luật đề cao vai trò, trách nhiệm của chủ thể cung ứng hàng
hoá, dịch vụ công;
+ Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp cung ứng
hàng hoá, dịch vụ công có mối liên hệ chặt chẽ với chức năng quản lý
nhà nước;
+ Mục đích của pháp luật là không đưa lợi nhuận lên làm mục tiêu
trực tiếp, hàng đầu.
2.3. Một số mô hình cung ứng hàng hoá, dịch vụ công điển hình
trên thế giới - Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
15
Sau khi nghiên cứu về doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp
cung ứng hàng hoá, dịch vụ công, luận án trình bày khái niệm, cách tiếp
cận mô hình cung ứng hàng hoá, dịch vụ công; theo đó: Mô hình cung
ứng hàng hoá, dịch vụ công là tổng thể các yếu tố về sự tham gia của
các thành phần kinh tế, xã hội (thành phần sở hữu, giai cấp, tầng lớp,
cá nhân ) gắn với phương thức tổ chức, hoạt động cung ứng hàng hoá,
dịch vụ công cho xã hội nhằm đảm bảo lợi ích các bên liên quan và duy
trì trật tự, an toàn, tiến bộ xã hội
Luận án trình bày một số mô hình cung ứng hàng hoá, dịch vụ
công điển hình trên thế giới và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam. Các mô hình mà thế giới đang áp dụng là:
+ Mô hình "Nhà nước cung ứng tài chính và nhà nước tổ chức
cung ứng hàng hoá, dịch vụ công";
+ Mô hình "Khu vực kinh tế ngoài nhà nước cung ứng tài chính và
tổ chức cung ứng hàng hoá, dịch vụ công";
+ Mô hình “Nhà nước và khu vực ngoài nhà nước cùng liên kết
cung ứng tài chính và tổ chức cung ứng hàng hoá, dịch vụ công”;

Mô hình này thể hiện dưới ba hình thức là: Hình thức "Nhà nước
cung ứng tài chính và khu vực ngoài nhà nước tổ chức cung ứng hàng
hoá, dịch vụ công”; hình thức “Khu vực ngoài nhà nước cung ứng tài
chính và Nhà nước tổ chức cung ứng hàng hoá, dịch vụ công”; hình
thức “Nhà nước và khu vực ngoài nhà nước cùng đầu tư (góp) vốn cùng
tổ chức cung ứng hàng hoá, dịch vụ công”
+ Mô hình "Lấp chỗ trống”.
- Từ các mô hình cung ứng hàng hoá, dịch vụ công nêu trên, luận
án đưa ra một số nhận xét, đánh giá về các mô hình cung ứng hàng hoá,
dịch vụ công theo hướng khẳng định tầm quan trọng của cách vận dụng
mỗi mô hình trong đời sống; rút ra bài học kinh nghiệm như:
16
+ Quy định rõ các loại hàng hoá, dịch vụ công căn cứ vào tính chất,
tầm quan trọng của chúng đối với đời sống kinh tế - xã hội;
+ Nhà nước là chủ thể có trách nhiệm cuối cùng trong việc đảm
bảo cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
+ Nhà nước quản lý cung ứng hàng hoá, dịch vụ công bằng pháp
luật tiến bộ, khoa học;
+ Pháp luật cần có cơ chế thuận lợi trong việc tiếp cận hàng hoá,
dịch vụ công; ưu tiên dân cư thuộc địa bàn khó khăn, xa xôi, hẻo lánh,
có vị trí chiến lược quan trọng ;
+ Cần có cơ chế trợ cấp, hỗ trợ đối với doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực thiết yếu;
+ Tăng cường xã hội hoá, thực hiện cung ứng hàng hoá, dịch vụ
công ở nhiều cấp độ và hình thức khác nhau; như: Giao nhiệm vụ, đặt
hàng, đấu thầu, tự chủ kết hợp hoạt động kinh doanh.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Từ các vấn đề về: nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khái niệm,
đặc điểm, vai trò, phân loại doanh nghiệp; đặc điểm pháp luật về doanh
nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công và kinh nghiệm cung ứg hàng

