Tải bản đầy đủ (.doc) (161 trang)

Pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ công thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.73 KB, 161 trang )

NGUYỄN QUANG VỸ

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Quang Vỹ

LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CUNG ỨNG
HÀNG HỐ, DỊCH VỤ CƠNG - THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

KHOÁ 2009 - 2012

HÀ NỘI - 2013
1


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Quang Vỹ

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CUNG ỨNG
HÀNG HỐ, DỊCH VỤ CƠNG - THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN


Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 62.38.50.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. Nguyễn Như Phát
2. PGS.TS. Lê Thị Châu

HÀ NỘI - 2013
2


LI Cam đoan
Tác giả xin cam đoan Luận án này đợc thực hiện một cách
độc lập dới sự hớng dẫn của:
1- Thầy: PGS.TS. Nguyễn Nh Phát
2- Cô: PGS.TS. Lê Thị Châu
Các t liệu và số liệu đợc sử dụng trong Luận án là hoàn toàn
chính xác và có trích dẫn râ rµng!

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

MỤC LỤC
3


Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI .... 7

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 7
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài .................................................................................... 25
Chương 2. LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP CUNG ỨNG HÀNG HOÁ, DỊCH VỤ CƠNG VÀ
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CUNG ỨNG HÀNG HỐ, DỊCH VỤ CƠNG .....

29

2.1. Doanh nghiệp cung ứng hàng hố, dịch vụ công ................................................ 29
2.2. Đặc điểm của pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hố, dịch vụ cơng ..... 46
2.3. Một số mơ hình cung ứng hàng hố, dịch vụ cơng điển hình trên thế giới Bài học kinh nghiệm ........................................................................................... 49
Chương 3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CUNG ỨNG HÀNG HỐ,
DỊCH VỤ CƠNG Ở VIỆT NAM .....................................................................

67
3.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hố,
dịch vụ cơng ở Việt Nam .................................................................................. 67
3.2. Pháp luật hiện hành về doanh nghiệp cung ứng hàng hố, dịch vụ cơng .......... 72
3.3. Đánh giá pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hố, dịch vụ cơng .......... 107
Chương 4. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DOANH NGHIỆP CUNG ỨNG HÀNG HỐ, DỊCH VỤ CƠNG Ở VIỆT NAM ..115

4.1. Những yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng hố, dịch vụ cơng ......................... 115
4.2. Phương hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cung ứng
hàng hố, dịch vụ cơng .................................................................................... 119
4.3. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cung ứng hàng
hố, dịch vụ cơng ............................................................................................. 128
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 144

DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........ 146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 148

Danh mơc tõ viÕt t¾t
1. Chøng minh nh©n d©n............................ CMND
2. Doanh nghiƯp: ....................................... DN
3. Doanh nghiệp nhà nớc: ....................... DNNN
4. Dịch vụ: ................................................ DV
4


5. Dịch vụ công: ....................................... DVC
6. Dịch vụ công cộng: .............................. DVCC
7. Dịch vụ công ích: ................................. DVCI
8. Đăng ký kinh doanh: ............................ ĐKKD
9. Hàng hoá: ............................................. HH
10. Hàng hoá, dịch vụ: ............................. HH, DV
11. Hàng hoá, dịch vụ công: .................... HH, DVC
12. Hàng hoá, dịch vụ công cng: ........... HH, DVCC
13. Hàng hoá, dịch vụ công ớch: .............. HH, DVCI
14. Nhà xuất bản: .................................... Nxb
15. Sản xuất: ............................................ SX
16. Sản xuất kinh doanh: ........................ SXKD
17. Trách nhiệm hữu hạn: ....................... TNHH
18. X· héi chñ nghÜa: ............................. XHCN

5


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Hoạt động cung ứng hàng hố, dịch vụ cơng (HH, DVC) [xem: 81; Điềi 3,
Khoản 2, 9] ở các quốc gia trên thế giới giữ một vị trí hết sức quan trọng trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Ở Việt Nam trong những năm qua, cung ứng HH, DVC đóng
vai trị là điều kiện ổn định chính trị, phát triển bền vững, an toàn; đảm bảo cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội cho sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Yêu cầu
phát triển HH, DVC đang đặt ra cho các nhà quản lý, nhà khoa học và toàn xã hội đổi
mới cách tiếp cận, tìm kiếm mơ hình tiến bộ, khoa học và phù hợp cho việc thực hiện
hoạt động cung ứng HH, DVC ở Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI tiếp
tục khẳng định “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta
là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước…” [36, tr.11], xem thêm: [28], [29], 30], [31], [34], [73, Điều 15]; và tiếp
tục “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế”[36, tr.75]. Vai trị của HH, DVC càng có ý nghĩa quan trọng trước những yêu
cầu và nhiệm vụ mới, đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh; xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh".
Vậy HH, DVC là gì? Ai là người cung ứng, người thụ hưởng HH, DVC? Việc
cung ứng HH, DVC thể hiện dưới những hình thức và phương pháp nào? Mối quan hệ
giữa các ngành, lĩnh vực trong cung ứng HH, DVC; đâu là địa bàn trọng yếu cần được
thụ hưởng HH, DVC; loại hình cung ứng thuộc nhóm nào, chế độ chính sách cho từng
loại hình; mục tiêu kinh tế, hiệu quả xã hội của việc cung ứng HH, DVC? Đặc biệt, làm
thế nào để sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về doanh nghiệp (DN)
cung ứng HH, DVC; những bất cập của pháp luật hiện hành về DN cung ứng HH, DVC;
phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về DN cung ứng HH, DVC? Đó là những
vấn đề cơ bản đang đặt ra cho lĩnh vực khoa học pháp lý nghiên cứu tìm phương hướng,
giải pháp xây dựng hệ thống các quy tắc xử sự điều chỉnh các mối quan hệ xã hội về
cung ứng HH, DVC phù hợp, khoa học, đáp ứng nhu cầu phát triển của đời sống kinh tế
- xã hội của đất nước.
6



Thời gian qua, hoạt động cung ứng HH, DVC được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm. Vì vậy, lĩnh vực này ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Để đảm
bảo cơ sở pháp lý cho hoạt động cung ứng HH, DVC và góp phần cụ thể hố Luật
Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) 1995, Ngày 2-10-1996, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 56/CP quy định chi tiết tổ chức và hoạt động của các DNNN hoạt động cơng
ích. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng quy định về
những vấn đề liên quan đến hoạt động của DNNN cung ứng HH, DVC [10], [74]. Trên
cơ sở đó, nhiều Bộ, ngành cũng đã ban hành các văn bản pháp quy điều chỉnh các quan
hệ liên quan đến DNNN hoạt động trong lĩnh vực này.
Luật DNNN 2003 được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng
11 năm 2003 tiếp tục phân biệt hai loại hình DNNN (DNNN hoạt động kinh doanh và
DNNN hoạt động cơng ích), tạo điều kiện cho loại hình DNNN cung ứng HH, DVC giữ
vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội và tiếp tục được chính thức ghi nhận
trong các văn bản pháp luật [76].
Qua một quá trình thực hiện pháp luật về DN, thực tiễn đã chứng minh rằng: Đã
đến lúc đất nước ta cần phải có một đạo luật thống nhất qui định các loại DN không
phân biệt của Nhà nước hay tư nhân...; đặc biệt là quy định rõ hơn về "DN có sản xuất
(SX), cung ứng sản phẩm, dịch vụ cơng ích (DVCI)" [79, điều 10] và "DN phục vụ quốc
phòng, an ninh" [79, điều 167]. Ngày 29 - 11 - 2005, Quốc hội khố XI, kỳ họp thứ 8
thơng qua Luật DN quy định về tổ chức, hoạt động, quyền và nghĩa vụ... của các loại
hình DN.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về HH, DVC nước ta vẫn đang tồn tại nhiều hạn
chế, bất cập, chưa tạo ra được cơ chế giải quyết, đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu chính
đáng và bức thiết đang đặt ra mà nguyên nhân trực tiếp là do “hệ thống thể chế, pháp
luật, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều bất
cập, vướng mắc. Chức năng nhiệm vụ của một số cơ quan trong hệ thống hành chính
nhà nước chưa đủ rõ, còn trùng lặp và chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước”
[35, tr.1]. “Thể chế luật pháp về quản lý tài chính cơng tuy có nhiều đổi mới nhưng cịn

