Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ KHU VỰC TÂY BẮC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.97 KB, 77 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BỘ MÔN BẢO HIỂM
------------------------
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
§Ò tµi:
THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ
XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ KHU VỰC TÂY BẮC
Gi¸o viªn híng dÉn : GS.TS NGUYỄN VĂN ĐỊNH
Sinh viªn thùc hiÖn : NGUYỄN THỊ NINH GIANG
Líp : BẢO HIỂM 45A
Hµ néi - 04/2007
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHDK Bảo hiểm dầu khí
CBCNV Cán bộ công nhân viên
XNK Xuất nhập khẩu
HĐBH Hợp đồng bảo hiểm
GTBH Gía trị bảo hiểm
STBH Số tiền bảo hiểm
TTBP Tổn thất bộ phận
TTTB Tổn thất toàn bộ
TTC Tổn thất chung
TTR Tổn thất riêng
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
2
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa ngành ngoại thương của nước ta không
ngừng mở rộng, phát triển với sự giao lưu, hợp tác, buôn bán với các nước trong và


ngoài khu vực. Kim ngạch hàng hoá XNK của nước ta liên tục tăng trong những năm
gần đây, đạt mức tăng trưởng bình quân 18,2%/ năm, tăng gấp 2 lần so với tốc độ
tăng GDP của đất nước. Điều này đã chứng tỏ một tiềm năng rất lớn về hoạt động
XNK cũng như tạo một môi trường thuận lợi cho các doanh nghịêp bảo hiểm trong
nước khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK. Sự phát triển của nghiệp vụ
bảo hiểm hàng hóa XNK đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp XNK yên tâm mở
rộng quy mô hoạt động, đảm bảo được tình hình khả năng tài chính của doanh nghiệp
mình đồng thời cũng đẩy nhanh quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên,
một thực tế đáng buồn là ngành bảo hiểm nước nhà đã bỏ phí một lượng hàng hóa
khổng lồ tham gia bảo hiểm, bởi nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK lại chủ yếu
được nhường cho các Công ty bảo hiểm nước ngoài khai thác còn các Công ty trong
nước chỉ cạnh tranh nhau một phần rất nhỏ.Chính vì thế, làm thế nào để giành lại thị
phần khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK cũng như hạn chế lượng chảy máu
ngoại tệ hiện nay, là thách thức và khó khăn đối với các Công ty bảo hiểm Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận
chuyển bằng đường biển, trong thời gian thực tập tại phòng bảo hiểm hàng hải của
Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc, em đã tìm hiểu, nghiên cứu và lựa chọn đề tài : “
Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường
biển tại Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc” cho chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề, ngoài phần Mở đầu và Kết luận, có kết cấu như sau:
Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường
biển
Chương II: Phân tích thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK
vận chuyển bằng đường biển tại Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
3
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
Chương III: Một số giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK
vận chuyển bằng đường biển tại Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do điều kiện thời gian, kiến thức thực tế và

kinh nghiệm còn khá hạn chế nên chuyên đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em
rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong bộ môn Kinh tế bảo hiểm
cùng các anh, chị trong phòng bảo hiểm Hàng hải – Công ty bảo BHDK Khu vực Tây
Bắc để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em cũng xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình của thầy
giáo, GSTS. Nguyễn Văn Định và các anh, chị trong phòng bảo hiểm Hàng hải –
Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc đã cung cấp tài liệu và giúp đỡ em hoàn thành
chuyên đề tốt nghiệp này.
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
4
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HÓA XNK VẬN
CHUYỀN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
I. GIỚI THIỆU CHUNG
1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng
đường biển
Như chúng ta đã biết, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển đã có
từ lâu, nó ra đời và phát triển cùng với hàng hóa và hoạt động trao đổi buôn bán quốc
tế. Khoảng thế kỷ V trước Công nguyên giao lưu buôn bán giữa các quốc gia dần
hình thành, phát triển và cũng từ đó vận chuyển bằng đường biển đã ra đời. Vào thời
kì này để né tránh những tổn thất toàn bộ của mình con người đã tìm cách phân tán
hàng trên nhiều con thuyền khác nhau nhờ vậy mà nếu một thuyền không may bị đắm
thì chủ hàng cũng chỉ bị thiệt hại một phần trong tổng số hàng mà họ có, đây chính là
một cách phân tán rủi ro, tổn thất và đó là hình thức sơ khai của bảo hiểm. . Nhưng
càng ngày cùng với sự phát triển của thương mại và giao lưu hàng hóa đường biển thì
tổn thất lại xảy ra ngày càng lớn làm cho giới thương mại ngày càng lo lắng. Họ tập
trung nhau lại, thông báo tin tức về hành trình, tổn thất và tìm các biện pháp khắc
phục, đối phó với những tổn thất nặng nề có khả năng dẫn đến phá sản nên các
thương nhân đi vay vốn để buôn bán. Nếu hành trình gặp rủi ro xảy ra tổn thất toàn

