Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng BIDV Đà Nẵng - 6 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.61 KB, 9 trang )

Phát triển thị trường tiền tệ bao gồm thị trường tín dụng truyền thống, thị
trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường tín phiếu kho bạc. Đây là thị
trường có tính chất nội bộ giữa các ngân hàng nhằm mua bán, chuyển nhượng nội
tệ, ngoại tệ nhằm vận dụng nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng. Các loại thị trường
vốn đã được hình thành ở nước ta bước đầu có kết quả.
Những năm đầu việc mua bán ngoại tệ và vay mượn trên thị trường này đã đạt được
doanh số khá.
3. Khuyến khích các hộ tư nhân bỏ vốn đầu tư phát triển:
Để giúp cho các DN tự huy động vốn trong dân, Nhà nước cần có luật cho
phép các DN trực tiếp huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, huy động các cổ
phần để dân đầu tư trực tiếp vào các DN, có chính sách khuyến khích những DN có
vốn tự có lớn đầu tư vào các dự án. Đổi mới thiết bị công nghệ, sản xuất mặt hàng
mới, mặt hàng xuất khẩu,khuyến khích các nhà kinh doanh tư nhân góp vốn liên
doanh với nhà nước hoặc trực tiếp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Để huy động
được nguồn vốn này, Nhà nước là người bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp,
tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn họ làm ăn đúng
pháp luật, có lợi ích cho quốc kế dân sinh.
Ngoài các biện pháp tạo vốn cho nền kinh tế nói chung và cho việc phát triển
các DNVVN nói riêng, một vấn đề quan trọng nữa là ngân sách nhà nước phải tăng
cường tích luỹ từ GDP cho đầu tư phát triển. Đây là nguồn vốn quan trọng để đầu tư
vào các công trình then chốt, các ngành kinh tế mũ nhọn của đất nước.
MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNVVN
1. Mở rộng cho vay vốn trung và dài hạn để giúp các DNVVN đổi mới công
nghệ thiết bị.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Đầu tư vốn trung dài hạn là đầu tư cho tương lai của các DN, là để các DN xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để phát triển. Ngày nay, cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ mà nội dung cơ bản là những tiến bộ vượt bậc
của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học đang phát triển ở trình độ cao. Các
nước đang đứng trước cơ hội phát triển, nhưng ưu thế về vốn, và về thị trường nước
ta vốn huy động trong nước dành đầu tư dài hạn còn ít, nên việc đầu tư của các các


NHTM đối với DN phải biết lựa chọn ưu tiên cho các dự án quy mô vừa và nhỏ,
ứng dụng kỹ thuật tiên tiến tránh tình trạng đầu tư, mua lại những thiết bị cũ kỹ, lạc
hậu của các nước. Thời giam qua một số DNVVN thuộc các ngành giày da, may
mặc, chế biến lâm sản đã sử dụng vốn đầu tư của tín dụng ngân hàng mua phải
một số thiết bị cũ lạc hậu về kỹ thuật của Hàn Quốc, Đài Loan nên hiệu quả kinh tế
thấp, chậm thu hồi vốn.
Cần dành cho một tỷ lệ vốn để đầu tư cho các dự án mở rộng sản xuất, cải tiến
kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và áp dụng công nghệ mới, đầu tư tạo lập một số DN
mới có quy mô vừa và nhỏ. Ưu tiên các dự án tạo việc làm, thu hut nhiều lao động,
dự án khôi phục các ngành nghề làng nghề truyền thống, dự án sản xuất hàng xuất
khẩu, sản xuất hàng tiêu dùng, dự án phát triển của các ngành công nghiệp phục vụ
dân sinh. Với số vốn đầu tư ít ỏi, thời gian thi công nhanh, hiệu quả kinh tế cao
thích hợp với trình độ năng lực quản lý và quản trị điều hành của các DNVVN.
Để có thể đẩy mạnh đầu tư thu hút vốn trung, dài hạn cho các DNVVN cần
phải giải quyết một số vấn đề:
- Cần có một cơ quan tư vấn đầu tư để giúp các DNVVN xây dựng các dự án khả
thi, lựa chọn công nghệ phù hợp, áp dụng vào sản xuất là hết sức quan trọng. Bởi vì,
các DNVVN thường không đủ điều kiện để giải quyết các vấn đề về công nghệ, họ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thường thiếu thông tin về các nguồn công nghệ trong cả nước. Trong thời gian qua,
việc đầu tư cho các DNVVN chủ yếu là đầu tư nhập các thiết bị lẻ hoặc một dây
chuyền hiện đại với mức đầu tư vốn mà các DNVVN có khả năng trả được. Còn
nhà xưởng thì đã có sẵn, thiết bị nhập về được lắp ráp nhanh và đưa vào sản xuất,
phát huy hiệu quả ngay.
- Quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền xét duyệt và thủ tục xét duyệt các dự án
đầu tư để cấp phép cho các DNVVN nhanh chóng, thuận lợi.
- Ngân hàng nhà nước cần quy định lại tỷ lệ vốn tự có của các DN tham gia vào dự
án
- Đề nghị Ngân hàng nhà nước cho phép các NHTM được sử dụng một tỷ lệ vốn
ngắn hạn ổn định để đầu tư trung, dài hạn đối với DNVVN.

