Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại bảo việt hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.64 KB, 70 trang )

SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã có những bước tăng trưởng
đáng khích lệ. Đóng góp vào thành công chung đó không thể không kể đến vai trò
của hoạt động xuất nhập khẩu. Với đặc điểm địa lý của nước ta có đường bờ biển
dài, lại nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á. Kinh tế xã hội phát triển, nhu
cầu giao lưu kinh tế - chính trị - xã hội tăng nhanh. Đặc biệt trong điều kiện hội
nhập kinh tế toàn cầu, lượng hàng xuất khẩu và nhập khẩu ngày càng nhiều về số
lượng, phong phú về chủng loại và có giá trị ngày càng lớn. Vì vậy, vận chuyển
bằng đường biển là phương thức vận chuyển chủ yếu trong hoạt động xuất nhập
khẩu. Mỗi năm có gần 80% khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển
theo phương thức này, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế nước
ta.
Cũng như bất kỳ một phương thức vận tải nào, vận tải bằng đường biển cũng
không thể tránh khỏi các rủi ro bất ngờ ngoài ý muốn của các doanh nghiệp. Do đó,
để đảm bảo tài chính cho các nhà xuất nhập khẩu, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển đã ra đời giúp các doanh nghiệp ổn định được
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình khi có rủi ro xảy ra.
Nhận biết được tầm quan trọng đó, sau một thời gian thực tập ở Công ty Bảo
Việt Hà Nội em đã chọn đề tài:
"Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Việt Hà Nội" để làm chuyên đề thực
tập tốt nghiệp.
Nội dung của chuyên đề ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo
được chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ.
Chương II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển tại công ty Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 2005-2009.


Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo
Việt Hà Nội
Là một sinh viên năm cuối, nên còn hạn chế trong lý luận cũng như kinh
nghiệm thực tế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
2
nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các thầy cô để chuyên đề này được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Tô Thị Thiên Hương đã trực tiếp hướng
dẫn đề tài, các thầy cô trong khoa Bảo Hiểm cùng toàn thể các cán bộ công nhân
viên công ty Bảo Việt Hà Nội đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn
thành luận văn này một cách tốt đẹp.
Em xin chân thành cảm ơn!

SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BH HHXNK VẬN CHUYỂN
BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA
NGHIỆP VỤ
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của BH HHXNK vận chuyển bằng
đường biển
1.1.1. Trên thế giới:
Bảo hiểm hàng hải đã có lịch sử rất lâu đời. Nó ra đời và phát triển cùng với sự
phát triển của hàng hoá và ngoại thương. Thương mại và giao lưu hàng hoá bằng đường
biển giữa các nước phát triển. Nhiều tổn thất lớn xảy ra trên biển vì khối lượng và giá trị
của hàng hoá ngày càng tăng, do thiên tai, tai nạn bất ngờ, cướp biển gây ra làm cho
giới thương nhân lo lắng nhằm đối phó với các tổn thất nặng nề có khả năng dẫn tới phá

sản họ đã đi vay vốn để buôn bán kinh doanh. Nếu hành trình gặp phải rủi ro gây ra tổn
thất toàn bộ thì các thương nhân được xoá nợ, nếu hành trình may mắn thành công thì
ngoài vốn vay họ còn phải trả chủ nợ một khoản tiền lãi với lãi suất rất cao. Lãi suất cao
và nặng nề này có thể coi là hình thức ban đầu của phí bảo hiểm.
Năm 1182 ở Lomborde - Bắc ý, hợp đồng bảo hiểm hàng hoá đã ra đời. Năm
1468 tại Venise nước ý đạo luật đầu tiên về bảo hiểm hàng hải đã ra đời. Sự phát
triển của thương mại hàng hải đã dẫn đến sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của bảo
hiểm hàng hải và hàng loạt các thể lệ, công ước, hiệp ước quốc tế liên quan đến
thương mại và hàng hải. Các điều khoản về bảo hiểm hàng hải cũng ra đời và ngày
càng hoàn thiện hơn.
Không chỉ riêng bảo hiểm hàng hải, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thế giới, các loại hình bảo hiểm cũng phát triển hết sức mạnh mẽ để đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội, văn hoá và giao lưu quốc tế.
1.1.2. ở Việt Nam
Thời kỳ đầu, nhà nước giao cho một công ty chuyên môn trực thuộc Bộ Tài
chính kinh doanh bảo hiểm đó là công ty Bảo hiểm Việt Nam nay là Tập đoàn Bảo
Việt. Trước năm 1964 Bảo Việt chỉ làm đại lý bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
cho công ty Bảo hiểm nhân dân Trung Quốc với mục đích là học hỏi kinh nghiệm.
Từ năm 1975 Bảo Việt mới triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyên bằng đường biển. Từ chỗ chỉ có quan hệ tái bảo hiểm với
một số nước xã hội chủ nghĩa cũ thì trong thời kỳ này Bảo Việt đã có quan hệ đại
lý, giám định, tái bảo hiểm với hơn 40 nước trên thế giới.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh
mẽ, xuất phát từ yêu cầu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định thu hút vốn đầu
tư nước ngoài thì việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm là một đòi hỏi
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
4
thiết thực, đã tạo điều kiện cho nhiều công ty bảo hiểm ra đời và phát triển. Tính
đến cuối năm 2009 đã có 28 công ty bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường Việt

Nam, với sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty, nghiệp vụ BH HHXNK vẫn là một
nghiệp vụ truyền thống mà các nhà bảo hiểm Việt Nam vẫn duy trì và phát triển với
các biện pháp, chiến lược, sách lược giành thắng lợi trong cạnh tranh.
1.2. Sự cần thiết và vai trò của BH HHXNK vận chuyển bằng đường biển
1.2.1. Sự cần thiết của BH HHXNK vận chuyển bằng đường biển
Hàng hóa xuất nhập khẩu thường có giá trị lớn và được chuyển chở bằng
nhiều loại phương tiện, trong đó vận tải bằng đường biển giữ vai trò quan trọng. Vì
cảng biển là cầu nối giao thông, nơi tập trung, nơi giao lưu của tất cả các phương
tiện vận tải. Do đó, vận chuyển bằng đường biển chiếm khoảng 90% tổng khối
lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của thế giới. Bởi vì, vận chuyển bằng đường biển
có rất nhiều ưu điểm:
- Vận chuyển bằng đường biển có thể vận chuyển được nhiều chủng loại
hàng hóa với khối lượng lớn, mà
các phương tiện khác không đảm nhận được.
- Trên một tuyến đường biển có thể tổ chức được nhiều chuyến tàu.
- Không phải đầu tư nhiều vốn để xây dựng và bảo quản các tuyến đường. Vì
vậy, giá thành vận chuyển bằng đường biển thấp hơn so với các phương tiện khác.
- Vận chuyển bằng đường biển giúp phát triển tốt mối quan hệ kinh tế giữa
các nước, góp phần làm thay đổi cơ cấu hàng hóa và thị trường trong buôn bán quốc
tế. Tuy nhiên cũng có một số nhược điểm:
- Vận tải biển chịu tác động của điều kiện thiên nhiên như: mưa, bão, lũ lụt,
sóng thần,… Vì quãng đường di chuyển dài lại qua nhiều vùng khí hậu rất khác
nhau. Các yếu tố thiên nhiên diễn ra không tuân theo một quy luật nhất định nào. Vì
vậy, mặc dù khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và có thể dự báo thời tiết nhưng
rủi ro vẫn có thể xảy ra.
- Trong quá trình vận chuyển đôi khi rủi ro đâm ra và trục trặc kỹ thuật do
sai sót trong việc thiết kế chế tạo, bảo dưỡng tàu cũng xảy ra. Các tàu biển hoạt
động tương đối độc lập giữa vùng không gian rộng lớn, nếu xảy ra sự cố thì có thể
việc cứu hộ, cứu nạn rất khó khăn. Mặt khác thị trường hàng hải thường rất lớn và
nhất là hiện nay số lượng tàu đưa vào khai thác nhiều, trọng tải tàu ngày càng lớn và