bộ thì họ sẽ được xóa nợ còn nếu hành trình may mắn trót lọt thì ngoài phần vốn phải
trả chủ nợ, các thương nhân còn phải trả một khoản lãi rất nặng. Và có thể hiểu lãi
suất vay nặng nề này là hình thức ban đầu của phí bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đường biển. Nhưng càng ngày thì tổn thất xảy ra càng nhiều làm cho những
người cho vay vốn lâm vào tình trạng mạo hiểm, do đó một hình thức mới ra đời đó
là bảo hiểm .
Sau thế kỷ XIV, trên đà phát triển của thương mại hàng hải, ở Châu Âu đã dần
xuất hiện những luật lệ về bảo hiểm hàng hải với hàng loạt các thể lệ, công ước, hiệp
ước quốc tế liên quan đến thương mại và hàng hóa như: mẫu HĐBH Lloyd’s năm
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
5
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
1776 và Luật bảo hiểm của Anh năm 1906, Công ước Brucxen năm 1924, Quy tắc
Hague – Visby năm 1968, Hambuôc 1978, Incomterm 1953, 1980, 1990, 2000…
Và khi nói đến bảo hiểm hàng hải không thể không nói đến nước Anh, là một
trong những nước phát triển thương mại hàng hải sớm nhất thế giới. Ngay từ thế kỷ
XVII, nước Anh đã có ngành thương mại phát triển với đội tàu buôn mạnh nhất thế
giới và trở thành trung tâm giao lưu thương mại và buôn bán nhộn nhịp nhất. Nước
Anh cũng là nước sớm có những nguyên tắc, luật lệ hàng hải, bảo hiểm hàng hải như
mẫu HĐBH, Luật bảo hiểm hàng hải của Anh 1906, và đặc biệt là các điều kiện bảo
hiểm hàng hóa (ICC 1963, ICC 1982) do Viện những người bảo hiểm London (ILU)
ban hành. Những luật lệ, quy định về bảo hiểm hàng hải của Anh khá hoàn chỉnh và
được nhiều nước trên thế giới áp dụng trong đó có Việt Nam. Đặc biệt với sự hình
thành và phát triển của Lloyd’s có một ảnh hưởng rất lớn đối với ngành bảo hiểm của
thế giới nói chung và ngành bảo hiểm hàng hải nói riêng.
Bảo hiểm Việt Nam ra đời muộn hơn nhiều so với các nước trên thế giới nhưng
so với các nước ở Đông Nam Á thì bảo hiểm Việt Nam vẫn ra đời sớm hơn cả.
Vào thời kỳ Pháp thuộc (những năm 1920) cùng với sự ra đời của các Chi nhánh
công ty bảo hiểm Quốc gia Pháp, sau đó là của Ngân hàng thế giới, bảo hiểm hàng
hải cũng ra đời từ đó. Năm 1965 bảo hiểm Việt Nam bắt đầu đi vào hoạt động, Bộ tài