bất cập. Thủ tục hành chính cịn nhiều vướng mắc, gây phiền hà cho tổ chức và công
dân” [35, tr.1].
7


Để từng bước giải quyết những vướng mắc đó, cần “đẩy mạnh vững chắc việc
sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN và xã hội hoá một số loại
hình dịch vụ cơng cộng (DVCC)” [35, tr.6] đang là chủ trương và giải pháp lớn của
Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khoá X, Đảng ta cũng chỉ rõ: “Thực hiện cơ chế tổ chức hoạt động đối với các đơn vị sự
nghiệp dịch vụ công (DVC) theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực hiện hạch tốn
thu - chi khơng vì lợi nhuận tối đa và nhà nước khơng bao cấp bình qn. Cải cách tài
chính công phục vụ cho chủ trương đẩy mạnh xã hội hố trong các ngành..." [35]; "Phát
huy trách nhiệm và tính sáng tạo, chủ động của các đơn vị này nhằm cung cấp các DVC
ngày càng có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nhân dân” [35].
Mặc dù thời gian qua, Đảng ta đã có chủ trương, Nhà nước đã ban hành các văn
bản pháp luật khuyến khích, định hướng cho hoạt động cung ứng HH, DVC; nhiều
ngành khoa học cũng đã có sự quan tâm, nghiên cứu và có kết quả nhất định phục vụ
cho việc xây dựng, thực hiện chính sách liên quan đến hoạt động cung ứng HH, DVC.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, có nhiều hoạt động và cơng trình nghiên cứu có liên
quan đến cung ứng HH, DVC nhưng hầu hết vẫn còn dừng lại ở mức độ đơn lẻ, chưa
nghiên cứu một cách tổng thể, đầy đủ và triệt để các vấn đề pháp lý về cung ứng HH,
DVC. Để góp phần xây dựng hệ thống lý luận và hồn thiện chính sách, pháp luật của
Nhà nước về cung ứng HH, DVC, đề tài Luận án Tiến sỹ luật học “Pháp luật về DN
cung ứng HH, DVC - Thực trạng và giải pháp hồn thiện” sẽ góp phần nghiên cứu tồn
diện những vấn đề pháp luật về tổ chức, hoạt động cũng như quyền và nghĩa vụ của loại
hình DN cung ứng HH, DVC; đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về
loại hình DN này ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận án nhằm:

- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn của hoạt động
cung ứng HH, DVC và pháp luật về DN cung ứng.
- Tìm ra những quy định bất cập của pháp luật hiện hành về DN cung ứng HH,
DVC; đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của DN cung ứng HH, DVC.
Từ mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
8


- Tổng hợp, phân tích những vấn đề lý luận về HH, DVC và hoạt động cung
ứng; sự cần thiết của hoạt động cung ứng HH, DVC trong nền kinh tế - xã hội; vai trò
của nhà nước và cá nhân, tổ chức khác trong cung ứng và quản lý hoạt động cung ứng
HH, DVC…
- Phân biệt DN hoạt động cung ứng HH, DVC với một số loại DN khác; từ đó,
xây dựng cơ chế cung ứng và quản lý thích hợp đối với từng loại hình DN cung ứng
HH, DVC.
- Nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành về DN cung ứng
HH, DVC; phát hiện những bất cập của pháp luật trong mối quan hệ với thực tiễn cung
ứng HH, DVC.
- Đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về DN cung
ứng HH, DVC.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu là các vấn đề sau:
- Khái niệm, đặc điểm, vai trị, tầm quan trọng… của loại hình HH, DVC và
hoạt động cung ứng;
- Thực trạng và nhu cầu của xã hội, các yếu tố tác động đến việc cung ứng và
thụ hưởng loại HH, DVC; từ đó đề xuất các qui trình, thứ tự ưu tiên trong việc cung
ứng các loại hình HH, DVC để tạo ra sự cân bằng, ổn định cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Thực trạng và bất cập của pháp luật qui định về DN cung ứng, người thụ
hưởng; cơ quan quản lý, điều hành hoạt động cung ứng; trách nhiệm của các DN khi

tham gia hoạt động cung ứng và thụ hưởng HH, DVC…
- Mối quan hệ giữa nhà nước với các DN cung ứng HH, DVC; tìm mơ hình tổ
chức hiệu quả, tránh lãng phí nguồn lực nhằm đảm bảo việc cung ứng đầy đủ, chất
lượng cho toàn xã hội.
- Đặc trưng của hoạt động cung ứng HH, DVC làm căn cứ so sánh với các hoạt
động khác trên phạm vi quốc gia và ở một số nước trên thế giới, tìm những ưu điểm,
hạn chế, đề xuất phương hướng và giải pháp cho hoạt động hoàn thiện pháp luật về
cung ứng HH, DVC ở Việt Nam.
9


4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp kết hợp lý luận
với thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp hệ thống, phương pháp
luật học so sánh, phương pháp lịch sử cụ thể...
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Phương pháp này được sử dụng trong
tất cả các Chương của luận án để xem xét từng vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ giữa
lịch sử, lý luận, pháp lý với thực tiễn tổ chức thực hiện. Điều này có ý nghĩa rất lớn, đặc
biệt trong Chương 2, Chương 3 của luận án. Từ đó, phương pháp này cũng được sử dụng
để xem xét, đề xuất các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về DN cung ứng
HH, DVC ở Việt Nam (Chương 4)…
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong tất cả
các Chương của luận án. Cụ thể là được sử dụng để đi sâu vào tìm tịi, trình bày các hiện
tượng, các quan điểm về DN cung ứng HH, DVC; các quy định và thực tiễn thực hiện
pháp luật về DN cung ứng HH, DVC; tổng hợp, phân tích để rút ra bản chất của các hiện
tượng, các quan điểm, quy định và hoạt động thực tiễn (Chương 1, Chương 2, Chương 3);
từ đó đưa ra các đánh giá, kết luận và kiến nghị phù hợp nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về DN cung ứng HH, DVC ở Việt Nam (Chương 4).
- Phương pháp hệ thống: Phương pháp này được sử dụng xun suốt tồn bộ luận
án nhằm trình bày các vấn đề, các nội dung trong luận án theo một trình tự, một bố cục

hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được
mục đích, yêu cầu đã được xác định cho luận án.
- Phương pháp luật học so sánh: Phương pháp này chủ yếu được sử dụng tại
Chương 2 của luận án. Cụ thể là được vận dụng trong việc tham khảo kinh nghiệm xây
dựng, quy định các mơ hình và thực hiện pháp luật về cung ứng HH, DVC ở các nước trên
thế giới; rút ra những điểm chung, những khác biệt giữa các quốc gia. Ngoài ra, tại
Chương 4 của luận án cũng sử dụng phương pháp này để so sánh và rút ra các bài học
kinh nghiệm và kiến nghị cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về DN cung ứng HH,
DVC trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp lịch sử: Phương pháp này chủ yếu được sử dụng tại Chương 2,
Chương 4 của luận án nhằm đưa ra những cứ liệu trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, gắn
liền với các hoạt động cung ứng HH, DVC ở Việt Nam. Những trình bày, đánh giá về các
hoạt động này cũng được đặt trong những bối cảnh lịch sử, mối quan hệ qua lại với những
yếu tố lịch sử khác. Ngoài ra, phương pháp này cũng được sử dụng tại các Chương khác
10


của luận án khi trình bày, phân tích và đánh giá pháp luật về DN cung ứng HH, DVC ở
Việt Nam và thế giới.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Với việc thực hiện mục đích và nhiệm vụ trên đây, nội dung của Luận án đạt
được những ý nghĩa khoa học sau:
- Xây dựng khái niệm và đặc điểm, tiêu chí xác định và phân loại HH, DVC;
DN cung ứng HH, DVC làm cơ sở lý luận để đối chiếu các quy định của pháp luật, giải
quyết các vấn đề khoa học có liên quan.
- Với việc xây dựng cơ sở lý luận nêu trên, luận án góp phần xây dựng phương
pháp tiếp cận và quản lý, nâng cao chất lượng cung ứng HH, DVC…
- Phân tích vai trị của Nhà nước, của DN, các tổ chức và cộng đồng dân cư…
tham gia việc cung ứng, sử dụng HH, DVC trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, trong
từng giai đoạn phát triển của đất nước.

6. Những đóng góp mới của luận án
- Xây dựng một số khái niệm khoa học pháp lý vào hệ thống lý luận cơ bản về
HH, DVC và DN cung ứng...
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về DN cung ứng HH,
DVC ở Việt Nam hiện nay, tìm ra những điểm bất cập, chưa phù hợp;
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp làm cơ sở khoa học cho hoạt động
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về DN cung ứng HH, DVC ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án
gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài;
Chương 2. Lý luận về DN cung ứng HH, DVC và pháp luật về DN cung ứng
HH, DVC
Chương 3. Thực trạng pháp luật về DN cung ứng HH, DVC ở Việt Nam;
Chương 4. Phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về DN
cung ứng HH, DVC ở Việt Nam.
Chương 1
11


TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Những năm cuối thế kỷ XX, các quốc gia phát triển theo con đường Tư bản chủ
nghĩa đạt được những thành quả vượt bậc. Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
DN cung ứng HH, DVC trên thế giới từ lâu đã được quan tâm trong lịch sử phát triển xã
hội. Nó trở thành vấn đề được tranh luận sơi nổi khi nhu cầu phát triển quyền con người,
nền dân chủ được đề cao gắn với mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Nhà nước
thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật; đề cao vai trò của pháp luật, tăng cường chức

năng "phục vụ nhân dân", lấy tiêu chí "phục vụ" để đánh giá sứ mệnh của Nhà nước
trước nhân dân. Cùng với xu hướng phát triển này, trên thế giới đã ra đời nhiều tác
phẩm, cơng trình khoa học nghiên cứu nhu cầu thụ hưởng và cung ứng HH, DVC trong
xã hội. Những cơng trình đó góp phần quan trọng vào sự đổi mới và phát triển nhận
thức của thế giới về vai trò của Nhà nước trong phát triển xã hội, đặc biệt các vấn đề
nâng cao nhận thức, đánh giá và tìm hướng đi cho sự phát triển cung ứng HH, DVC cho
xã hội với quan điểm lấy con người làm trung tâm và là động lực của sự phát triển trên
phạm vi toàn cầu.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên thuật ngữ "cung cấp DVC" [31, tr.133] được đề cập
đến trong Văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX: "... tách cơ quan hành chính cơng quyền
với tổ chức sự nghiệp. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động khơng vì lợi
nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức
thực hiện một số DVC với sự giám sát của cộng đồng như vệ sinh mơi trường, tham gia
giữ gìn trật tự trị an xóm, phường" [31, tr.133]. Trên cơ sở chủ trương này, trong những
năm gần đây, thuật ngữ HH, DVC và hoạt động cung ứng được đặt ra, nghiên cứu, tranh
luận sơi nổi, có giai đoạn trở thành vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội.
- Kết quả của sự quan tâm, nghiên cứu đó được thể hiện qua nhiều hoạt động
khoa học: tổ chức hội thảo, giảng dạy, xây dựng đề tài khoa học, viết giáo trình, sách,
báo, tạp chí... ở nhiều khơng gian, thời gian khác nhau và đưa ra một số vấn đề chủ yếu
liên quan đến khái niệm, chủ thể, thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ, về xã hội hoá hoạt
động cung ứng HH, DVC...
12


Ở mức độ khác nhau, mỗi cơng trình khoa học trong lĩnh vực này phản ánh một
khía cạnh khác nhau về cung ứng HH, DVC, như:
- Quan niệm về HH, DVC;
- Vấn đề cung ứng HH, DVC trong nền kinh tế tập trung, bao cấp;
- Về vai trò của nhà nước và các chủ thể trong cung ứng HH, DVC;
- Trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của chủ thể cung ứng HH, DVC

- Các mơ hình cung ứng HH, DVC trên thế giới;
- Xã hội hóa cung ứng HH, DVC;
- Về phương thức cung ứng HH, DVC điển hình, thể hiện xu hướng phát triển
hiện nay trên thế giới;
- Về tăng cường kiểm tra giám sát, áp dụng các biện pháp đảm bảo trong cung
ứng HH, DVC.
1.1.1. Quan niệm về hàng hố, dịch vụ cơng
Một số tác phẩm tiêu biểu trên thế giới bàn về thuật ngữ HH, DVC như:
- Theo "World book encyclopeadia - 1998", HH, DVC là việc Chính phủ
bảo vệ lợi ích cơng cộng bằng việc cung ứng các hàng hoá (HH) và dịch vụ (DV)
gọi chung là HH, DVC. Ai cũng có lợi từ HH, DVC được cung ứng, và một số
chủ thể không phải trả tiền cho các loại HH, DV đó. Nếu tham gia vào lĩnh vực
này, các công ty (thuộc các thành phần kinh tế khác nhau) khó có thể tìm lợi
nhuận (khi SX và cung ứng HH, DVC). Đây cũng là một lý do cơ bản mà HH,
DVC thường được bảo vệ, duy trì và cung ứng bởi chính Nhà nước [43, tr.86]...
- "Khu vực công" là môi trường chủ yếu thực hiện hoạt động cung ứng HH, DVC
cũng được nhiều tác giả nghiên cứu. Theo "Public Administration", khu vực công là
thuật ngữ được sử dụng từ khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai vào năm 1945, một
phần do sự mở rộng hoạt động của chính phủ, một phần khác, nó gắn liền với các hành
vi xã hội cùng với hoạt động kinh tế - xã hội. Nó là định hướng để phân biệt nền kinh tế
tự do gắn với lợi ích cá nhân, với DN tư nhân. Khu vực công đại diện và gắn với quyền
lực nhà nước; thông qua đó có thể điều chỉnh hoạt động của các chủ thể và tạo ra niềm
tin chính trị phù hợp, xem hoạt động của tập thể hơn là cá nhân. Như vậy, khu vực công
là một thuật ngữ dùng để phân biệt với thực thể kinh tế đã và đang tồn tại là khu vực tư.
13