giá trị hàng hoá ngày càng cao, nếu xảy ra rủi ro tổn thất là khôn lường.
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
5
- Đường vận tải dài nên các tàu phải dừng chân ở nhiều cảng khác nhau
thuộc các quốc gia khác nhau, do đó bị ảnh hưởng bởi các chính sách pháp luật của
quốc gia đó. nhất là quốc gia có chiến tranh, đình công quan hệ ngoại giao không tốt
đối với quốc gia sở hữu tàu hoặc hàng hoá chuyên chở trên tàu.
- Trong quá trình vận chuyển, hàng hóa được chủ phương tiện chịu trách
nhiệm chính, những trách nhiệm lại rất hạn chế. Vì vậy, các nhà xuất nhập khẩu
không bù đắp được thiệt hại khi xảy ra tổn thất. Để kịp thời khắc phục những rủi ro,
tổn thất, một mặt người ta ngày càng hiện đại hoá, nâng cao chất lượng các đội tàu,
mặt khác cần phải tham gia BH HHXNK để phân tán rủi ro.
1.2.2. Vai trò của BH HHXNK vận chuyển bằng đường biển
Do đặc điểm của vận tải biển tác động đến sự an toàn cho hàng hoá được
chuyên chở là rất lớn. V vậy vai tr của BH HHXNK vận chuyển bằng đường biển
càng được khẳng định rõ nét :
- HHXNK phải vượt qua biên giới của một hay nhiều quốc gia, người xuất
khẩu và nhập khẩu lại ở xa nhau và thường không trực tiếp áp tải được hàng hoá
trong quá trình vận chuyển do đó phải tham gia bảo hiểm cho hàng hoá. Ở đây, vai
trò của bảo hiểm là người bạn đồng hành với người được bảo hiểm.
- Vận tải đường biển thường gặp nhiều rủi ro tổn thất đối với hàng hoá do
thiên tai, tai nạn bất ngờ gây nên như: mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ, mất
cắp, bão, lốc, vượt quá sự kiểm soát của con người, do đó cần phải tham gia BH
HHXNK.
- Người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng hoá trong một
phạm vi và giới hạn nhất định. Vì vậy các nhà kinh doanh cần phải tham gia BH
HHXNK.
- HHXNK thường là những hàng hoá có giá trị cao, những vật tư rất quan
trọng với khối lượng rất lớn nên để có thể giảm bớt thiệt hại do các rủi ro có thể xảy

ra, việc tham gia BH HHXNK trở thành một nhu cầu cần thiết.
Như vậy, việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển là rất quan trọng và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong
thương mại quốc tế.
1.3. Nội dung cơ bản của BH HHXNK vận chuyển bằng đường biển
1.3.1. Trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình XNKHH vận
chuyển bằng đường biển
Hoạt động XNKHH thường được thực hiện thông qua ba loại hợp đồng:
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
6
- Hợp đồng mua bán
- Hợp đồng vận chuyển
- Hợp đồng bảo hiểm
Ba hợp đồng này là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm của các bên liên
quan và trách nhiệm này phụ thuộc điều kiện giao hàng của hợp đồng mua bán.
Theo các điều kiện thương mại quốc tế “INCOTERMS 2000” có mười ba điều kiện
giao hàng được phân chia thành bốn nhóm E, F, C, D như sau:
- Nhóm E: EXW giao hàng tại xưởng của người bán
- Nhóm F: Cước vận chuyển chính chưa trả, gồm:
+ FCA giao hàng cho người vận tải.
+ FAS giao hàng dọc mạn tàu.
+ FOD giao hàng lên tàu.
- Nhóm C: Cước vận chuyển chính đã trả, gồm:
+ CFR tiền hàng và cước phí.
+ CIF tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí.
+ CPT tiền cước và phí bảo hiểm trả tới.
Nhóm D: Nơi hàng đến, tức người bán giao hàng tại nước người mua, gồm:
+ DAF giao hàng tại biên giới.
+ DES giao hàng tại tàu.

+ DEQ giao hàng tại cầu cảng.
+ DDU giao hàng tại đích, chưa nộp thuế.
+ DDP giao hàng tại đích, đã nộp thuế.
Trong đó thông dụng nhất là điều kiện FOB, CFR và CIF.
Nói chung, trách nhiệm của các bên liên quan được phân định như sau:
- Người bán (bên xuất khẩu): Chuẩn bị hàng hoá theo đúng hợp đồng về số
lượng, chất lượng, loại hàng, bao bì đóng gói Nếu bán theo giá CIF, người bán
phải mua bảo hiểm cho hàng hoá, sau đó ký hậu vào đơn bảo hiểm để chuyển
nhượng quyền lợi bảo hiểm cho người mua.
- Người mua (bên nhập khẩu): Nhận hàng của người chuyên chở theo đúng
số lượng, chất lượng đã ghi trong hợp đồng vận chuyển và hợp đồng mua bán, lấy
giấy chứng nhận kiểm đếm, biên bản kết toán giao nhận hàng với chủ tàu, biên bản
hàng hoá hư hỏng đổ vỡ do tàu gây nên (nếu có). Nếu có sai lệch về số lượng, chất
lượng với hợp đồng mua bán, nhưng đúng với hợp đồng vận chuyển thì người mua
bảo lưu quyền khiếu nại đối với người bán. Nếu phẩm chất, số lượng sai lệch với
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
7
biên bản giao hàng thì người mua căn cứ vào hàng hư hỏng do tàu gây nên mà
khiếu nại người vận chuyển.
- Người vận chuyển: Chuẩn bị phương tiện chuyên chở theo yêu cầu kỹ thuật
thương mại và kỹ thuật hàng hải, giao nhận hàng đúng quy định theo hợp đồng vận
chuyển. Theo tập quán thương mại quốc tế, tàu chở hàng phải tham gia bảo hiểm.
Người vận chuyển có trách nhiệm cấp vận đơn cho người gửi hàng. Vận đơn (Bill
of Loading) là một chứng từ vận chuyển hàng hải trên biển do người vận chuyển
cấp cho người gửi hàng nhằm nói lên mối quan hệ pháp lý giữa người vận chuyển,
người gửi hàng và người nhận hàng. Có nhiều loại vận đơn, nhưng ở đây chỉ quan
tâm đến hai loại cơ bản là: vận đơn hoàn hảo (Clean B/L) hay còn gọi là vận đơn
sạch và vận đơn không hoàn hảo (Unclean B/L).
- Doanh nghiệp bảo hiểm: Có trách nhiệm đối với hàng hóa được bảo hiểm.

Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, DNBH có trách nhiệm tiến
hành giám định, bồi thường tổn thất và đòi người thứ ba nếu họ gây ra tổn thất này.
1.3.2. Rủi ro hàng hải và tổn thất trong BH HHXNK vận chuyển bằng
đường biển
1.3.2.1. Rủi ro hàng hải
Rủi ro hàng hải là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển gây ra
làm hư hỏng hàng hóa và phương tiện chuyên chở.
Rủi ro hàng hải có nhiều loại:
Theo nguyên nhân gồm rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển, do hành
động của con người.
- Thiên tai: là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như : bão, gió lốc, sét
đánh, thời tiết xấu, sóng thần
- Tai nạn bất ngờ trên biển: mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ, mất tích
- Hành động của con người: ăn trộm, ăn cắp hàng, mất cướp, chiến tranh, đình
công,…Ngoài ra các rủi ro khác như trong lúc xếp hàng, hàng bị nhiễm bẩn, mùi…
Theo nghiệp vụ bảo hiểm gồm rủi ro thông thường được bảo hiểm, rủi ro
không được bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm trong trường hợp đặc biệt.
- Rủi ro thông thường được bảo hiểm: là rủi ro được bảo hiểm trong những
điều kiện bảo hiểm hàng hóa thông thường. Như mắc cạn, chìm đắm, cháy, mất
tích, đâm va lây bẩn, mất mùi, trộm cắp,…
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
8
- Rủi ro không được bảo hiểm: là những rủi ro thường không được bảo hiểm
trong mọi trường hợp. Gồm buôn lậu, tịch thu, các hành vi sai lầm cố ý của người
tham gia bảo hiểm , nội tỳ, ẩn tỳ, sụt giá, tàu không đủ khả năng đi biển,…
- Rủi ro bảo hiểm riêng: là những rủi ro loại trừ đối với bảo hiểm hàng hải.
Như đình công, chiến tranh, bạo loạn,…muốn được bảo hiểm thì phải mua riêng,
mua thêm.
Các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất. Việc phân