chính đã ban hành quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển
(QTC – 1965) và đến năm 1990 Bộ tài chính ban hành quy tắc chung mới (QTC –
1990).
Chính vì vậy, có thể thấy nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường
biển là một nghiêp vụ rất quan trọng và không thể thiếu trong bất kì nền kinh tế nào
nên hầu như ở mọi nước nó đều là nghiệp vụ bảo hiểm ra đời sớm nhất và chiếm một
vị trí quan trọng trong thương mại cũng như trong bảo hiểm của mỗi nước. Nó thực
sự cần thiết cho sự phát triển của mỗi quốc gia nói chung cũng như thương mại và
ngoại thương nói riêng.
2. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của bảo hiểm hàng hóa XNK vận
chuyển bằng đường biển
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
6
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
Từ lịch sử ra đời của bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, chúng ta
có thể khẳng định rằng không một quốc gia nào có thể xem nhẹ vai trò của nghiệp vụ
này. Tuy chỉ là một mảng trong hoạt động XNK nhưng thiếu nó, một quốc gia không
thể có nền ngoại thương hay thương mại hoạt động tốt được. Vì vậy, sự ra đời và tồn
tại của bảo hiểm hàng hóa là rất cần thiết và không thể phủ nhận được. Điều này xuất
phát từ các đặc điểm sau:
Thứ nhất, do đặc điểm của quá trình XNK hàng hóa
Thứ hai, do đặc điểm của vận tải biển:
- Vận tải biển có ưu điểm là giá thành vận chuyển rất thấp, năng lực chuyên chở
lại rất lớn (phương tiện là các tàu có sức chở lớn lại có thể chạy nhiều tàu trong cùng
một thời gian trên cùng một tuyến đường), năng suất lao động cao. Chi phí đầu tư
xây dựng các tuyến đường hàng hải thấp hầu hết là các tuyến đường giao thông tự
nhiên không đòi hỏi nhiều vốn, nguyên vật liệu, sức lao động để xây, duy trì bảo
quản. Mặt khác, vận chuyển bằng đường biển góp phần phát triển tốt mối quan hệ
kinh tế với các nước, thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại của Nhà nước, góp phần
tăng thu ngoại tệ…

- Tuy nhiên, nó lại có một số nhược điểm:Vận tải đường biển gặp rất nhiều rủi ro.
Các rủi ro này có thể do các yếu tố tự nhiên, yếu tố kỹ thuật hoặc yếu tố xã hội, con
người. Những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển thường gây ra những tổn
thất lớn cho hàng hóa. Tốc độ của tàu biển còn chậm, hành trình trên biển có thời
gian dài nên xác suất rủi ro càng cao.
- Trong quá trình vận chuyển, hàng hóa được người chuyên chở chịu trách nhiệm
chính. Nhưng trách nhiệm này rất hạn chế về thời gian, phạm vi và mức độ tuỳ theo
điều kiện giao hàng và hợp đồng vận chuyển
Thứ ba, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển đã có từ lâu đời và việc
mua bảo hiểm cho hàng hóa vận chuyển bằng đường biển đã trở thành tập quán
thương mại quốc tế.
Thứ tư, hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thì bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển cũng đạt đến sự
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
7
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
chuẩn hóa cao. Trong khi đó các loại hình bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng các
phương tiện khác chưa hình thành một phương thức chấp nhận chung và có xu hướng
dựa trên các HĐBH hàng hải ở mức độ cho phép.
Như vậy, bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển là một loại hình
bảo hiểm quan trọng và không thể tách rời hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế.
Những tác dụng mà bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển mang lại
rất lớn cũng giống như trong bảo hiểm nói chung:
- Có khả năng tập trung được nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế nhờ vào phí bảo
hiểm thu được, sau đó nguồn vốn này một phần được trích lập dự phòng và phần còn
lại đem đầu tư trở lại nền kinh tế mang lại những khoản thu lớn hơn vốn đầu tư ban
đầu.
- Nhờ có bồi thường, các tổ chức, cá nhân có thể nhanh chóng ổn định được sản
xuất kinh doanh, ổn định được cuộc sống. Dù khả năng tích luỹ của các công ty bảo
hiểm không lớn tuy nhiên họ lại có khả năng bảo hiểm cho những giá trị bồi thường