Sự khác nhau cơ bản không chỉ là mục tiêu của hoạt động (vì tập thể) và cũng khác nhau
cả về cung cách tổ chức và quản lý các hoạt động [109].
- Tác phẩm "Kinh tế học công cộng", đã nghiên cứu về HH, DV nói chung, trong

đó có hàng hố, dịch vụ cơng cộng (HH, DVCC), tác giả Joseph E.Stiglitz cho rằng:
"HH, DVCC thuần tuý là loại hàng hoá, dịch vụ (HH, DV) có hai đặc tính quan trọng:
thứ nhất, nó khơng thể phân bổ theo khẩu phần để sử dụng; thứ hai, người ta khơng
muốn sử dụng nó theo khẩu phần" [54, tr.66]. Có thể nói, đây là dấu hiệu rất cơ bản của
HH, DVC thuần tuý. Chúng có vai trị quan trọng liên quan mật thiết đến sự sống, sinh
hoạt an tồn, ổn định và bình thường của con người như: HH, DV phục vụ vệ sinh mơi
trường, chiếu sáng đơ thị, đắp đê phịng chống bão lụt...
Từ các quan niệm trên đây, có thể rút ra rằng: HH, DVC là những sản phẩm phục
vụ xã hội có các đặc tính như:
- Thường khơng thể phân bổ theo khẩu phần để sử dụng;
- Người ta thường không muốn sử dụng nó theo khẩu phần;
- Khó có thể tìm lợi nhuận khi SX, cung ứng;
- Cung ứng và thụ hưởng cũng phải trong khuôn khổ pháp luật;
- Được bảo vệ, duy trì, đảm bảo cung ứng bởi Nhà nước.
Ở Việt Nam, nhiều cơng trình, tài liệu... đã cơng bố khi bàn về các nội dung khác
nhau về HH, DVC có đề cập đến quan niệm về HH, DVC làm cơ sở cho việc nghiên
cứu:
- Tác phầm "Cải cách DVC ở Việt Nam", nhà xuất bản (Nxb) Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 2003, PGS.TS. Lê Chi Mai bàn luận và đưa ra khái niệm DVC; theo đó:
DVC là những hoạt động phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, do nhà nước trực tiếp đảm nhận
hay uỷ nhiệm cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và
công bằng xã hội [61, tr.24].
Theo cách quan niệm này, DVC có một số đặc điểm như:
Thứ nhất, đó là những hoạt động phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung
thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân.
Thứ hai, những hoạt động này do các cơ quan cơng quyền hay những chủ
thể được chính quyền uỷ nhiệm đứng ra thực hiện.
14



Thứ ba, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các DV này cho xã hội. Ngay
cả khi nhà nước chuyển giao DV này cho tư nhân cung ứng thì nhà nước vẫn có
vai trị điều tiết đặc biệt nhằm bảo đảm sự công bằng trong phân phối các DV
này, khắc phục các khiếm khuyết của thị trường.
Thứ tư, việc cung ứng DVC nhằm đáp ứng nhu cầu, quyền lợi hay nghĩa
vụ cụ thể và trực tiếp của các tổ chức và công dân.
Thứ năm, khi thực hiện cung ứng các DVC, các cơ quan nhà nước và các
tổ chức được uỷ nhiệm cung ứng có sự giao dịch cụ thể với khách hàng - các tổ
chức và công dân.
Thứ sáu, việc Nhà nước cung ứng DVC thường không thông qua quan hệ
thị trường đầy đủ. Thông thường, người sử dụng DVC khơng trực tiếp trả tiền,
hay nói đúng hơn là đã trả tiền dưới hình thức đóng thuế vào ngân sách nhà
nước. Cũng có những DV mà người sử dụng phải trả một phần hoặc tồn bộ kinh
phí; tuy nhiên, Nhà nước vẫn có trách nhiệm bảo đảm cung ứng các DV này
không nhằm vào mục tiêu lợi nhuận [61, tr.22-23].
Tuy nhiên, ở cách tiếp cận trên, cần lưu ý, đặc điểm Thứ tư cho rằng: "việc cung
ứng DVC nhằm đáp ứng nhu cầu, quyền lợi hay nghĩa vụ cụ thể và trực tiếp của các tổ
chức và công dân" mới chỉ phản ánh một khía cạnh của mục đích, chức năng cung ứng
DVC; trong khi đó về bản chất, mục đích của cung ứng DVC là để duy trì trật tự cơng,
đảm bảo sự phát triển bình thường, ổn định, tiến bộ... của đời sống kinh tế - xã hội mà
không bị hạn chế bởi "nhu cầu, quyền lợi hay nghĩa vụ cụ thể và trực tiếp" của cộng
đồng. Thực tế đã chứng minh có những loại DVC khơng thể hiện qua giao dịch để thực
hiện "nhu cầu, quyền lợi hay nghĩa vụ cụ thể và trực tiếp" của người dân nhưng nó vẫn
ln giữ một vai trị hết sức quan trọng đối với đời sống xã hội. Việc thực hiện cung
ứng các DVC "có sự giao dịch cụ thể với khách hàng - các tổ chức và công dân". Trong
khi đó, đời sống xã hội có những loại DVC điển hình, quan trọng, như: DV về quốc
phịng, an ninh, chiếu sáng đơ thị... dù khơng có giao dịch cụ thể nhưng mặc nhiên mọi
người dân ở bất kỳ nơi đâu trên lãnh thổ quốc gia mà người đó mang quốc tịch, sinh
sống đều được hưởng kết quả của loại hoạt động này.