biệt nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất quan trọng để xác
định rủi ro gây ra tổn thất có phải là rủi ro được bảo hiểm hay không. Những tổn thất nào
có nguyên nhân trực tiếp là rủi ro được bảo hiểm gây ra mới được bồi thường.
1.3.2.2. Tổn thất trong BH HHXNK vận chuyển bằng đường biển
Tổn thất trong BH HHXNK là những thiệt hại, hư hỏng của hàng hoá được
bảo hiểm do rủi ro gây ra.
Căn cứ vào quy mô, mức độ tổn thất có hai loại là tổn thất bộ phận (TTBP)
và tổn thất toàn bộ (TTTB):
TTBP là một phần của đối tượng được bảo hiểm theo một hợp đồng bảo
hiểm (HĐBH) bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại. TTBP có thể tổn thất về số lượng,
trọng lượng, thể tích hoặc giá trị.
- TTTB là toàn bộ đối tượng được bảo hiểm theo một HĐBH bị mất mát, hư
hỏng, thiệt hại.
Có hai loại TTTB là TTTB thực tế và TTTB ước tính.
+ TTTB thực tế là toàn bộ đối tượng được bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng,
thiệt hại hay bị biến chất, biến dạng không như lúc mới được bảo hiểm nữa hay bị
mất không lấy lại được. Chỉ có “TTTB thực tế” trong bốn trường hợp sau:
* Hàng hóa bị hủy hoại hoàn toàn
* Hàng hóa bị tước đoạt không lấy lại được
* Hàng hóa không còn là vật thể bảo hiểm
* Hàng hóa ở trên tàu mà tàu được tuyên bố mất tích
+ TTTB ước tính là trường hợp đối tượng được bảo hiểm bị thiệt hại, mất
mát chưa tới mức độ TTTB thực tế, nhưng không thể tránh khỏi TTTB thực tế, hoặc
nếu bỏ thêm chi phí ra cứu chữa thì chi phí cứu chữa bằng hoặc lớn hơn GTBH.
Nếu phân loại theo trách nhiệm bảo hiểm thì tổn thất bao gồm tổn thất riêng
(TTR) và tổn thất chung (TTC).
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
9
- TTR là tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hay một số quyền lợi của các

chủ hàng và chủ tàu trên một con tàu. Như vậy TTR chỉ liên quan đến từng quyền
lợi riêng biệt. Trong TTR ngoài thiệt hại vật chất, còn phát sinh các chi phí liên
quan nhằm hạn chế những thiệt hại khi tổn thất xảy ra, gọi là tổn thất chi phí riêng.
Tổn thất chi phí riêng là những chi phí bảo quản hàng hoá để giảm bớt thiệt hại
hoặc để khỏi hư hại thêm, bao gồm chi phí xếp, dỡ, gởi hàng, đóng gói lại, thay thế
bao bì ở bến khởi hành và dọc đường.
TTR có thể là TTBP hay TTTB.
- TTC là những hy sinh hay chi phí đặc biệt được tiến hành một cách cố ý và
hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hoá chở trên tàu thoát khỏi một sự nguy
hiểm chung, thực sự đối với chúng. TTC gồm hai bộ phận: Hy sinh TTC và chi phí
TTC.
Hy sinh TTC là những thiệt hại hay chi phí do hậu quả trực tiếp của một
hành động TTC.
Chi phí TTC là các chi phí phải trả người thứ ba trong việc cứu tàu, hàng
cước phí thoát nạn do hậu quả của hành động TTC.
1.3.3. Điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển.
Điều kiện bảo hiểm là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của doanh
nghiệp bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hóa. Ngày 1.1.1963, ILU xuất bản ba
điều kiện bảo hiểm hàng hóa FPA, WA, và AR. Các điều kiện bảo hiểm này được
áp dụng rộng rãi trong hoạt động thương mại quốc tế.
1.3.3.1. Nội dung cơ bản của ICC 1 - 1 - 1963.
a. Điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất riêng (FPA – Free from Particular
Average)
Điều kiện bảo hiểm FPA, trách nhiệm bảo hiểm bao gồm:
- TTTB do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại cảng lánh nạn
thuộc TTR.
- TTBP do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại cảng lánh nạn
do rủi ro chính đem lại.
- Mất nguyên kiện hàng trong quá trình xếp dỡ, chuyển tải.

- Bồi thường các chi phí sau:
+ Chi phí đóng góp TTC
+ Chi phí cứu nạn
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
10
+ Chi phí đề phòng, hạn chế tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm do người thứ
ba không phải là người được bảo hiểm hay người làm công của họ gây nên.
+ Chi phí giám định tổn thất nếu tổn thất này do rủi ro được bảo hiểm gây ra.
+ Chi phí tố tụng khiếu nại.
Để đảm bảo an toàn tài chính tối đa, tuỳ theo tính chất của hàng hoá, người
mua bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm FPA cũn cú thể tham gia bảo hiểm các rủi ro
phụ: Rách vỡ, chảy, cong, hở, bẹp, cẩu móc, hấp hơi, lây bẩn, nước mưa, nước biển,
han rỉ,…
Ngoài ra, chủ hàng có trách nhiệm chứng minh tổn thất là thuộc rủi ro được bảo
hiểm.
b. Điều kiện bảo hiểm tổn thất riêng (WA – With Particular Average)
Theo điều kiện bảo hiểm TTR, DNBH không những chịu trách nhiệm về các rủi ro
tổn thất và chi phí của điều kiện bảo hiểm FPA mà còn mở rộng thêm TTBP do
thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra không giới hạn trong bốn rủi ro chính và khi dỡ
hàng tại cảng lánh nạn. Ngày 01/01/1982, ILU xuất bản các điều kiện bảo hiểm mới
thay thế các điều kiện bảo hiểm cũ. Trong đó các điều kiện bảo hiểm hàng hoá bao
gồm:
- Institute cargo clauses C (ICC C) - điều kiện bảo hiểm C.
- Institute cargo clauses B (ICC B) - điều kiện bảo hiểm B.
- Institute cargo clauses A (ICC A) - điều kiện bảo hiểm A.
- Institute war clauses - điều kiện bảo hiểm chiến tranh.
- Institute strikes clauses - điều kiện bảo hiểm đình công.
So với các DNBH đề ra mức miễn thường và giải quyết theo các nguyên tắc sau:
- Không đề cập mức miễn thường tổn thất do rủi ro chính, rủi ro chiến tranh,