- Cho phép các DN được thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay của NHTM để khắc
phục tình trạng đối với một số DN có dự án khả thi, có đủ vốn tự có nhưng không
đủ tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng.
- Chính quyền các cấp cần tạo điều kiện giúp đỡ các DN về đất đai, thủ tục xây
dựng cơ bản để các dự án được thực hiện một cách thuận lợi.
2. Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư
phục vụ mục tiêu chiến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nội dung và phương
thức hoạt động của ngân hàng đã có sự đổi mới căn bản: từ ngân hàng đơn nhất của
các DNNN chuyển sang hệ thống ngân hàng của các thành phần kinh tế trong
những năm qua, NHĐTVPTĐN đã mở rộng đầu tư vốn cho các DNVVN ngoài
quốc doanh, song nhìn chung việc đầu tư cho lĩnh vực này còn theo yêu cầu, có tính
chất dàn đều, chưa tập trung cho vay trọng điểm, chưa khai thác được thế mạnh và
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
điều kiện thuận lợi về nguồn nguyên liệu, về lao động tại chỗ, thế mạnh của từng
vùng kinh tế và ngành kinh tế. Để khắc phục những tồn tại nói trên trong những
năm tới tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vào các ngành kinh tế sau:
- Ngành sản xuất vật liệu như gạch, ngói, vối, các loại cửa gỗ, cửa sắt để phục vụ
xây dựng các công trình Nhà nước và tư nhân
- Ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ truyền thống như mây tre, chiếu cói, đá mỹ
nghệ để xuất khẩu và phục vụ tiêu dùng của nhân dân.
- Ngành dệt may xuất khẩu là ngành phát triển với nhiều triển vọng.
- Ngành sản xuất da giày, đồ nhựa và ngành chế biến nông - lâm - hải sản và
thực phẩm. Đó là những ngành rất phù hợp với cơ cấu đầu tư một cách cân đối và
hợp lý giữa các ngành thương mại - dịch vụ khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu.
Hiện nay, chúng ta chưa có cơ chế khuyến khích cho các ngành sản xuất. Hơn nữa,
do tình hình sản xuất nhất là sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gặp nhiều
khó khăn nên việc đầu tư vốn của ngân hàng vào khu vực sản xuất còn chiếm tỷ
trọng thấp hơn so với khu vực lưu thông. Để thực hiện mục tiêu đẩy mạnh phát triển
sản xuất nhất là sản xuất hàng xuất khẩu, tín dụng ngân hàng cần phải có cơ chế ưu

tiên về cung ứng vốn và ưu đãi lãi suất. Vì vây, cần đảm bảo kịp thời nhu cầu vốn
hợp pháp, hợp lý cho các doanh nghiệp sản xuất. Tập trung vốn cho các doanh
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động và làm ăn có hiệu quả.
Cần có chính sách lãi suất tín dụng ưu đãi đối với các DN sản xuất, đặc biệt là hàng
xuất khẩu. Mức độ ưu đãi tuỳ theo mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất đầu vào
và lãi suất đầu ra của từng ngân hàng mà quy định nhưng ít ra phải thấp hơn so với
cho vay để kinh doanh thương mại và dịch vụ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tóm lại, các chính sách tín dụng nói trên phải được cụ thể hoá trong cơ chế, biện
pháp cho vay, kiểm tra, kiểm soát sử dụng tiền vay nhất là phải thể hiện trong chính
sách lãi suất ngân hàng.
3. Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng bảo đảm an toàn vốn và hạn chế rủi
ro.
Chất lượng tín dụng luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của hoạt động ngân
hàng.
Song hiện nay chất lượng tín dụng ngân hàng ở nước ta đang là vấn đề đặc biệt
quan tâm của nhiều người. Đó là tình trạng nợ quá hạn và rủi ro tín dụng phát sinh
ngày càng tăng. Mặc dù thời gian qua một số NHTM dã thực hiện những biện pháp
đảm bảo an toàn vốn vay và hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro tín dụng như:
+ Ban hành một số cơ chế tín dụng với điều kiện cho vay chặt chẽ hơn
+ Thành lập hội đồng tín dụng, xem xét lại việc phân cấp uỷ quyền xét duyệt cho
vay
+ Ban hành chính sách khách hàng, phân loại khách hàng khi cho vay, quy định
khách hàng chỉ được vay ở một ngân hàng
+ Thực hiện biện pháp đồng taì trợ
+ Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, thông tin rủi ro, nâng cao trình độ quản
lý, chuyên môn nghiệp vụ cho CBCNV ngân hàng
Nhìn chung, chất lượng tín dụng chưa được nâng lên, nhất là từ đầu năm 2003
tới nay tình trạng nợ quá hạn phát sinh ngày một tăng. Do đó, cần có các biện pháp
để nâng chất lượng tín dụng ở NHĐTVPTĐN:

Tăng cường các biện pháp quản lý tín dụng, trước hết cần nâng chất lượng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thẩm định khi cho vay, chú trọng thẩm định các điều kiện vay vốn, tư cách người
vay, thẩm định các tính khả thi cảu dự án nhất là thẩm định kỹ về phương diện thị
trường, hợp đồng mua bán, khả năng thanh toán của người mua hàng.
Khi giải quyết một món vay không nên coi tài sản thế chấp là điều kiện tiên
quyết xét duyệt cho vay, vấn đề cơ bản là khả năng tài chính của người vay, tính
khả thi cảu dự án. Nếu tài sản thế chấp đầy đủ, bảo đảm tính pháp lý, gấp nhiều lần
số tiền cho vay nhưng dự án cho vay không chắc chắn, khả năng hoàn trả từ hiệu
quả của món vay không đảm bảo thì cần phải xem xét kỹ.
Khi cho vay phải chấp hành đúng cơ chế, quy chế, chấp hành đúng quy trình cho
vay, đặc biệt chú ý tính pháp lý của tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp nhất thiết phải
qua công chứng, qua UBND Quận, huyện, phường, xã xác nhận.
Tăng cường công tác kiểm tra sử dụng vốn vay để ngăn ngừatình trạng người vay
sử dụng vốn sai mục đích như lấy vốn lưu động ra sử dụng cho xây dựng cơ bản.
Quy định thời hạn cho vay phải sát, phân ra từng thưopì hạn ngắn để thu nợ.
Từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng (CBTD) và cán bộ lãnh đạo trực
tiếp đội ngũ CBTD ngày nay chủ yếu được đào tạo trong thời kỳ bao cấp và năng
lực nhất là sự hiểu biết về kinh tế thị trường về các nghiệp vụ ngân hàng còn nhiều
hạn chế. Do đó, việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBTD là ván đề cần thiết hiện
nay. Cần ban hành ngay quy chế CBTD. Quy định rõ tiêu chuẩn của từng chức danh
CBTD, chức năng nhiệm vụ quền hạn phải được xác định một cách rõ ràng.
Nâng cao chất lượng công tác thông tin phòng ngừa rủi ro: hiện nay, NHNN
có hệ thống các trung tâm phòng ngừa rủi ro, các NHTM đều có phòng chuyên
trách thông tin về khách hàng, về hoạt động của thị trường tín dụng, có tác dụng tốt
ho việc nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn vốn. Song việc thông tin còn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chậm, chưa đầy đủ, hình thức còn đơn điệu. Thời gian tới cần có những hình thức
thông tin nhanh, đầy đủ và kịp thời hơn. Thông tin khách hàng vay vốn các ngân
hàng trên địa bàn là cần thiết để đảm bảo khách hàng không được vay vốn ở nhiều

ngân hàng.
Tăng cường kiểm tra, giám sát khách hàng vay vốn, theo dõi rủi ro có thể xảy
Ra đối với các khoản vay: kiểm tra thường xuyên, đột xuất tại cơ sở sản xuất kinh
doanh của khách hàng. Kiểm tra việc đánh giá tài sản thế chấp, bảo quản tài sản thế
chấp, cầm cố. Kiểm tra các thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau về
khách hàng. Kiểm tra tình hình sử dụng tiền vay, đôn đốc các khách hàng trả nợ các
khoản gốc và lãi đến hạn.
4. Đổi mới cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp các đặc điểm các DNVVN:
4.1. Sửa đổi, bổ sung thể lệ cho vay:
4.1.1. Về nguyên tắc tín dụng: tín dụng là quan hệ vay trả, nguồn vốn huy động có
thời hạn, do đó việc cho vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả lãi và gốc đúng
thời hạn. Trong thời kỳ bao cấp tín dụng có ba nguyên tắc đó là cho vay có mục
đích có kế hoạch, có vật tư hàng hoá tương đương làm đảm bảo, hoàn trả gốc và lãi
đúng thời hạn. Trong ba nguyên tắc trên suy cho cùng đều thực hiện theo nguyên
tắc duy nhất đó là nguyên tắc hoàn trả. Hiện nay, các ngân hàng đã chuyển sang
hạch toán kinh doanh, tín dụng ngân hàng không còn tình trạng bao cấp, nguyên tắc
tín dụng ngân hàng trong cơ chế thị trường phải có một nội dung mới. Đó là phải
đáp ứng yêu cầu hạch toán kinh doanh của ngân hàng và phải tôn trọng quyền tự
chủ tài chính của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, linh hoạt
chủ động với cơ chế thị trường.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
4.1.2. Mở rộng đối tượng tín dụng: nghiên cứu cho vay DNVVN ở một số nước
trong khu vực, đối tượng cho vay của ngân hàng rất đa dạng và thích hợp với cơ chế
thị trường. Vì đứng trên phương diện kinh doanh của ngân hàng nơi nào có cầu về
tín dụng thì ngân hàng cho vay. Do mục đích của tín dụng ngân hàng không chỉ đầu
tư vào sản xuất kinh doanh mà còn đầu tư vào lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Cơ chế
tín dụng của các nước không phân biệt đối tượng cho vay ngắn hạn là đầu tư vào
khâu dự trữ vật tư hàng hoá, cho vay trung hạn là đầu tư vào tài sản cố định như
Việt Nam.
Để mở rộng đối tượng đầu tư đáp ứng yêu cầu về tín dụng, nhưng các điều kiện quy