15


- Tác phẩm "Thuật ngữ hành chính", Viện nghiên cứu Khoa học Hành chính,
Học viện Hành chính, TS. Đinh Ngọc Hiện chủ biên, cơng ty in & Văn hố phẩm, Hà
Nội 2009, DVC cũng được hiểu khác nhau mặc dù chúng đều cùng bản chất; theo đó:
DVC là thuật ngữ được sử dụng để chỉ "những hoạt động của cơ quan tổ
chức nhà nước hoặc của các tổ chức xã hội, tư nhân được nhà nước uỷ quyền để
thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp những nhu cầu thiết
yếu chung của cộng đồng, công dân theo nguyên tắc không vụ lợi đảm bảo sự
công bằng và ổn định xã hội" [100, tr.98].
Tiếp cận DVC dưới giác độ tính chất đối tượng phục vụ (mang tính sử dụng
chung), theo nguyên tắc tất cả người dân đều có quyền được tiếp cận, thụ hưởng và
phục vụ, DVC được tác giả thể hiện dưới giác độ là DVCC, theo đó:
DVCC là một thuật ngữ chỉ "lĩnh vực hoạt động của các cơ quan tổ chức
nhà nước, tổ chức xã hội hay tư nhân, thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng giữa
các chủ thể thụ hưởng theo quy định của pháp luật vì nhu cầu lợi ích chung của
cộng đồng xã hội và của đa số người dân" [100, tr.101].
Hay tiếp cận DVC dưới giác độ mục đích trực tiếp mà chủ thể cung ứng hướng
tới, thì DVC được định nghĩa là loại DVCI, theo đó:
DVCI là thuật ngữ chỉ "Một lĩnh vực hoạt động phục vụ cho lợi ích chung
và nhu cầu thiết yếu của cộng đồng xã hội hoặc bảo đảm quốc phịng, an ninh, bí
mật quốc gia do Nhà nước hoặc những chủ thể khác được Nhà nước uỷ nhiệm
đứng ra tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo duy trì sự ổn định, an tồn, phát triển
bình thường của xã hội mà khơng lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu" [100,
tr.105].
- Các hoạt động khoa học cũng đã nêu và phân tích khái niệm HH, DVC như:
"DVC - Nhận thức và thực tiễn" Viện Nghiên cứu Hành chính, Học viện Hành chính
Quốc gia, Hội thảo khoa học, Hà Nội - 2001; "Vai trò của Nhà nước trong cung ứng

DVC - Thực trạng và giải pháp", Hội thảo khoa học, Học viên Hành chính Quốc gia, Hà
Nội 8/2002; "Cải cách hành chính và DVC - Vấn đề bức xúc hiện nay", Hội thảo khoa
học; Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội tháng 6/2002; "Nâng cao chất lượng cung
ứng DVC tại các khu đô thị", Hội thảo khoa học, Học viện Hành chính Quốc gia - Tổng
công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị - Bộ Xây dựng, Hà Nội 2005...
16


Nhìn chung, các cơng trình và hoạt động khoa học trên đây, tuy có cách tiếp cận,
phân tích và đưa ra cách định nghĩa, kết luận ở các giác độ khác nhau, nhưng về bản
chất sự vật, hiện tượng, có thể thấy, các HH, DV đã được trình bày đều là HH, DVC Đó là HH, DV được sinh ra, cung ứng vì nhu cầu, lợi ích chung của đời sống cộng đồng
xã hội, giúp xã hội phát triển bình thường, ổn định, an toàn và tốt đẹp hơn. Trách nhiệm
cuối cùng trong việc cung ứng HH, DVC luôn xuất phát từ vai trò xã hội của nhà nước,
được đảm bảo cung ứng bởi Nhà nước [xem: 56, tr.128]; [88, tr.142].
Từ các quan niệm, phân tích ở trên, có thể hiểu: HH, DVC là khái niệm chỉ
những sản phẩm, công việc được trao đổi phục vụ cho lợi ích chung và nhu cầu thiết
yếu của cộng đồng xã hội hoặc bảo đảm quốc phịng, an ninh, bí mật quốc gia do nhà
nước hay những chủ thể khác được nhà nước uỷ nhiệm đứng ra tổ chức thực hiện,
nhằm đảm bảo duy trì sự ổn định, an tồn, phát triển bình thường và tốt đẹp của xã hội
mà không lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu.
1.1.2. Vấn đề cung ứng hàng hố, dịch vụ cơng trong nền kinh tế tập trung,
bao cấp
Tài liệu "Historialy Planned Economies", cho rằng:
Nền kinh tế kế hoạch tồn tại ở hầu hết các nước thuộc khối Xã hội chủ
nghĩa (XHCN). Nền kinh tế của thời kỳ này được đặc trưng bởi vai trò quyết
định của nhà nước trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội và quản lý
bằng mệnh lệnh hành chính. Nền kinh tế này được đặc trưng bởi:
- Phân bố HH, DV, SX do nhà nước quyết định, không tuân theo cơ chế
thị trường;
- Vấn đề giá cả là sự độc quyền của nhà nước;

- Vấn đề lạm phát hình như khơng ai quan tâm và khơng được nhắc đến vì
nhà nước đã khống chế để giá khơng đổi;
- Vấn đề lợi nhuận trong SX cũng do các quyết định của nhà nước. DN
nào có lợi nhuận cũng thơng qua quyết định của nhà nước, không do thị trường
hay cạnh tranh quyết định;
- Vấn đề thuế khơng có quy định, do nhà nước phân định hàng năm theo
chính sách lợi nhuận của nhà nước;
17


- Vấn đề trợ cấp, bao cấp, nhà nước thực hiện bao cấp cho cả sản xuất
kinh doanh (SXKD) và dịch vụ (DV).
- Vấn đề đầu tư do Nhà nước là chủ yếu, các thành phần kinh tế không tồn
tại và khơng được khuyến khích.
- Vấn đề ngoại thương, vay nợ, xuất nhập khẩu là độc quyền của Nhà
nước.
- Vấn đề lao động việc làm, thất nghiệp không được bàn đến và khơng có
khái nhiệm thất nghiệp;
- Vấn đề mơi trường không quan tâm;
- Vấn đề cung ứng DV coi là thứ yếu;
- Các vấn đề khác phần lớn thuộc độc quyền Nhà nước [107].
Như vậy, trong cơ chế tập trung, bao cấp, do mọi hoạt động cung ứng HH,
DVC nói riêng và HH, DV nói chung thường nằm trong tay các tổ chức kinh tế
nhà nước (hoặc tập thể do Nhà nước chỉ huy) nên việc điều chỉnh bằng pháp luật
các hoạt động đó chưa thực sự được quan tâm. Vì vậy, hoạt động kinh tế của các
tổ chức kinh tế nhà nước thường kém hiệu quả nhưng thiếu cơ chế kiểm tra, giám
sát dẫn đến tình trạng thất thốt tài sản nhà nước, nạn tham ơ, tham nhũng xảy ra
khá phổ biến và đang để lại hậu quả cho nền kinh tế hiện nay và nhiều nước,
người ta gọi đó là "di sản" của nền kinh tế kế hoạch hố tập trung [108].
1.1.3. Về vai trị của Nhà nước và các chủ thể trong cung ứng hàng hoá,

dịch vụ cơng
- Giáo trình "Luật kinh tế Việt Nam", Khoa Luật - trường đaị học Khoa học Xã
hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 1998 khi
nói về DNNN, tại Chương III đã phân biệt hai loại hình DNNN hoạt động kinh doanh
và hoạt động cơng ích. Để thực hiện vai trò xã hội - vai trò ngày càng chiếm vị trí đặc
biệt quan trọng, "với tư cách là chủ sở hữu trái quyền hay sở hữu về mặt giá trị" [69,
tr.25], Nhà nước phải sử dụng DNNN hoạt động cơng ích làm cơng cụ phục vụ đắc lực
cho việc thực hiện vai trò này. Cho đến nay, nội dung đó vẫn giữ ngun ý nghĩa và cịn
được mở rộng ra các DN thuộc thành phần kinh tế khác với những quan hệ xã hội và
chế độ tương tự [21, tr.67], [25].
18