đình công và các rủi ro phụ do con người gây ra.
- Không cộng các chi phí để đạt mức miễn thường, chỉ tính tổn thất thực tế.
- Được tính các tổn thất liên tiếp xảy ra để đạt mức miễn thường.
- Mỗi sà lan được coi là một con tàu để tính mức miễn thường.
- Người được bảo hiểm có quyền chọn cách tính mức miễn thường có lợi
nhất cho mình để được bồi thường nhiều hơn.
Như vậy, so với điều kiện bảo hiểm FPA thì điều kiện bảo hiểm WA có
phạm vi bảo hiểm rộng hơn và có áp dụng mức miễn thường.
c. Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro (AR – All Risks)
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
11
Phạm vi bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm AR ngoài các rủi ro tổn thất và chi
phí của điều kiện bảo hiểm WA thì còn mở rộng thêm các rủi ro phụ.
Người bảo hiểm không áp dụng mức miễn thường.
Như vậy, trong ba điều kiện bảo hiểm theo ICC 1963, chủ hàng đều có trách
nhiệm chứng minh tổn thất là thuộc rủi ro được bảo hiểm. Nhưng điều kiện bảo
hiểm AR có phạm vi bảo hiểm rộng nhất, vì vậy người mua bảo hiểm không cần
tham gia bảo hiểm các rủi ro phụ, điều kiện bảo hiểm AR không phân biệt TTTB và
TTBP như hai điều kiện bảo hiểm FPA và WA. Chỉ điều kiện bảo hiểm WA có áp
dụng mức miễn thường.
So với các điều kiện bảo hiểm cũ, các điều kiện bảo hiểm mới trình bày rõ
ràng, dễ hiểu hơn. Tên gọi của các điều kiện bảo hiểm là C, B, A thay cho các tên
gọi cũ FPA, WA, AR nên dễ nhớ, dễ sử dụng hơn. Nội dung cụ thể của các điều
kiện bảo hiểm mới như sau:
1.3.3.2. Nội dung cơ bản của ICC 01/01/1982.
a. Điều kiện bảo hiểm C (ICC C)
- Phạm vi bảo hiểm theo điều kiện C bao gồm:
+ Tổn thất hay tổn hại của hàng hoá được bảo hiểm có nguyên nhân hợp lý do
cháy hoặc nổ; tàu bị mắc cạn, chìm đắm, bị lật, đâm va, dỡ hàng tại cảng lánh nạn.

+ TTC.
+ Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản hai
tàu đâm va nhau đều có lỗi.
- Các rủi ro loại trừ bao gồm:
+ Tổn thất hay tổn hại do hành vi xấu, cố ý của người dược bảo hiểm.
+ Rò rỉ, hao hụt thông thường về trọng lượng, khối lượng hoặc hao mòn tự
nhiên của đối tượng được bảo hiểm.
+ Do nội tỳ hoặc bản chất của hàng hóa.
+ Tổn thất hoặc tổn hại do đóng gói bao bì không đủ điều kiện, không thích hợp.
+ Tổn thất hoặc tổn hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm trễ.
+ Tổn thất hoặc tổn hại do không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính
của chủ tàu, người quản lý, người thuê tàu hoặc người khai thác tàu.
+ Tổn thất hoặc tổn hại do việc sử dụng bất kỳ một loại vũ khí chiến tranh
nào có dùng phản ứng hạt nhân, phản ứng hoá học, chất phóng xạ …
+ Thiệt hại cố ý hoặc sự phá hoại cố ý đối tượng được bảo hiểm do hành
động phạm pháp của bất kỳ người nào.
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
12
+ Do tàu không đủ khả năng đi biển, hoặc không thích hợp cho việc vận
chuyển hàng hoá mà người được bảo hiểm đó biết tình trạng đó vào lúc hàng hoá
được xếp lên phương tiện vận tải.
+ Tổn thất xảy ra do chiến tranh, nội chiến, bạo loạn, hành động thù địch,
tịch thu, bắt giữ, quản chế, giam cầm…
+ Tổn thất do mìn, thuỷ lôi, bom và các loại vũ khí chiến tranh khác.
+ Tổn thất được gây ra bởi người đình công, những người tham gia gây rối
loạn lao động, bạo loạn hoặc nổi loạn.
+ Tổn thất xảy ra do bạo động chính trị, động cơ chính trị.
Trách nhiệm chứng minh tổn thất thuộc về người được bảo hiểm (chủ hàng).
b. Điều kiện bảo hiểm B (ICC B)

Theo điều kiện này, ngoài các rủi ro được bảo hiểm theo điều kiện C, DNBH
còn bồi thường tổn thất hay tổn hại đối với hàng hoá được bảo hiểm do động đất,
núi lửa, sét đánh; bị nước biển cuốn khỏi tàu, nước biển, nước sông, hồ xâm nhập
vào hầm tàu, vào côngtennơ hoặc nơi để hàng, tổn thất nguyên kiện hàng trong quá
trình xếp dỡ, chuyển tải.
Người bảo hiểm có áp dụng mức miễn thường giống điều kiện bảo hiểm WA
(ICC 1963), nhưng không phân biệt TTTB và TTBP.
c. Điều kiện bảo hiểm A (ICC A)
Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi rộng nhất, bảo hiểm tất cả những hư
hỏng, mất mát của hàng hoá, kể cả rủi ro cướp biển, chỉ trừ những rủi ro loại trừ
theo quy định và không áp dụng mức miễn thường.
Trong điều kiện bảo hiểm A, rủi ro cướp biển là phạm vi bảo hiểm rộng hơn
điều kiện bảo hiểm AR (ICC 1963).
Như vậy, ba điều kiện bảo hiểm C, B, A theo ICC 1982 đều không phân
biệtTTTB và TTBP, chủ hàng đều có trách nhiệm chứng minh tổn thất là thuộc rủi
ro được bảo hiểm. Nhưng điều kiện bảo hiểm A có phạm vi bảo hiểm rộng nhất và
chỉ điều kiện bảo hiểm B có áp dụng mức miễn thường.
Các điều kiện bảo hiểm C, B, A có hiệu lực từ ngày 01/04/1983 và hiện nay
được áp dụng rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới.
d. Bảo hiểm đình công
Theo điều kiện bảo hiểm này, chỉ bảo hiểm cho những mất mát, hư hỏng của
hàng hoá được bảo hiểm do:
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
13
- Người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gia gây
rối loạn lao động, bạo động hoặc nổi dậy.
- Hành động khủng bố hoặc vì mục đích chính trị.
- TTC và chi phí cứu nạn.
Người bảo hiểm chỉ bồi thường những tổn thất do hành động trực tiếp của

người đình công mà không chịu trách nhiệm về những thiệt hại do hậu quả của đình
công.
e. Bảo hiểm chiến tranh
Theo điều kiện bảo hiểm này, người bảo hiểm phải bồi thường những mất mát, hư
hỏng của hàng hoá do:
Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự
xảy ra từ những biến cố đó hoặc bất kỳ hành động thù địch nào.
Chiếm đoạt, bắt giữ, kiềm chế hoặc cầm giữ.
Mìn, thuỷ lụi, bom hoặc các vũ khí chiến tranh khác.
TTC và chi phí cứu nạn
Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm đối với rủi ro chiến tranh hẹp hơn
các rủi ro thông thường. Bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực khi hàng hoá được xếp lên
tàu biển và kết thúc khi được dỡ khỏi tàu tại cảng cuối cùng hoặc khi hết hạn 15
ngày. Nếu có chuyển tải, bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi hết hạn 15
ngày kể từ nửa đêm ngày tàu đến cảng chuyển tải.
Đối với rủi ro do mìn và ngư lôi, trách nhiệm của người bảo hiểm được mở
rộng ra cả khi hàng hoá còn ở trên xà lan để vận chuyển ra tàu hoặc từ tàu vào bờ
nhưng không vượt quá 60 ngày kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu, trừ khi có thoả thuận
đặc biệt khác.
1.3.3.3. Điều kiện bảo hiểm ở Việt Nam
Ngoài các điều kiện bảo hiểm theo ICC 1982, hiện nay trên thị trường bảo
hiểm Việt Nam đang áp dụng các điều kiện bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng
đường biển, có thể áp dụng cho cả việc bảo hiểm hàng hoá vận chuyển nối tiếp bằng
đường bộ, đường sông hoặc đường hàng không. Nội dung của các điều kiện bảo
hiểm đó là:
a. Điều kiện bảo hiểm C
Theo điều kiện bảo hiểm này, người bảo hiểm chịu trách nhiệm đối với:
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
14