rất lớn thông qua hoạt động phân tán rủi ro như tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm.
- Thông qua việc giúp đỡ, nhắc nhở người tham gia bảo hiểm thực hiện các biện
pháp đề phòng hạn chế tổn thất, người tham gia bảo hiểm nâng cao được ý thức tự
bảo vệ hàng hóa, tài sản, tính mạng của mình đồng thời giảm thiểu thiệt hại khi có rủi
ro xảy ra, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
- Bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển được thực hiện ở trong
nước làm giảm chi ngoại tệ.
- Thúc đẩy nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển cũng
như ngành bảo hiểm trong nước nói chung phát triển là góp phần tạo việc làm, tăng
thu nhập cho người dân, tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
3. Đặc điểm của quá trình XNK hàng hóa vận chuyển bằng đường biển
và trách nhiệm của các bên có liên quan
3.1. Đặc điểm của quá trình XNK hàng hóa
Các quốc gia khác nhau có năng lực sản xuất là khác nhau và khi kinh tế càng
phát triển, cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao thì quá trình XNK
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
8
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
hàng hóa càng trở nên quan trọng và cần thiết. Hoạt động XNK hàng hóa đó chính là
việc hàng hóa từ quốc gia này có thể đến được quốc gia khác, đảm bảo lợi ích hai bên
nhập khẩu, xuất khẩu và của người thứ ba. Quá trình XNK hàng hóa có những đặc
điểm sau:
- Việc XNK hàng hóa thường được thực hiện thông qua hợp đồng giữa người
mua và người bán (ở hai nước khác nhau), trong đó có ghi rõ những nội dung về: số
lượng, phẩm chất, ký mã hiệu, quy cách đóng gói, giá cả hàng hóa, trách nhiệm thuê
tàu và cước phí, phí bảo hiểm thủ tục và đồng tiền thanh toán…Do các bên trong hợp
đồng có sự xa cách về địa lý và họ thường không áp tải được hàng hóa trong quá
trình vận chuyển nên việc làm này thông thường được giao cho các hãng tàu.
- Hàng hóa sau khi được trao đổi sẽ có sự chuyển quyền sở hữu từ người bán sang
người mua.

- Hàng hóa XNK được vận chuyển qua biên giới quốc gia nên phải chịu sự kiểm
soát của hải quan, kiểm dịch… tuỳ theo quy định của mỗi nước. Đồng thời để được
vận chuyển ra (hoặc vào) qua biên giới thì phải mua bảo hiểm theo tập quán thương
mại Quốc tế. Người tham gia bảo hiểm có thể là người bán hàng (người xuất khẩu)
hoặc người mua hàng (người nhập khẩu). Hợp đồng bảo hiểm thể hiện quan hệ giữa
người bảo hiểm và người mua bảo hiểm thì phải chuyển nhượng lại cho người mua
hàng để khi hàng về đến nước nhập, nếu bị tổn thất có thể đòi người bảo hiểm bồi
thường.
- Hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển phải thông qua người vận chuyển,
tức là cả người mua và người bán đều không trực tiếp kiểm soát được những tổn thất
có thể gây ra cho hàng hóa của mình. Và theo hợp đồng vận chuyển thì người vận
chuyển chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất hàng hóa trong một phạm vi, giới hạn nhất
định vì vậy để giảm rủi ro trong kinh doanh họ thường phải mua bảo hiểm cho hàng
hóa.
Quá trình XNK hàng hóa có liên quan đến nhiều bên, trong đó có bốn bên chủ yếu
là: người bán, người mua, người vận chuyển và người bảo hiểm. Vì thế phải phân
định rõ trách nhiệm của các bên liên quan.
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
9
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
3.2. Trách nhiệm của các bên có liên quan
Hoạt động XNK hàng hóa thường được thực hiện thông qua ba loại hơp đồng:
- Hợp đồng mua bán
- Hợp đồng vận chuyển
- Hợp đồng bảo hiểm
Ba loại hợp đồng này là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm các bên có liên
quan và trách nhiệm pháp lý này phụ thuộc vào điều kiện giao hàng của hợp đồng
mua bán. Theo các điều kiện thương mại quốc tế “INCOTERMS 2000” (International
Commercial terms) có 13 loại điều kiện giao hàng, được phân chia thành 4 nhóm E,
F, C, D như sau:

- Nhóm E: EXW giao hàng tại cơ sở của người bán
- Nhóm F: Cước vận chuyển chính chưa trả, gồm:
+ FCA (Free carrier) giao hàng cho người vận tải
+ FAS (Free alongside ship) giao hàng dọc mạn tàu
+ FOB (Free on board) giao hàng lên tàu
- Nhóm C: Cước vận chuyển chính đã trả, gồm:
+ CFR (Cost and freight) tiền hàng và cước phí
+ CIF (Cost insurance freigh) tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí
+ CPT (Carriage paid to) cước trả rồi
+ CIP (Carriage and insurance paid to) tiền cước và phí bảo hiểm trả tới
- Nhóm D: Nơi hàng đến, tức người bán giao hàng tại nước người mua, bao
gồm:
+ DAF (Delivered at frontier) giao hàng tại biên giới
+ DES (Delivered ex – ship) giao hàng tại tàu
+ DEQ (Delivered ex – quay) giao hàng tại cầu cảng
+ DDU (Delivered duty unpaid) giao hàng tại đích, chưa nộp thuế
+ DDP (Delivered duty paid) giao hàng tại đích, đã nộp thuế
Trong đó thông dụng nhất là điều kiện FOB, điều kiện CFR và điều kiện CIF.
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
10
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
Trong các điều kiện giao hàng, ngoài phần giá hàng, tùy theo từng điều kiện cụ
thể mà có thêm cước phí vận chuyển và phí bảo hiểm. Có những điều kiện giao hàng
mà người bán không có trách nhiệm thuê tàu vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng
(hoặc không có trách nhiệm mua bảo hiểm). Như vậy, tuy bán được hàng nhưng dịch
vụ vận chuyển và bảo hiểm sẽ do người mua đảm nhận (điều kiện FOB). Có trường
hợp giao hàng theo điều kiện mà ngoài việc xuất khẩu được hàng hóa, người bán còn
có trách nhiệm thuê tàu vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng (điều kiện CIF). Vì
vậy, nếu nhập khẩu hàng hóa theo điều kiện FOB, hay điều kiện CFR thì sẽ giữ được
dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm, hay chỉ dịch vụ bảo hiểm. Còn nếu bán hàng theo

giá CIF người bán cũng giữ được dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm, đồng thời sẽ góp
phần thúc đẩy sự phát triển của ngành vận chuyển bằng đường biển và ngành bảo
hiểm ở quốc gia đó.
Nói chung, trách nhiệm các bên có liên quan được phân định như sau:
- Người bán (người xuất khẩu): chuẩn bị hàng hóa theo đúng hợp đồng về số
lượng, chất lượng, loại hàng, bao bì đóng gói, thời hạn tập kết ở cảng; thủ tục hải
quan, kiểm dịch…
Nếu bán theo giá CIF, người bán phải mua bảo hiểm cho hàng hóa, sau đó ký vào
hậu đơn bảo hiểm để chuyển nhượng quyền lợi bảo hiểm cho người mua.
- Người mua (người nhập khẩu): có trách nhiệm nhận hàng của người chuyên chở
theo đúng số lượng, chất lượng đã ghi trong hợp đồng vận chuyển và hợp đồng mua
bán, lấy chứng nhận kiểm đếm, biên bản kết toán giao nhận hàng với chủ tàu, biên
bản hàng hóa hư hỏng đổ vỡ do tàu gây nên (nếu có).
Nếu sai lệch về số lượng, chất lượng với hợp đồng mua bán, nhưng đúng với hợp
đồng vận chuyển thì người mua bảo lưu quyền khiếu nại đối với người bán. Nếu
phẩm chất, số lượng sai lệch so với biên bản giao hàng thì người mua căn cứ vào
hàng hư hỏng đổ vỡ do tàu gây nên mà khiếu nại người vận chuyển.
Ngoài ra người mua còn có trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hóa hoặc nhận
từ người bán chuyển nhượng lại.
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
11
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
- Người vận chuyển: có trách nhiệm chuẩn bị phương tiện vận chuyển theo yêu
cầu kỹ thuật thương mại và kỹ thuật hàng hải, giao nhận hàng đúng quy định theo
hợp đồng vận chuyển. Theo tập quán thương mại quốc tế, tàu chở hàng cũng phải
được bảo hiểm.
Người vận chuyển còn có trách nhiệm cấp đơn cho người gửi hàng.
- Người bảo hiểm có trách nhiệm đối với hàng hóa được bảo hiểm: kiểm tra
chứng từ về hàng hóa, kiểm tra hành trình và bản thân con tàu vận chuyển…
Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, người bảo hiểm có trách