- Sách: "Vai trò của nhà nước trong cung ứng DVC - Nhận thức, thực trạng và
giải pháp", TS. Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên); Nxb Văn hố thơng tin, Hà Nội 2002;
"Cải cách DVC ở Việt Nam", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003; "Kỹ năng và cách
tiếp cận trong việc cải tiến cung ứng DVC", Học viện Hành chính Quốc gia - tập thể tác
giả; Nxb Thống kê, Hà Nội 2002... là những tác phẩm tổng hợp các quan điểm, quan
niệm về DVC, phân tích DVC ở dưới các góc độ tiếp cận khác nhau và đã nêu ra các
cách thức cung ứng DVC và xác định vai trị to lớn của Nhà nước trong suốt tiến trình,
kết quả của hoạt động cung ứng DVC cho xã hội [41], [45], [61].
- Tiếp cận khái niệm DN cung ứng HH, DVC dưới góc độ pháp lý là bài viết
đăng trên tạp chí khoa học như bài: "Dự thảo luật DN: Một số vấn đề phương pháp
luận", PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/1999 [70, tr.4553]; trên cơ sở phân tích nội dung cũng như lý do dẫn đến việc nhà nước Việt Nam tiến
hành hợp nhất hai đạo luật là: Luật công ty và Luật DN tư nhân ngày 21 tháng 12 năm
1990 và ban hành đạo luật mới là Luật DN 1999 [75], bên cạnh các vấn đề liên quan đến
DN như: các nguyên tắc hay tiêu chí làm điều kiện tối thiểu cho sự ổn định kinh tế - xã
hội; vấn đề về quyền tự do kinh doanh, vốn, góp vốn, quản lý vốn, sở hữu tài sản thuộc
vốn đăng ký; cải cách thủ tục thành lập DN, cách thức quản lý DN...; Bài viết đánh giá
cao việc ghi nhận loại hình cơng ty hợp danh, cơng ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một

thành viên - những hình thức tổ chức quan trọng, phù hợp trong việc đáp ứng nhu cầu
cung ứng HH, DV nói chung, và đặc biệt là HH, DVC nói riêng trong thực tiễn nền kinh
tế Việt Nam.
- Tháng 7 năm 2005, cũng trên Tạp chí này, PGS.TS. Nguyễn Như Phát có bài:
"Góp ý dự thảo Luật DN (thống nhất)" [71, tr.24-29] và đã đưa ra những kết quả nghiên
cứu và bình luận quan trọng về hồn thiện pháp luật về DN, khắc phục sự mâu thuẫn nội
tại và hình thành sự minh bạch của pháp luật; đề cao sự bình đẳng giữa các DN. Bên
cạnh vấn đề về tiêu chí xác định trách nhiệm hữu hạn hay vô hạn của DN; sự cần thiết
thừa nhận công ty thực tế; xem lại vấn đề áp dụng pháp luật có liên quan... Đặc biệt, vấn
đề "tư cách pháp nhân" của công ty hợp danh đã được bài viết phân tích sâu sắc theo
tinh thần: Pháp luật của các nước tiến bộ trên thế giới - với tư cách là nơi sản sinh các
loại hình cơng ty từ buổi ban đầu và có bề dầy nghiên cứu về các loại hình cơng ty đều
quy định cơng ty hợp danh (với tư cách là một loại công ty đối nhân chịu trách nhiệm vô
19


hạn) khơng có tư cách pháp nhân. Đây là loại hình DN có ý nghĩa cực kỳ quan trọng,
khởi nguồn cho công ty đối nhân xuất hiện ở Việt Nam, rất phù hợp và cần thiết cho
cung ứng HH, DVC trên một số lĩnh vực đặc thù - lĩnh vực liên quan nhiều đến nhân
thân, sự hiểu biết của chủ DN... Trong khi đó, Luật DN hiện hành quy định về cơng ty
hợp danh khơng hồn tồn như vậy. Đây là luận điểm hết sức quan trọng giúp nhà làm
luật nghiên cứu, chuyển hoá nhận thức để thể hiện quan điểm trong việc sửa đổi Luật
DN trong tương lai.
- Trong bài viết: "Về những điểm mới của Luật DN", Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 8/1999 [40, tr.17-23]; trên cơ sở so sánh với luật công ty và Luật DN tư nhân
ngày 21 tháng 12 năm 1990 và nhu cầu khách quan của việc tổ chức kinh doanh dưới
hình thức các loại hình DN cùng với nhu cầu về nâng cao hiệu quả quản lý DN...,
PGS.TS. Trần Đình Hảo đã nêu những điểm mới của Luật DN 1999 và đưa ra những
bình luận, phân tích, đánh giá sâu sắc, đặt nền móng cho sự giải thích và thực hiện Luật
DN. Những vấn đề như tên và phạm vi điều chỉnh của Luật, nguyên tắc áp dụng pháp

luật trong mối quan hệ giữa Luật DN và luật chuyên ngành; những ưu điểm mà Luật DN
có thể đạt được; vấn đề thành lập, tổ chức lại DN; đặc biệt là quy định về cơng ty, trong
đó có hai loại hình cơng ty mới là công ty TNHH một thành viên và cơng ty hợp danh,
phân tích làm sáng tỏ khái niệm, vai trò ý nghĩa và những điểm mạnh của các loại công
ty này. Đặc biệt với công ty hợp danh, đây là một DN có nhiều ưu điểm phù hợp với
nhiều lĩnh vực cung ứng HH, DVC trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội nước ta
hiện nay. Có thể liên hệ một số lĩnh vực điển hình phù hợp với loại hình cơng ty hợp
danh như: lĩnh vực cơng chứng, tư vấn pháp luật, kiểm tốn, khám chữa bệnh - lĩnh vực
đang có xu thế phát triển mạnh ở Việt Nam hiện nay trong tiến trình xã hội hoá.
- Tiếp cận hoạt động cung ứng HH, DVC của loại hình cơng ty đối vốn, bài viết
"Về các căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của cơng ty đối vốn ở Việt Nam", tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 6/2001, tác giả Lê Thị Châu đã xác định trách nhiệm của các
chủ thể trong quá trình định giá phần vốn góp là hiện vật của công ty đối vốn (công ty
TNHH, công ty cổ phần) [8]; qua đó, đề cao ý nghĩa, tầm quan trọng của tính trung thực
trong việc định giá của các chủ thể, chủ đầu tư là sáng lập viên công ty. Hoạt động này
có thể được áp dụng trong q trình định giá tài sản là vốn của DN trong lĩnh vực cung
ứng HH, DVC. Vốn là yếu tố không thể thiếu gắn liền với hoạt động thành lập DN.
20