- Những mất mát, hư hỏng xảy ra cho hàng hoá được bảo hiểm có thể quy hợp
lý cho các nguyên nhân sau:
+ Cháy hoặc nổ
+ Tàu hay sà lan bị mắc cạn, đắm hoặc lật úp
+ Tàu đâm va nhau hoặc tàu, sà lan hay phương tiện vận tải đâm va phải bất
kỳ vật thể
+ Dỡ hàng tại một cảng nơi tàu gặp nạn
+ Phương tiện vận tải đường bộ bị lật đổ hoặc trật bánh
- Những mất mát, hư hỏng xảy ra cho hàng hoá được bảo hiểm do các nguyên
nhân sau gây ra:
+ Hy sinh TTC
+ Ném hàng khỏi tàu
- Hàng hoá được bảo hiểm bị mất do tàu hoặc phương tiện chở hàng mất tích.
- Các tổn thất và chi phí sau:
+ TTC và chi phí cứu hộ được điều chỉnh hay xác định bằng hợp đồng chuyên
chở hoặc theo luật pháp và tập quán hiện hành.
+ Những chi phí và tiền công hợp lý mà người được bảo hiểm, người làm
công hay đại lý của họ đó chi ra nhằm phòng tránh hoặc giảm nhẹ tổn thất cho hàng
hoá được bảo hiểm để đòi bồi thường và kiện người chuyên chở, người nhận ủy
thác hàng hoá hay người thứ ba nào khác, với điều kiện những chi phí và tiền công
này phải được giới hạn trong phạm vi những tổn thất thuộc trách nhiệm của người
bảo hiểm.
+ Những chi phí hợp lý cho việc dỡ hàng, lưu kho và gửi tiếp hàng hoá được
bảo hiểm tại cảng dọc đường hay cảng lánh nạn do hậu quả của một rủi ro thuộc
phạm vi HĐBH.
+ Những chi phí hợp lý cho việc giám định và xác định số tổn thất mà người
bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường.
+ Phần trách nhiệm thuộc điều khoản “Tàu đâm va nhau đôi bên cùng chịu
trách nhiệm” ghi trong hợp đồng vận chuyển.
Điều kiện bảo hiểm C có thể áp dụng cho hàng xếp trên boong tàu phù hợp

với tập quán thương mại.
Người tham gia bảo hiểm có thể mua bảo hiểm các rủi ro phụ như: Rủi ro trộm
cắp hoặc không giao hàng, tổn thất do những hành vi ác ý hay phá hoại gây ra, hư hại do
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
15
nước mưa, nước ngọt, do đọng hơi nước và hấp hơi nóng, va đập phải hàng hoá khác, rỉ
và oxy hóa; vỡ, cong hoặc bẹp, thiếu hụt hàng hoá hư hại do móc cẩu hàng, …
Ngoài ra, trừ khi có thoả thuận khác, trong cả ba điều kiện bảo hiểm đều áp
dụng các rủi ro loại trừ chung sau:
- Mất mát, hư hỏng hay chi phí gây ra bởi:
+ Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, khởi nghĩa, phản loạn hoặc quần chúng
nổi dậy khi xảy ra những biến cố này hoặc do bất kỳ hành động thù địch nào khác
của một thế lực tham chiến hay chống lại thế lực đó.
+ Việc chiếm, bắt giữ, cầm giữ tài sản hoặc kiềm chế (trừ khi do cướp biển và
áp dụng điều kiện bảo hiểm A) và hậu quả hay bất kỳ mưu toan nào phát sinh từ
những sự việc này
+ Mìn, thuỷ lụi, bom hay những vũ khí chiến tranh khác đang trôi dạt
- Những mất mát, hư hỏng hay chi phí do:
+ Những người đình công hay công nhân bị cấm xưởng gây ra hoặc do những
người tham gia các vụ gây rối trong lao động, làm náo loạn hoặc bạo động gây ra.
+ Phát sinh từ những cuộc đình công, cấm xưởng, những vụ gây rối trong lao
động, phản loạn hoặc bạo động.
+ Bất kỳ kẻ khủng bố nào hoặc bất kỳ người nào đang hành động vì một lý do
chính trị nào gây ra.
- Những mất mát, hư hỏng hay chi phí phát sinh từ việc sử dụng bất kỳ một loại vũ
khí chiến tranh nào có sử dụng năng lượng nguyên tử, hạt nhân hoặc phóng xạ
- Những mất mát, hư hỏng hay chi phí do khuyết tật vốn có hoặc do tính chất
riêng của loại hàng được bảo hiểm.
- Hàng hoá hay một bộ phận của hàng hoá bị hư hại hay bị phá huỷ có chủ

tâm do hành động sai lầm của bất kỳ người nào gây ra (trừ khi mua bảo hiểm theo
điều kiện bảo hiểm A).
- Những mất mát, hư hỏng hay chi phí do:
+ Việc làm xấu cố ý của người được bảo hiểm.
+ Các nguyên nhân trực tiếp do chậm trễ.
+ Tàu hoặc sà lan không đủ khả năng đi biển và do tàu, sà lan, phương tiện
vận chuyển hoặc công-ten-nơ không thích hợp cho việc chuyên chở an toàn nếu
người được bảo hiểm hoặc người làm công cho họ được biết về trạng thái đó vào
thời gian bốc xếp hàng hoá.
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
16
+ Việc đóng gói hoặc chuẩn bị hàng hoá được bảo hiểm không đầy đủ hoặc
không thích hợp và do việc xếp hàng hỏng lên tàu.
+ Hàng hoá được bảo hiểm bị rò chảy thông thường, hao hụt trọng lượng hay
giảm thể tích thông thường hoặc hao mòn tự nhiên.
+ Những mất mát, hư hỏng hay chi phí phát sinh do chủ tàu, người quản lý, người
thuê hay người điều hành tàu không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính gây ra.
+ Xếp hàng quá tải hoặc xếp hàng sai quy cách, không đảm bảo an toàn cho
hàng hoá khi vận chuyển.
b. Điều kiện bảo hiểm B.
Phạm vi điều kiện bảo hiểm B bao gồm các rủi ro tổn thất và chi phí của điều
kiện bảo hiểm C và mở rộng thêm: Động đất, núi lửa phun hoặc sét đánh, nước
biển, nước hồ hay nước sông chảy vào tàu, sà lan, hầm hàng, phương tiện vận tải,
công-ten-nơ hoặc nơi chứa hàng; tổn thất toàn bộ nguyên kiện hàng do rơi khỏi tàu
hoặc trong quá trình xếp dỡ, chuyển tải.
Theo điều kiện bảo hiểm B, người được bảo hiểm cũng có thể mua thêm rủi
ro phụ giống điều kiện bảo hiểm C, nhưng không được mua bảo hiểm cho hàng xếp
trên boong tàu.
c. Điều kiện bảo hiểm A

Trong điều kiện bảo hiểm A, người bảo hiểm chịu trách nhiệm về mọi rủi ro
gây ra mất mát, hư hỏng cho hàng hoá được bảo hiểm, trừ những trường hợp quy
định trong rủi ro loại trừ chung.
Như vậy, đây là điều kiện bảo hiểm rộng nhất, vì vậy người được bảo hiểm
không cần mua thêm rủi ro phụ như điều kiện bảo hiểm C và B. Hơn nữa, điều kiện
bảo hiểm A cũng không được áp dụng cho hàng xếp trên boong tàu.
1.3.4. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.
1.3.4.1. Giá trị bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm (GTBH) là giá trị thực tế của lô hàng, thường là giá CIF, bao
gồm: Giá hàng hoá, cước phí vận chuyển, phí bảo hiểm và các chi phí liên quan
khác. Công thức xác định:
V = C + I + F
Trong đó: V- giá trị bảo hiểm của hàng hóa.
C- giá hàng tại cảng đi (giá FOB).
I- phí bảo hiểm.
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
17
F- cước phí vận tải.
Ngoài ra để thoả mãn nhu cầu của người tham gia bảo hiểm, đối với hàng
thương mại, người bảo hiểm có thể nhận bảo hiểm thêm cả phần lãi dự tính, tức
mức chênh lệch giữa giá mua ở cảng đi và giá bán ở cảng đến.
Nếu GTBH không chỉ tính bằng giá CIF mà còn thêm phần lãi dự tính (tối đa
là 10% giá CIF), nghĩa là GTBH của hàng lớn nhất bằng 110% CIF.
Công thức xác định giá CIF:
CIF =
R
FC