hoá, dịch vụ công của các nước trên thế giới làm căn cứ, cơ sở khoa học
cho việc hoàn thiện phương pháp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công ở
Việt Nam. Có thể khẳng định, đây là nhu cầu thiết yếu hướng tới hoạt
động tư vấn hoàn thiện chính sách, pháp luật Việt Nam về cung ứng
hàng hoá, dịch vụ công trong điều kiện ngày nay.
Đây cũng là tư tưởng khoa học cơ bản làm cơ sở nền tảng về lý
thuyết cho việc nhìn nhận các vấn đề pháp luật hiện hành ở Việt
Nam và tìm giải pháp hoàn thiện, giúp cơ chế điều chỉnh pháp luật
ngày càng phù hợp khách quan, thực chất trong việc giải quyết các
17
vân đề phát sinh trong đời sống xã hội về cung ứng hàng hoá, dịch
vụ công ở nước ta.
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CUNG ỨNG
HÀNG HOÁ, DỊCH VỤ CÔNG Ở VIỆT NAM
Tại chương này, luận án khái quát và phân tích những vấn đề thực
tiễn của pháp luật Việt Nam trong việc điểu chỉnh tổ chức, hoạt động
của doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công. Những vấn đề như:
Sự hình thành và phát triển của pháp luật về doanh nghiệp cung ứng
hàng hoá, dịch vụ công ở Việt Nam; đặc biệt là thực trạng pháp luật
điều chỉnh các quan hệ cụ thể của doanh nghiệp như: Pháp luật về thành
lập; cơ cấu tổ chức quản lý; tổ chức lại, giải thể, phá sản; quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công.
Trên cơ sở thực trạng pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng
hoá, dịch vụ công, luận án rút ra một số nhận xét, đánh giá; bao gồm ưu
điểm và hạn chế chủ yếu của pháp luật hiện hành về doanh nghiệp cung
ứng hàng hoá, dịch vụ công.
- Ưu điểm:
+ Nhà nước đã có sự quan tâm điều chỉnh một số loại hoạt động
của doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;

+ Pháp luật có xu hướng đề cao vai trò của các chủ thể ngoài
nhà nước và bước đầu xã hội hoá hoạt động cung ứng hàng hoá, dịch
vụ công.
- Hạn chế:
+ Pháp luật Việt Nam điều chỉnh chưa chính xác, chưa đầy đủ đối
với hoạt động cung ứng hàng hoá, dịch vụ công như: Khái niệm, tiêu chí
các loại hàng hóa, dịch vụ công; mô hình tổ chức doanh nghiệp cung ứng
18
hàng hoá, dịch vụ công còn thiếu phù hợp với lĩnh vực hoạt động của
doanh nghiệp, đặc biệt là trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp; một số
lĩnh vực quan trọng phát sinh nhiều quan hệ xã hội mới chưa được pháp
luật điều chỉnh kịp thời;
+ Quy định về xã hội hoá hoạt động cung ứng hàng hoá, dịch vụ
công còn chưa triệt để, thiếu tính cụ thể và chính xác;
+ Pháp luật chưa quy định cụ thể, đầy đủ quyền và nghĩa vụ cũng
như trách nhiệm của doanh nghiệp cung ứng;
+ Pháp luật chưa quy định cụ thể, đầy đủ cơ chế giám sát, quy
trình thực hiện quyền yêu cầu của người thụ hưởng việc cung ứng
hàng hoá, dịch vụ công;
+ Pháp luật chưa có sự thống nhất, còn thể hiện tính bất bình đẳng
giữa tổ chức của nhà nước và tổ chức thuộc thành phần kinh tế tư nhân
khi tham gia hoạt động trên một lĩnh vực nhất định;
+ Một số vấn đề về góp vốn, thành lập, quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp trong pháp luật vẫn tồn tại nhiều bất cập gây khó khăn,
vướng mắc cho doanh nghiệp; đồng thời cũng tồn tại "lỗ hổng" dễ bị lợi
dụng bởi các nhà đầu tư;
+ Bên cạnh đó, pháp luật chưa thiết lập đầy đủ cơ chế chuyển đổi
giữa các loại hình doanh nghiệp;
+ Trách nhiệm, thẩm quyền và các biện pháp chế tài áp dụng đối
với các cơ quan nhà nước trong quản lý hoạt động cung ứng hàng hoá,

dịch vụ công chưa được pháp luật đề cao, qui định rõ và cụ thể;
+ Về cách sử dụng từ, ngữ trong một số văn bản còn đa nghĩa,
thiếu chính xác
Cùng với nội dung trên, luận án cũng nêu những nguyên nhân ưu
điểm và hạn chế của pháp luật hiện hành về doanh nghiệp cung ứng
hàng hoá, dịch vụ công.
19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trên cơ sở nội dung đã trình bầy, có thể thấy:
Pháp luật Việt Nam điều chỉnh các vấn đề về doanh nghiệp
cung ứng hàng hoá, dịch vụ công cho đến nay đã được Nhà nước ta từng
bước quan tâm và đạt được kết quả ở mức độ khác nhau qua từng giai
đoạn lịch sử xuất phát từ nhu cầu thực tiễn cụ thể. Việc điều chỉnh ấy
ngày càng được đề cao, quy định rõ ràng hơn khi đất nước ta chuyển
đổi nền kinh tế từ tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đặc
biệt với sự phát triển đa dạng, đa phương và hội nhập quốc tế trong
những năm vừa qua.
Từ các phần đã trình bầy ở trên về thực trạng pháp luật về doanh
nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công ở Vịêt Nam, những vấn đề ưu
điểm, hạn chế của pháp luật cũng từng bước được phát hiện. Đặc biệt,
những hạn chế, vướng mắc có thể gây khó khăn cho tiến trình hoạt động
cung ứng hàng hoá, dịch vụ công cho xã hội bởi nhiều nguyên nhân;
trong đó chủ yếu là do các quy định của pháp luật về doanh nghiệp cung
ứng hàng hoá, dịch vụ công còn chưa đầy đủ, chặt chẽ và chính xác. Từ
khái niệm, các tiêu chí xác định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm tài sản, sự
bình đẳng, minh bạch của các chủ thể trong cung ứng, thụ hưởng; vấn
đề về xã hội hoá, về quản lý điều hành hoạt động cung ứng cũng như
chế tài xử lý các tiêu cực phát sinh cũng chưa được pháp luật quan
tâm đúng mức.
20

Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CUNG ỨNG HÀNG HOÁ,
DỊCH VỤ CÔNG Ở VIỆT NAM
Trên cơ sở tiếp cận những vấn đề mang tính lý luận ở Chương 1,
Chương 2; từ việc nghiên cứu, rút ra một số nhận xét, đành giá thực
trạng pháp luật được trình bày ở Chương 3, sau khi nêu những yêu cầu
thực tiễn đang đặt ra, Chương 4 luận án kiến nghị những phương
hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp
cung ứng hàng hoá, dịch vụ công ở Việt Nam.
4.1. Phương hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công:
- Đảm bảo mức tối thiểu hàng hoá, dịch vụ công cho xã hội;
- Xác định giới hạn (trách nhiệm) tham gia của Nhà nước trong
cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
- Cung ứng hàng hoá, dịch vụ công trên cơ sở quan hệ cung - cầu
và sự điều tiết của Nhà nước;
- Phát huy chủ động, sáng tạo và loại bỏ tính thiếu trách nhiệm của
chủ thể cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
- Không bao cấp bình quân trong cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
- Tích cực hoàn thiện pháp luật về cung ứng hàng hoá, dịch vụ công.
4.2. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công:
- Phân loại, xác định danh mục hàng hoá, dịch vụ công làm cơ sở
xây dựng pháp luật;
21
- Thể chế hoá tiêu chí về lĩnh vực, địa bàn, tính chất, tầm quan
trọng của loại hình cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
- Tăng cường xã hội hoá, đảm bảo nguyên tắc công bằng, bình
đẳng, hiệu quả trong cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;

- Hỗ trợ doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ thiết yếu và ưu
tiên dân cư thuộc địa bàn khó khăn ;
- Đa dạng hóa hình thức cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
đảm bảo trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp phù hợp với lĩnh vực
hoạt động;
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới, đồng thời sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện các chế định về: Thành lập, tổ chức quản lý, tổ
chức lại doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công trong pháp
luật hiện hành;
- Về cách sử dụng từ, ngữ trong văn bản pháp luật về doanh nghiệp
cung ứng hàng hoá, dịch vụ công;
- Nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát, kiểm soát chất lượng đầu
ra hàng hoá, dịch vụ công; áp dụng các biện pháp bảo vệ pháp luật.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Phương hướng và giải pháp nêu trên đều thể hiện quan điểm khoa
học với mục tiêu tối thượng là duy trì, phát triển hoạt động cung ứng
hàng hoá, dịch vụ công ngày càng chất lượng, hiệu quả, phù hợp và thích
ứng với nhu cầu của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước.
Điều đó càng giữ vị trí quan trọng, thời sự trong điều kiện tăng cường
hội nhật quốc tế ở Việt Nam ngày nay.
Mặc dù kiến nghị sẽ còn nhiều khoảng trống, chưa bao quát và
phản ánh hết nhu cầu phát triển của thực tiễn. Đời sống xã hội đòi hỏi
22
vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu tìm giải pháp nhằm khắc phục, lấp
những khoảng trống của pháp luật điều chỉnh tổ chức, hoạt động của
các chủ thể cung ứng, trong đó có doanh nghiệp cung ứng hàng hoá,
dịch vụ công ở Việt Nam. Hy vọng thời gian tiếp theo, hoạt động nghiên
cứu khoa học trong lĩnh vực pháp luật về cung ứng hàng hoá, dịch vụ
công sẽ tiếp tục được thực hiện và có những kết quả, đóng góp thiết
thực, bồi đắp thêm những phương hướng, giải pháp vào kho tàng tri

thức khoa học luật nói chung và khoa học luật về doanh nghiệp cung
ứng hàng hoá, dịch vụ công nói riêng.
23

×