Định giá tài sản là vốn góp của DN hay của cá nhân, tổ chức trong giao dịch cũng có thể
là một hoạt động cung ứng HH, DVC; khi đối tượng định giá là tổ chức có tài sản thuộc
sở hữu nhà nước, hay chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau định giá tài sản
cho đối tượng khi có yêu cầu của Nhà nước... (xem thêm: [6], [7], [9]).
- Bên cạnh các cơng trình khoa học nêu trên, có một số bài viết, hoạt động khoa
học phân tích ở các góc độ khác nhau về HH, DVC như: vai trò của nhà nước và DN
cung ứng HH, DVC; cơ chế quan lý, điều hành và bài học kinh nghiệm rút ra cho hoạt
động quản lý... Những bài viết, hoạt động khoa học đó là: "Giấc mơ của nửa triệu DN
và một đạo luật chung: Luật DN 2005 từ một góc nhìn so sánh", PGS.TS. Phạm Duy
Nghĩa, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/2006 [64]; "Mơ hình cơng ty dịch vụ quản

lý, vận hành khu đơ thị", đề tài khoa học, chủ nhiệm: Nguyễn Hiệp, Tổng công ty Đầu
tư phát triển nhà và đô thị - Bộ Xây dựng, Hà Nội 2005 [48].
Nội dung cơ bản của các bài viết, các tác phẩm khoa học nêu trên là đề cao vị trí,
vai trị và tầm quan trọng của các loại hình chủ thể hay DN cung ứng HH, DVC; qua đó,
xác định nguyên tắc tổ chức, hoạt động của DN; tư cách pháp nhân và trách nhiệm tài
sản của mỗi loại hình tạo ra cơ chế cạnh tranh, cơ hội lựa chọn loại hình DN phù hợp
cho các chủ đầu tư, nhà cung ứng HH, DVC...
1.1.4. Về trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của chủ thể cung ứng hàng hố,
dịch vụ cơng
- Sách: "Luật kinh doanh" (Luật Kinh tế), ThS. Nguyễn Thị Khế, ThS. Bùi Thị
Khuyên (đồng tác giả), Nxb Thống kê, Hà Nội 1999 đã nêu khái niệm về DNNN hoạt
động cơng ích, phân tích quyền và nghĩa vụ của DNNN hoạt động cơng ích, xem đây là
yếu tố đặc thù mà nhà nước cần quan tâm, quản lý một cách phù hợp với những yêu cầu
đặc thù đó [55, tr.72].
- Một số đề tài khoa học, luận văn thạc sỹ như: "Địa vị pháp lý của DN nhà nước
hoạt động cơng ích", luận văn Thạc sĩ luật học, Nguyễn Thị Nhung, Hà Nội - 1998;
"Hoàn thiện quy chế pháp lý của DN nhà nước hoạt động cơng ích", Luận văn Thạc sĩ
luật học, Nguyễn Huy Ln, Hà Nội 2001; "Mơ hình cơng ty dịch vụ quản lý, vận hành
khu đô thị", đề tài khoa học, chủ nhiệm: Nguyễn Hiệp, Tổng công ty Đầu tư phát triển
nhà và đô thị - Bộ Xây dựng, Hà Nội 2005... cũng đã nêu và phân tích khái niệm, đặc
21


điểm, vị trí, vai trị của DN, kiến nghị hồn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
DN cung ứng HH, DVC... [48], [58], [66].
1.1.5. Về các mô hình cung ứng hàng hố, dịch vụ cơng trên thế giới
- Tác phẩm: "Quản lý khu vực công", GS.TSKH. Vũ Huy Từ (chủ biên), Nxb
Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 1998 đã đưa ra một số khái niệm, nguyên tắc, các yếu tố
cấu thành khu vực cơng, vai trị của nhà nước trong quản lý các DV và lĩnh vực hoạt
động khu vực công, kinh nghiệm quốc tế về quản lý khu vực công [95]...;

- Cuốn "Kỹ năng và cách tiếp cận trong việc cải tiến cung ứng DVC", Nxb
Thống kê, Hà Nội 2002; "Cải cách DVC ở Việt Nam", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2003; "Hồn thiện quy chế pháp lý của DNNN hoạt động cơng ích", Luận văn Thạc sĩ
luật học, Hà Nội 2001; "Mở rộng cạnh tranh trong khu vực công để nâng cao hiệu quả
cung ứng HH, DVC ở Việt Nam hiện nay", đề tài khoa học cấp Bộ, chủ nhiệm: ThS. Vũ
Thanh Sơn, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2006; "Mơ
hình cơng ty dịch vụ quản lý, vận hành khu đô thị", đề tài khoa học cấp Bộ, Tổng công
ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị - Bộ Xây dựng, Hà Nội 2005 đã dành một phần tham
khảo kinh nghiệm một số nước về cung ứng HH, DVC... Các tác phẩm này cũng đã đưa
ra khái niệm, nguyên tắc... và đặc biệt nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong quản lý,
cung ứng HH, DVC; tham khảo kinh nghiệm quốc tế về cung ứng HH, DVC cho xã hội
[42], [45], [47], [48], [58], [61]...
Các tác phẩm nêu trên đều cân nhắc và kiến nghị: ở Việt Nam cần có các mơ
hình tổ chức có sự tham gia của các thành phần kinh tế, hình thức sở hữu khác nhau
trong cung ứng HH, DVC.
1.1.6. Về phương thức cung ứng hàng hố, dịch vụ cơng điển hình, thể hiện
xu hướng phát triển hiện nay trên thế giới
- Khi nói về hoạt động cung ứng HH, DVC; tài liệu: "The Nine Principles of
Public Service Delivery"; Chính phủ Vương quốc Anh đã đề ra 9 nguyên tắc (cũng là 9
tiêu chí) cần thiết cho hoạt động cung ứng HH, DVC là:
+ Phải có hệ thống các chuẩn mực của HH, DVC được cung ứng. Các
chuẩn mực này phải rõ ràng để người sử dụng có thể hy vọng, giám sát và xem
xét hoạt đông cung ứng của tổ chức. Công khai các kết quả nếu đã được phê
duyệt;
22


+ Mở cửa cung ứng đầy đủ thông tin. Mở cửa và giao tiếp một cách rõ
ràng, hiệu quả thông qua những ngôn ngữ dễ hiểu để giúp công dân sử dụng HH,
DVC; cung cấp thông tin về HH, DVC cũng như chi phí và cách thức chúng

được thực hiện;
+ Tư vấn và tham gia của người sử dụng HH, DVC cũng như người cung
ứng HH, DVC và sử dụng ý kiến của họ để làm cơ sở cho việc hồn thiện HH,
DVC;
+ Khuyến khích sự tiếp cận và lựa chọn. Tạo cơ hội để mọi người đều có
thể tiếp cận đến với HH, DVC để thoả mãn đòi hỏi của họ và khuyến khích đưa
ra sự lựa chọn cho người sử dụng từ các tổ chức cung ứng HH, DVC [59];
+ Xử lý công bằng đối với tất cả những ai có liên quan và có nhu cầu; chú
ý tới những người có nhu cầu đặc biệt (người tàn tật, người nghèo);
+ Nhanh chóng sửa sai (nếu có); học hỏi qua những lời phê phán của công
dân; tạo điều kiện để họ đưa ra lời khiếu nại một cách dễ dàng; xem xét khiếu nại
đó một cách độc lập;
+ Sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả để cung ứng HH, DVC cho người
sử dụng; vì họ là người nộp thuế cho nhà nước;
+ Đổi mới và hoàn thiện hoạt động cung ứng HH, DVC; luôn xem xét để
cải tiến;
+ Hợp tác với những nhà cung ứng khác nhằm bảo đảm cung ứng HH,
DVC tốt hơn cho người sử dụng [43, tr.150-151].
- Bên cạnh đó, một ý tưởng quan trọng làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã
hội đang được nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam) quan tâm đó là tài liệu "Chính
phủ nhỏ nhưng hiệu quả" của Tổng thống Mỹ Bill Clinton và Phó Tổng thống A. Gore.
Tác phẩm này cho rằng: Về truyền thống, khu vực công là khu vực hoạt động của các cơ
quan, tổ chức của nhà nước, do nhà nước thiết lập nhằm phục vụ những mục tiêu chính
trị, kinh tế, xã hội của quốc gia; hay đó là khu vực mà mọi hoạt động của nó có sự cung
cấp tài chính của nhà nước, do nhà nước quyết định thực hiện. Trong lĩnh vực kinh tế,
các DN thuộc sở hữu vốn nhà nước đã có những giai đoạn phát triển khác nhau, nhưng
chúng đều có một xu hướng chung là phạm vi hoạt động của nó ở các quốc gia trên thế
giới ngày càng mở rộng cả về quy mơ và nội dung. Điều đó đã phản ánh nhu cầu phát
23