1
Trong đó: C (Cost) – Giá hàng được tính bằng giá FOB ở cảng đi;
F (Freight) - Cước phí vận chuyển;
R (Rate) - Tỷ lệ phí bảo hiểm.
GTBH được xác định theo công thức:
V =
R
FC


1
hoặc
().(1)
1
CFa
V
R



Trong đó: V - Giá trị bảo hiểm;
F - Cước phí vận chuyển;
C - Giá FOB của hàng hóa;
a - Số % lãi dự tính;
R - Tỷ lệ phí bảo hiểm.
1.3.4.2. Số tiền bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm (STBH) là số tiền được đăng ký bảo hiểm, ghi trong hợp
đồng bảo hiểm. STBH được xác định dựa trên cơ sở GTBH.
Hoá đơn hàng là tài liệu chắc chắn nhất để xác định GTBH của hàng hoá.
- Nếu STBH bằng GTBH, đó là “bảo hiểm ngang giá trị”, còn gọi là “bảo

hiểm toàn phần”
- Nếu STBH cao hơn GTBH, đó là “ bảo hiểm trên giá trị”, còn gọi là “bảo
hiểm vượt mức”
- Nếu STBH thấp hơn GTBH, đó là “ bảo hiểm dưới giá trị”, còn gọi là “bảo
hiểm dưới mức”.
Trong thực tế, chủ hàng thường bảo hiểm ngang giá trị.
1.3.4.3. Phí bảo hiểm.
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
18
Phí bảo hiểm là một khoản tiền do người tham gia bảo hiểm nộp cho người
bảo hiểm để hàng hoá được bảo hiểm. Phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở
GTBH hoặc STBH và tỷ lệ phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm (P) được xác định như sau:
P = S
b
* ( a + 1 ) * R
Trong đó: S
b
– STBH;
a - Số phần trăm lãi dự tính;
R - Tỷ lệ phí bảo hiểm.
Trong thực tế, chủ hàng thường mua bảo hiểm ngang giá trị nên PBH được
xác định theo công thức:
P = CIF * R (nếu không bảo hiểm lãi dự tính).
hoặc: P = CIF ( a + 1 ) * R ( nếu bảo hiểm thêm lãi dự tính a).
Tỷ lệ PBH được ghi trong HĐBH theo thoả thuận giữa người bảo hiểm và
người tham gia bảo hiểm.
Tỷ lệ PBH phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Loại hàng hoá: Hàng dễ bị tổn thất như dễ vỡ, dễ bị mất cắp thì tỷ lệ phí bảo
hiểm sẽ cao hơn.

- Loại bao bì: Bao càng chắc chắn, tỷ lệ phí bảo hiểm càng hạ;
- Phương tiện vận chuyển: Hàng được chở trên tàu trẻ có tỷ lệ phí bảo hiểm
thấp hơn hàng được chở bằng tàu già.
- Hành trình: Tỷ lệ phí tăng lên đối với những hành trình có nhiều rủi ro (theo
thống kê kinh nghiệm) hoặc hành trình qua các vùng cú xung đột vũ trang …
- Điều kiện bảo hiểm: Điều kiện bảo hiểm có phạm vi càng hẹp thì tỷ lệ phí
bảo hiểm càng thấp.
Trong một số trường hợp có nguy cơ gia tăng rủi ro (ví dụ: Hàng được vận
chuyển trên tàu già…), tỷ lệ bảo hiểm bao gồm hai phần như sau:
R = R
gốc
+ R
phụ
Với: R
gốc
: Tỷ lệ phí gốc;
R
phụ
: Tỷ lệ phí phụ (phụ thuộc vào tuổi tàu, quốc tịch tàu, bảo
hiểm chiến tranh…)
Như vậy, thực chất phí bảo hiểm gồm hai phần:
Phí gốc:
P
gốc
= S
b
* R
gốc
Phí phụ: Ví dụ trường hợp phát sinh phụ phí tàu già:
P

tàu già
= S
b
* R
tàu già
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
19
Trong đó: S
b
– STBH
Lúc này: P
tổng cộng
= P
gốc
+ P
tàu già
Các bộ luật và quy tắc bảo hiểm hàng hải đề lưu ý HĐBH chỉ có hiệu lực
ngay sau khi PBH được trả, DNBH có quyền huỷ HĐBH nếu người bảo hiểm
không thực hiện đúng nghĩa vụ trả PBH hoặc có quyền từ chối bồi thường khi rủi ro
xảy ra.
1.3.5. Hợp đồng BH HHXNK vận chuyển bằng đường biển
Hợp đồng BH HHXNK vận chuyển bằng đường biển là một văn bản, trong
đó DNBH cam kết sẽ bồi thường cho người tham gia bảo hiểm các tổn thất của
hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm đó ký kết, còn người tham gia bảo hiểm cam
kết trả PBH.
HĐBH có hai loại: HĐBH chuyến và HĐBH bao.
a. HĐBH chuyến
HĐBH chuyến là HĐBH cho một chuyến hàng chuyên chở từ địa điểm này
đến địa điểm khác ghi trong HĐBH. Công ty bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về hàng

hoá trong phạm vi một chuyến.
HĐBH chuyến thường được trình bày dưới hình thức đơn bảo hiểm hay giấy
chứng nhận bảo hiểm do DNBH cấp. Đơn bảo hiểm chính là một HĐBH chuyến
đầy đủ. Nội dung gồm hai phần: Mặt trước và mặt sau của đơn bảo hiểm. Mặt trước
thường ghi các chi tiết về hàng, tàu, hành trình. Mặt sau thường ghi các điều lệ hay
quy tắc bảo hiểm của DNBH. Nội dung HĐBH chủ yếu bao gồm:
- Ngày cấp đơn bảo hiểm
- Nơi ký kết HĐBH
- Tên và địa chỉ của người mua bảo hiểm
- Tên hàng được bảo hiểm
- Quy cách đóng gói, loại bao bì và ký mã hiệu của hàng
- Số lượng, trọng lượng của hàng
- Tên tàu hoặc phương tiện vận chuyển hàng
- Cách xếp hàng trên tàu
- Cảng khởi hành, cảng chuyển tới và cảng cuối. Trong trường hợp nơi đến
của hàng ghi trong đơn bảo hiểm là một điểm nằm sâu trong nội địa, nghĩa là sau
khi đến cảng cuối, phải chuyển tiếp hàng bằng phương tiện khác đến điểm đó định
và đến đây mới hết trách nhiệm của DNBH, thì phải tăng thêm phụ phí bảo hiểm vì
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
20
ngoài rủi ro hàng hải còn có thêm rủi ro trên đoạn đường phụ trong toàn bộ hành
trình được bảo hiểm.
- Ngày tàu khởi hành
- Giá trị bảo hiểm (GTBH) và số tiền bảo hiểm (STBH)
- Điều kiện bảo hiểm
- Phí bảo hiểm
- Địa chỉ của giám định viên bảo hiểm
- Phương thức và địa điểm trả tiền bồi thường, do người được bảo hiểm chọn
- Số bản đơn được phát hành.