định còn hạn hẹp, nhất là cho vay tiêu dùng. Để thích hợp với các nhu cầu vay vốn
của các DNVVN và để đảm bảo mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển, cơ chế tín dụng ngân hàng cần phải sửa đổi và mở rộng đối
tượng cho vay.
- Cho vay ngắn hạn không nhất thiết chỉ đầu tư vào lĩnh vực mua sắm công cụ sản
xuất, máy móc thiết bị, (thuộc tài sản cố định), nếu phương án vay vốn của khách
hàng đảm bảo trả nợ trong vòng 12 tháng hoặc khách hàng không có nguồn vốn
khác cam kết trả nợ trong vòng 4 tháng thì ngân hàng có thể xét cho vay ngắn hạn
để đầu tư vào các đối tượng làm tài sản cố định. Biện pháp này nhằm làm tháo gỡ
cho các DN không phải làm các thủ tục xin vay vốn trung, dài hạn, không bị lệ
thuộc vào nguồn vốn và mức phán quyết của ngân hàng cơ sở
- Đối tượng cho vay tiêu dùng cá nhân cần được mở rộng và cho vay vào các mục
đích như sau: cho vay mua, xây dựng và sửa chữa nhà ở; cho vay mua sắm các
phương tiện đi lại, nghe nhìn; cho vay đi du lịch; cho vay đóng học phí, đi học
nghề, du học nước ngoài, cho vay chữa bệnh Tất nhiên, việc cho vay này phải
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
được xem xét khả năng thực hiện của người vay trong việc đảm bảo hoàn trả đúng
kỳ hạn
4.1.3.Đổi mới phương thức cho vay:
Phương thức cho vay tuy là biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng để đảm bảo
cho vay đúng nguyên tắc, đúng đối tượng, quản lý được khoản vay. Nhưng nó là
những vấn đề quy định về thủ tục có liên quan đến khách hàng vay vốn. Nếu một
phương thức cho vay đề ra có quá nhiều thủ tục rườm rà thĩe gây khó khăn, phiền
phức cho người vay. Trái lại, nếu phương hướngcho vay, quy trìnhcho vay không
chặt chẽ sẽ dẫn tới không an toàn. Việc đổi mới phương thức cho vay phải chặt chẽ
về pháp lý, an toàn về tài sản, đơn giản về thủ tục, linh hoạt chủ động về sử dụng
vốn.
Ở các NHTM thường sử dụng phương thức cho vay phổ biến là cho vay từng lần,
song về thủ tục cho vay quy định quá phức tạp, không phù hợp với trình độ của các
DN Việt Nam. Theo em cần phải đơn giản một số biểu mẫu, bỏ bớt một số thủ tục

không cần thiết. Ví dụ: phương án kinh doanh không nhất thiết mỗi món vay phải
xây dựng một phương án. Tờ trình xin vay vốn chỉ cần làm lần đầu thay thế đơn xin
vay, giấy nhận nợ, cam kết thế chấp hoặc hợp đồng thế chấp bằng một hợp đồng tín
dụng.
Để phù hợp với cơ chế tín dụng trong nền kinh tế thị trường có thể nghiên cứu xem
có thể áp dụng một số phương thức tín dụng mà các nước đang áp dụng phổ biến
như:
- Cho vay theo số dư (thấu chi): khách hàng có số dư tiền gửi và số dư tiết kiệm tại
ngân hàng trên một năm thì được ngân hàng cho vay thấu chi, tức là khách hàng
được rút tiền để chi tiêu hoặc thanh toán vượt quá mức dư tiền gửi của khách hàng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×