triển ngày càng cao, đa dạng của nền kinh tế. Nhưng khi xu hương này phát triển khơng
có giới hạn, Nhà nước can thiệp quá sâu vào công việc của xã hội, tình trạng ơm đồm
của Nhà nước trong việc cung ứng HH, DVC dẫn đến một xu hướng mới là: "Chính phủ
nhỏ nhưng hiệu quả" [43, tr.73]. Sự cung ứng trực tiếp HH, DVC của Nhà nước từng
bước được chuyển giao hợp lý cho các thành phần kinh tế khác đảm nhận, nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động của Chính phủ và nâng cao chất lượng cung ứng HH, DVC.
- Luận điểm trên rút ra một phương châm cơ bản cho hoạt động cung ứng HH,
DVC một cách tốt nhất là xác định rõ mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội. "Nghĩa vụ
của Chính phủ khơng phải là trực tiếp cung ứng các DV, mà phải bảo đảm các DV đó
được cung cấp" [19, tr.139]; hay "điều quan trọng đối với các chính phủ là khơng nên
làm những gì mà các cá nhân đã làm và làm cho chúng tốt lên hay tồi đi mà làm những
gì khơng ai làm được" [86].
1.1.7. Về xã hội hóa cung ứng hàng hố, dịch vụ cơng
- Tác phẩm: "Chuyển giao DVC cho các cơ sở ngoài nhà nước - Vấn đề và giải
pháp", Viện nghiên cứu Hành chính, Nxb Lao động - Xã hội 2002 đã phân tích, quan
niệm về DVC, cung ứng và chuyển giao DVC cho các cơ sở ngoài nhà nước ở Việt
Nam, đề xuất việc hoàn thiện quản lý nhà nước khi chuyển giao việc cung ứng DVC
cho các cơ sở ngoài nhà nước - một lực lượng quan trọng thúc đẩy việc cung ứng DVC
ngày càng hoàn thiện cả về chất lượng và số lượng. Nhà nước cần tạo điều kiện và hỗ
trợ các cơ sở ngoài nhà nước cung ứng các DVC [99].
- Sách: "Cải cách DVC ở Việt Nam", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003. Trên
cơ sở nhận thức về khái niệm, đặc điểm, vai trò, phân loại, và kinh nghiệm quốc tế về
cung ứng DVC kết hợp với thực trạng cải cách hoạt động cung ứng DVC ở Việt nam,
tác phẩm đã rút ra một số giải pháp cải cách hoạt động cung ứng DVC, trong đó có hồn
thiện thể chế, pháp luật cũng như quy trình cung ứng DVC [61].
- Bài viết "DVCC và những căn cứ để xã hội hố DVCC", TS. Lê Chi Mai, Tạp
chí Quản lý Nhà nước số 6/2000; "Quản lý dịch vụ tư vấn và cơng ích trong nền kinh tế
thị trường"; đề tài khoa học, chủ nhiệm: TS. Võ Kim Sơn, Học viện Hành chính Quốc
gia, 2001; "Nghiên cứu cơ chế xã hội hố một số lĩnh vực DVCC đơ thị tại Thành phố

Hồ Chí Minh", đề tài khoa học, chủ nhiệm: TS. Phạm Thị Bích Hoa, Học viện Hành
24


chính Quốc gia, 2003... cũng đã nêu và phân tích các khía cạnh về xã hội hố cung ứng
HH, DVC khá sâu sắc và cụ thể... [43], [46], [60].
Dưới góc độ xã hội hóa cung ứng HH, DVC; các tác phẩm nêu trên đều có
nghiên cứu và kiến nghị theo xu hướng chung là: cần xác định, khuyến khích các thành
phần kinh tế ngoài nhà nước cùng tham gia vào hoạt động cung ứng HH, DVC.
1.1.8. Về tăng cường kiểm tra giám sát, áp dụng các biện pháp đảm bảo
trong cung ứng hàng hố, dịch vụ cơng
Cuốn "Chuyển giao DVC cho các cơ sở ngoài nhà nước - Vấn đề và giải pháp",
Viện nghiên cứu Hành chính, Nxb Lao động - Xã hội 2002 đã phân tích, phân loại, đưa
ra quan niệm về DVC, cung ứng và chuyển giao DVC cho các cơ sở ngoài Nhà nước ở
Việt Nam. Tác phẩm dành một phần nội dung đề cập đến kiểm tra, giám sát, áp dụng
các biện pháp đảm bảo; xem đây là một điều kiện không thể thiếu trong hoạt động cung
ứng HH, DVC [99].
Đề tài khoa học "Mở rộng cạnh tranh trong khu vực công để nâng cao hiệu quả
cung ứng HH, DVC ở Việt Nam hiện nay" của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2006; "Mơ hình cơng ty dịch vụ quản lý, vận hành khu đô thị",
của Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị - Bộ Xây dựng, Hà Nội 2005 kiến nghị
cần tăng cường kiểm tra, giám sát đối với hoạt động cung ứng DVC do các cơ quan
quản lý nhà nước các cấp tiến hành... [42], [48].
Như vậy, các cơng trình, hoạt động khoa học trên đây đã thể hiện sự quan tâm
lớn của các nhà khoa học đối với HH, DVC nói chung, DN cung ứng HH, DVC nói
riêng và đã nổi lên nhiều tranh luận. Điều đó đã góp một phần quan trọng làm căn cứ
khoa học phục vụ cho hoạt động xây dựng pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên
quan đến hoạt động cung ứng HH, DVC. Có thể tổng hợp một số nội dung cơ bản về
HH, DVC từ các cơng trình và hoạt động khoa học trên đây là:
- Khi bàn về khái niệm HH, DVC; đa số các cơng trình đã cơng bố đưa ra 2 cách

hiểu: Theo nghĩa rộng, "tất cả mọi hoạt động của nhà nước, không loại trừ một lĩnh vực
nào, phải coi là DVC. Điều đó xuất phát từ bản chất tổ chức trật tự cơng của nhà nước:
người dân đóng thuế để duy trì nhà nước, nhà nước tồn tại để duy trì trật tự cơng" [63,
tr.335]. Theo nghĩa hẹp, "DVC là những hoạt động của nhà nước được thực hiện nhằm
25


×