b. HĐBH bao (HĐBH mở)
HĐBH bao là HĐBH cho một khối lượng hàng vận chuyển trong nhiều
chuyến kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định ( thường là một năm) hoặc nhận
bảo hiểm cho một lượng hàng vận chuyển nhất định ( không kể đến thời gian).
Nội dung bao gồm: Nguyên tắc chung, phạm vi trách nhiệm, tên hàng được
bảo hiểm, việc đóng gói hàng, loại phương tiện vận chuyển, cách tính GTBH và
STBH tối đa cho mỗi chuyến hàng, điều kiện bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm và thanh
toán phí bảo hiểm, giám định, khiếu nại đòi bồi thường, hiệu lực của hợp đồng, xử
lý tranh chấp… Trong hợp đồng, phải có ba điều kiện cơ bản sau:
- Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hoá sẽ được bảo hiểm:
+ Tàu phải có cấp hạng cao và nếu do 10 hãng đăng kiểm nổi tiếng trên thế
giới cấp mới được chấp nhận một cách tuyệt đối.
+ Tàu phải có khả năng đi biển bình thường và tuổi tàu thấp (dưới 15 năm)
- Điều kiện về GTBH: Người được bảo hiểm phải kê khai giá trị hàng theo
từng chuyến về số kiện, giá CIF hoặc giá FOB, số hợp đồng mua bán, số thư tín
dụng (L/C), ngày mở và trị giá L/C, số vận đơn B/L…
- Điều kiện về quan hệ trên tinh thần thiện chí: Nghĩa là đã mua bảo hiểm
bao của người bảo hiểm nào thì trong thời gian đó người được bảo hiểm không
được phép mua bảo hiểm hàng hoá của người bảo hiểm khác.
Trong thời gian có hiệu lực của HĐBH bao, mỗi lần vận chuyển hàng hoá,
người tham gia bảo hiểm phải gửi giấy báo vận chuyển cho người bảo hiểm. Nếu có
thay đổi đặc biệt về số lượng, giá trị hàng… phải tiến hành ký kết HĐBH khác.
Sau khi cấp đơn bảo hiểm hoặc HĐBH, nếu người được bảo hiểm thấy cần
bổ sung, sửa đổi một số điều và DNBH đồng ý thì DNBH sẽ cấp giấy bảo hiểm bổ
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
21
sung. Giấy này cũng có giá trị như một đơn bảo hiểm, là một bộ phận được kèm
theo và không thể tách rời của đơn bảo hiểm ( hoặc HĐBH) ban đầu.
Ngoài ra đơn bảo hiểm có thể chuyển nhượng từ người đứng tên trong đơn

cho một người khác được hưởng quyền lợi của đơn bảo hiểm. Người được bảo
hiểm chỉ cần ký hậu vào đơn rồi trao lại đơn và các giấy tờ liên quan khác cho
người được nhượng. Ví dụ bán hàng theo giá CIF, người bán hàng sau khi mua bảo
hiểm cho hàng sẽ ký hậu vào đơn bảo hiểm rồi chuyển nhượng cho người mua.
1.3.6. Giám định và bồi thường tổn thất trong BH HHXNK vận chuyển
bằng đường biển
1.3.6.1. Nghĩa vụ của người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.
Khi phương tiện chở hàng bị tai nạn và đe dọa an toàn cho hàng hoá, người được
bảo hiểm phải có trách nhiệm thông báo cho các cơ quan liên quan nơi gần nhất như
cơ quan hàng hải, cơ quan bảo hiểm… để các cơ quan này có biện pháp theo dõi và
phòng bị cho tàu và hàng hóa.
Nếu được thông tin hay phát hiện thấy thực tế hàng hoá bị tổn thất thì người
được bảo hiểm cần làm ngay các việc sau: Thông báo cho người bảo hiểm biết và
nếu thấy tình hình hàng hóa tổn thất hoặc nghi ngờ có tổn thất thì cần làm giấy yêu
cầu đề nghị người bảo hiểm giám định ngay. Việc giám định hàng hoá bảo hiểm bị
tổn thất phải do người bảo hiểm tiến hành theo đơn đề nghị của người được bảo
hiểm. Nếu vụ tổn thất không được giám định viên của người bảo hiểm giám định thì
sẽ không được người bảo hiểm chấp nhận bồi thường.
Các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất:
- Thực ra việc đề phòng và hạn chế tổn thất cho hàng hóa nói chung trong
HĐBH là để chỉ những trường hợp hàng hoá bị rủi ro (thuộc phạm vi bảo hiểm như:
cháy, mắc cạn) đe doạ tàu khi tàu chở hàng đang trên đường hành trình hoặc neo
đậu tại bến cảng dọc đường.
- Bảo lưu quyền khiếu nại cho người bảo hiểm tức là làm đơn khiếu nại ngay
bên gây ra tổn thất cho hàng hoá và gọi là khiếu nại người thứ ba, người đứng ngoài
HĐBH. Ở đây cần lưu ý nếu người thứ ba là chủ tàu, người vận chuyển hoặc chủ
kho hàng đều có quy định riêng về thời gian cho phép khiếu nại theo luật trong
nước, luật quốc tế hay văn bản dưới luật.
Việc bảo vệ tài sản trước những tình huống có nguy cơ thuộc phạm vi trách
nhiệm của HĐBH đều đòi hỏi sự nỗ lực của cả hai bên và khi đó chưa cần xét đến

biện pháp giải quyết bồi thường của người bảo hiểm. Xuất phát từ đặc điểm này
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
22
người bảo hiểm có quy định việc người bảo hiểm tham gia vào các biện pháp cứu
hộ và bảo vệ hàng hoá đều không thể coi là dấu hiệu của sự khước từ hay chấp nhận
việc từ bỏ hàng hóa.
1.3.6.2. Khiếu nại đòi bồi thường
Trường hợp xảy ra rủi ro, người được bảo hiểm khiếu nại đòi bồi thường.
Các giấy tờ gửi cho người bảo hiểm bao gồm:
- Thư khiếu nại hoặc công văn khiếu nại;
- HĐBH và giấy sửa đổi bổ sung (nếu có) bản chính;
- Vận tải đơn (B/L) bản chính;
- Hoá đơn mua bán bản chính;
- Phiếu đóng gói bản chính;
- Biên bản giám định bản chính (trước khi xếp và (hoặc) dỡ hàng nếu có tại 2
đầu bến);
- Các chứng từ giao nhận hàng của cảng hoặc của cơ quan chức năng;
- Thông báo tổn thất;
- Hợp đồng vận chuyển;
- Hoá đơn, biên lai các chi phí khác;
Trường hợp các chứng từ trong bộ hồ sơ khiếu nại chưa làm sáng tỏ được tổn
thất có thuộc trách nhiệm bảo hiểm hay không, người bảo hiểm yêu cầu cung cấp
thêm các chứng từ sau:
- Hợp đồng mua bán;
- Thư tín dụng;
- Lược khai;
- Phiếu kiểm đếm;
- Biên bản giám định hàng XNK;
- Giấy chứng nhận xuất xứ hàng;

- Nhật ký hàng hải;
- Giấy chứng nhận đăng kiểm tàu;
- Các biên bản của công an, chính quyền cảng…
Sau khi kiểm tra chứng từ và thanh toán bồi thường, mọi khoản khiếu nại và
quyền khiếu nại của người được bảo hiểm đối với những người thứ ba đều được
chuyển cho người bảo hiểm mà giới hạn là số tiền đó bồi thường. Sau khi bồi
thường TTTB, người bảo hiểm có quyền thu hồi phần còn lại của hàng hóa đó được
bồi thường.
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
23
Người được bảo hiểm muốn khiếu nại TTTB ước tính cho hàng hoá được bảo
hiểm phải gửi thông báo từ bỏ hàng cho người bảo hiểm. Thông báo phải đưa ra không
chậm trễ với mục đích để cho người bảo hiểm có cơ hội giảm thiểu hay ngăn ngừa tổn
thất. Nếu người bảo hiểm chấp nhận thông báo từ bỏ hàng nghĩa là người bảo hiểm chấp
nhận trách nhiệm bồi thường như bồi thường TTTB thực tế và có quyền sở hữu phần còn
lại của hàng hóa. Việc từ bỏ hàng hóa không được thay đổi sau khi người bảo hiểm chấp
nhận thông báo từ bỏ hàng. Tuy nhiên trước khi người bảo hiểm chấp nhận thông báo từ
bỏ hàng, người được bảo hiểm phải có những biện pháp tích cực nhằm ngăn ngừa, hạn
chế tổn thất. Nếu người bảo hiểm không chấp nhận từ bỏ hàng, các quyền lợi của người
được bảo hiểm trong HĐBH vẫn không thay đổi.
1.3.6.3. Giám định và bồi thường tổn thất
Giám định là việc làm của người bảo hiểm hoặc người được uỷ thác nhằm
đánh giá, xác định nguyên nhân, mức độ và trách nhiệm đối với tổn thất của đối
tượng được bảo hiểm để làm cơ sở cho việc tính toán tiền bồi thường. Khi hàng hoá
được bảo hiểm bị tổn thất, yêu cầu giám định trong thời gian quy định. Sau khi
giám định xong, cán bộ giám định sẽ cấp chứng từ giám định, trong đó có xác định
mức độ tổn thất hoặc mức giảm giá trị thương mại của hàng hoá làm cơ sở cho việc
bồi thường.
Việc bồi thường tổn thất phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

- STBH là giới hạn tối đa của số tiền bồi thường của người bảo hiểm. Tuy
nhiên các khoản tiền sau (ngoài số tiền tổn thất) cũng được bồi thường như các chi
phí đó chi ra để cứu vớt hàng, chi phí cứu nạn, phí giám định, chi phí bán đấu giá
hàng bị hư, tiền đóng góp TTC dù tổng số tiền bồi thường vượt quá STBH.
- Bồi thường bằng tiền, không bồi thường bằng hiện vật. Thông thường nộp
phí bảo hiểm bằng loại tiền tệ nào, sẽ được bồi thường bằng loại tiền tệ đó.
- Khi trả tiền bồi thường, người bảo hiểm sẽ khấu trừ các khoản tiền mà
người được bảo hiểm đó đòi được ở người thứ ba. Sau đó, người bảo hiểm bồi
thường như sau:
Bồi thường tổn thất chung:
+ Người bảo hiểm bồi thường cho người được bảo hiểm phần đóng góp TTC
dù hàng được bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm nào. Nếu STBH thấp hơn giá trị
phải đóng góp vào TTC, người bảo hiểm chỉ bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền được
bảo hiểm và giá trị phải đóng góp vào TTC.
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
24
+ Không bồi thường trực tiếp cho người được bảo hiểm mà thanh toán cho
người tính toán TTC do người chuyên chở chỉ định.
+ STBH này được cộng thêm hay khấu trừ phần chênh lệch giữa số tiền thực
tế đó đóng góp vào TTC và số tiền phải đóng góp vào TTC.
Bồi thường tổn thất riêng:
+ Đối với TTTB thực tế: Bồi thường toàn bộ STBH;
+ Đối với TTTB ước tính: Bồi thường toàn bộ STBH nếu người được bảo
hiểm từ bỏ hàng. Trường hợp người được bảo hiểm không từ bỏ hàng hoặc xin từ
bỏ nhưng người bảo hiểm không chấp nhận, sẽ bồi thường theo mức độ tổn thất
thực tế.
+ Đối với TTBP: Bồi thường số kiện, số bao hàng bị thiếu, mất hay giá trị
trọng lượng số hàng bị thiếu, mất hoặc bồi thường theo mức giảm giá trị thương mại
của phần hàng bị tổn thất.

Ngoài ra, nếu trong HĐBH HHXNK có ấn định mức miễn thường của
DNBH thì khi tổn thất xảy ra, xác định số tiền bồi thường đối với giá trị hàng hóa bị
tổn thất phải xét đến mức miễn thường này.
Mức miễn thường là một tỷ lệ miễn giảm trách nhiệm bồi thường của người
bảo hiểm khi tổn thất xảy ra đối với hàng hoá được bảo hiểm.
Có 2 loại miễn thường: Miễn thường có khấu trừ và miễn thường không khấu
trừ. Theo HĐBH có áp dụng miễn thường có khấu trừ x%, nếu tổn thất xảy ra vượt
quá x% STBH thì người bảo hiểm sẽ bồi thường phần tổn thất vượt quá đó. Theo
HĐBH có áp dụng miễn thường không khấu trừ x%, nếu tổn thất vượt quá x%
STBH thì người bảo hiểm sẽ bồi thường toàn bộ tổn thất.
Cần lưu ý rằng trong cả 2 trường hợp miễn thường, nếu tỷ lệ tổn thất không
vượt quá tỷ lệ miễn thường thì DNBH sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường tổn
thất.
1.4. Tái bảo hiểm trong BH HHXNK vận chuyển bằng đường biển
Tái bảo hiểm là sự phân chia rủi ro mà nhà bảo hiểm phải gánh chịu cho
những nhà bảo hiểm khác. Mục đích của tái bảo hiểm là nhằm phân tán rủi ro và
giảm bớt trách nhiệm bồi thường của DNBH gốc trong trường hợp có tổn thất xảy
ra, đảm bảo số tiền bồi thường không vượt khả năng dự trữ tài chính của các
DNBH.
Bản chất của tái bảo hiểm:
- Là sự phân tán rủi ro giữa các nhà bảo hiểm với nhau
SVTH: Nguyễn Thị Loan Khoa: Bảo hiểm
GVHD: ThS. Tô Thị Thiên Hương Chuyên đề thực tập
25
- Tái bảo hiểm theo luật số lớn.
- Tái bảo hiểm là hoạt động mang tính quốc tế cao.
Trong khi tiến hành kinh doanh các nghiệp vụ, DNBH phải xác định mức độ
rủi ro về mặt tài chính có thể đảm đương trong mỗi sự cố tổn thất. Khi đạt tới giới
hạn hay mức giữ lại công ty sẽ phải thu xếp chuyển phần vượt mức cho nhà nhận tái
bảo hiểm. Nhờ có phương pháp tái bảo hiểm, mỗi đơn vị rủi ro được đem chia nhỏ

thành nhiều phần, trách nhiệm thuộc về DNBH gốc chỉ là một phần trên toàn bộ giá
trị của đơn vị rủi ro đó, các phần còn lại được phân tán cho DNBH hay công ty tái
bảo hiểm khác. Cách thức tiến hành này nhằm phát huy cao nhất của quy luật số
đông trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Đặc điểm kinh doanh của nghiệp vụ BH HHXNK vận chuyển bằng đường
biển có đối tượng được bảo hiểm có giá trị rất cao, đó là những lô hàng hóa xuất
nhập khẩu được vận chuyển trong một hành trình tương đối dài ngày chịu sự tác
động rất lớn của các yếu tố khách quan nên thường xuyên bị tổn thất. Vì vậy, hoạt
động tái bảo hiểm trong BH HHXNK vận chuyển bằng đường biển cần phải được
quan tâm và chú trọng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ.
1.5. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BH
HHXNK vận chuyển bằng đường biển
Ngày nay khi Việt Nam đó gia nhập WTO trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới. Sự lưu chuyển hàng hóa giữa các nước ngày càng tăng cao,
thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nghiệp vụ BH HHXNK. Không những vậy, các
DNBH trong nước ngày càng tăng và lớn mạnh, cùng với đó là sự tham gia của các
DNBH nước ngoài với lợi thế về tiềm lực tài chính và kinh nghiệm. Từ đó bắt buộc
các công ty bảo hiểm phải nghĩ đến việc lựa chọn kinh tế, lựa chọn hình thức kinh
doanh, sản phẩm tối ưu, sử dụng lao động cũng như chi phí để để tạo ra doanh thu,
hạn chế rủi ro, tổn thất. Sự lựa chọn đúng đắn đó sẽ mang lại cho DNBH hiệu quả
kinh tế cao, thu được nhiều lợi nhuận. Sự cạnh tranh giữa các sản phẩm bảo hiểm
ngày càng gay gắt do vậy doanh nghiệp nào có mức phí bảo hiểm, chất lượng dịch
vụ, cũng như tiềm lực tài chính thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển, chứng
tỏ hiệu quả kinh tế kinh doanh của họ là cao.
Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BH HHXNK vận chuyển bằng
đường biển chính là điều kiện tồn tại và phát triển của chính nghiệp vụ đó, cũng như
củaDNBH. Để có thể nâng cao hiệu quả hoạt kinh doanh thì DNBH phải luôn nâng
cao chất lượng hàng hoá, phí bảo hiểm hợp lý, đề phòng, hạn chế tổn thất, nhằm

×