nhiệm tiến hành giám định, bồi thường tổn thất và đòi người thứ ba nếu họ gây ra tổn
thất này.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG
HÓA XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1. Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển
là hàng hóa XNK đang trong quá trình vận chuyển từ địa điểm này đến địa điểm khác
(bao gồm cả thời gian lưu kho, chờ xếp lên phương tiện vận chuyển, trung chuyển
hoặc chờ chủ hàng nhận lại hàng theo quy định của điều khoản bảo hiểm).
2. Người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm
Trong HĐBH hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển có thể người mua
hoặc người bán đứng ra mua bảo hiểm cho hàng hóa (người tham gia bảo hiểm). Tuy
vậy người được hưởng quyền lợi bảo hiểm thông thường là những người mua hàng
hóa đó. Nếu người bán (nhà XK) đứng ra mua bảo hiểm cho hàng hóa thì họ phải làm
một thủ tục ký hậu để chuyển quyền lợi bảo hiểm cho người mua (nhà NK).
Như vậy, người tham gia bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa XNK có thể là nhà
nhập khẩu cũng có thể là nhà xuất khẩu tùy theo điều kiện giao hàng của
“INCOTERMS”, nhưng người được bảo hiểm thường là người nhập khẩu.
3. Người bảo hiểm
Người bảo hiểm trong HĐBH hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển là
các công ty bảo hiểm đứng ra nhận bảo hiểm cho những rủi ro xảy ra đối với hàng
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
12
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
hóa XNK trong quá trình vận chuyển số hàng đó trên biển theo một hành trình đã
định (bao gồm cả thời gian lưu kho, chờ xếp lên phương tiện vận chuyển, trung
chuyển hoặc chờ chủ hàng nhận lại hàng theo quy định của điều khoản quy định).
4. Thời hạn bảo hiểm và thủ tục bảo hiểm
Thời hạn bảo hiểm là khoảng thời gian kể từ khi bắt đầu đến khi kết thúc trách
nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm, tức là khoảng thời gian liên tục tồn tại

trách nhiệm bảo hiểm. Việc quy định thời gian bảo hiểm là một vấn đề quan trọng
trong hợp đồng bảo hiểm nhằm xác định khoảng thời gian chịu trách nhiệm bảo hiểm
của doanh nghiệp bảo hiểm và đây là một trong các điều khoản cơ bản của hợp đồng
bảo hiểm.
Theo điều khoản bảo hiểm từ “kho đến kho”, trách nhiệm bảo hiểm bắt đầu từ khi
hàng hóa được bảo hiểm rời khỏi kho hoặc nơi chứa hàng tại địa điểm ghi trong hợp
đồng bảo hiểm và kết thúc khi giao hàng vào kho hoặc nơi chứa hàng cuối cùng của
người nhận hàng, hoặc một người khác tại nơi nhận có tên trong hợp đồng bảo hiểm,
hoặc khi giao hàng cho bất kỳ kho hay nơi chứa hàng nào khác, dù trước khi tới nơi
hay tại nơi nhận hàng ghi trong HĐBH mà người được bảo hiểm dùng làm nơi chứa
hàng ngoài hành trình vận chuyển bình thường; hoặc khi hết hạn 60 ngày kể từ thời
điểm hoàn thành việc dỡ hàng khỏi tàu biển, hoặc là xà lan, nếu có sự chậm trễ ngoài
sự kiểm soát của người được bảo hiểm; hoặc những trường hợp tàu di chệch hướng,
dỡ hàng bắt buộc, chuyển tải ngoại lệ hoặc thay đổi hành trình, bảo hiểm vẫn giữ
nguyên hiệu lực nhưng với điều kiện là phải thông báo ngay cho người bảo hiểm biết
về việc xảy ra hoặc về thay đổi đó.
Theo Quy tắc bảo hiểm của Hiệp hội bảo hiểm London năm 1982, thời hạn bảo
hiểm được quy định cụ thể trong các điều khoản vận chuyển, điều khoản kết thúc hợp
đồng vận chuyển, điều khoản thay đổi hành trình. Thời hạn bảo hiểm tính theo ngày
dương đối với hợp đồng bảo hiểm hàng hóa thường được tính bắt
đầu từ 0 giờ ngày bảo hiểm đầu tiên cho đến 24 giờ ngày hết hạn đã quy định. Thời
hạn bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa thông thường là một năm và đựơc
tính riêng cho từng chuyến hàng..
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
13
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
5. Gía trị bảo hiểm , số tiền bảo hiểm
5.1. Giá trị bảo hiểm (GTBH)
Giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế của lô hàng, thông thường là giá CIF, bao
gồm: giá hàng hóa, cước phí vận chuyển, phí bảo hiểm và các chi phí liên quan khác.

Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu của người tham gia bảo hiểm, đối với hàng thương
mại, người bảo hiểm có thể nhận bảo hiểm thêm cả phần lãi dự tính (tối đa là 10%
giá CIF), tức mức chênh lệch giữa giá mua ở cảng đi và giá bán ở cảng đến. GTBH
của hàng lớn nhất bằng 110% CIF.
+ Công thức xác định giá CIF:
Trong đó:
C (Cost) – giá hàng được tính bằng giá FOB ở cảng đi
F (Freigh) - cước phí vận chuyển
R (Rate) - tỷ lệ phí bảo hiểm
+ Nếu bảo hiểm cả lãi dự tính thì:
V =
R
aFC

++
1
)1).((
Trong đó:
V – giá trị bảo hiểm
F - cước phí vận chuyển
C – giá hàng hóa được xác định bằng giá FOB ở cảng bán
a - số phần trăm lãi dự tính
R - tỷ lệ phí bảo hiểm
5.2. Số tiền bảo hiểm (STBH)
STBH là số tiền được đăng ký bảo hiểm ghi trong HĐBH. Và được xác định dựa
trên cơ sở GTBH.
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
14
CIF =
R

FC

+
1
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
- Nếu STBH bằng GTBH thì đó là “bảo hiểm ngang giá trị” hay “bảo hiểm toàn
phần”
- Nếu STBH cao hơn GTBH thì đó là “bảo hiểm trên giá trị” hay “bảo hiểm vượt
mức”
- Nếu STBH thấp hơn GTBH thì đó là “bảo hiểm dưới giá trị” hay “bảo hiểm
dưới mức”
Trong thực tế, các chủ hàng thường mua bảo hiểm ngang giá trị.
6. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền do người tham gia bảo hiểm phải nộp cho người
bảo hiểm để hàng hóa được tiến hành bảo hiểm.
Phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở GTBH hoặc STBH và tỷ lệ phí bảo hiểm
theo công thức:
P = S
b
x (a+1) x R
Trong đó:
P – phí bảo hiểm
S
b
– STBH
a - số phần trăm lãi dự tính
R - tỷ lệ phí bảo hiểm
 Trường hợp khách hàng mua bảo hiểm ngang giá trị thì phí bảo hiểm được
tính theo công thức:
P = CIF x R (nếu không bảo hiểm lãi dự tính)

Hoặc: P = CIF x (a+1) x R (nếu bảo hiểm thêm lãi dự tính a)
 Trường hợp khách hàng tham gia bảo hiểm 110% thì:
STBH = 110% x CIF
P = CIF x R x 110%
 Trường hợp khách hàng đề nghị điều chỉnh GTBH (như điều chỉnh giá
FOB,CF, cước vận tải và điều kiện bảo hiểm) thì phải tính lại STBH bằng hình thức
cấp cho khách hàng Giấy sửa đổi bổ sung:
- Phần chênh lệch tăng: đề nghị khách hàng thanh toán thêm phí
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
15
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
- Phần chênh lệch giảm: Công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho khách hàng
Trong mọi trường hợp cấp sửa đổi bổ sung Công ty bảo hiểm sẽ không thu lệ phí.
III. CÁC RỦI RO VÀ TỔN THẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC BẢO
HIỂM HÀNG HÓA XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1. Các loại rủi ro
Rủi ro là những tai nạn, tai hoạ, sự cố xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên
hoặc những mối đe doạ nguy hiểm (mà khi xảy ra thì sẽ gây tổn thất cho đối tượng
bảo hiểm). Sự tồn tại của rủi ro là cơ sở hoạt động của bảo hiểm do đó trong bảo
hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển chúng ta cần phân biệt rủi ro của
biển và rủi ro trên biển. Theo Luật hàng hải của Anh, “rủi ro của biển” đề cập đến
những tai nạn hoặc tổn thất có tính chất ngẫu nhiên không bao gồm những rủi ro
thông thường do gió hay sóng. “Rủi ro trên biển” thì có nhiều nhưng bảo hiểm chỉ
chịu trách nhiệm những tai nạn xảy ra một cách bất ngờ.
Tuỳ theo các cách phân loại khác nhau mà có nhiều loại rủi ro khác nhau:
1.1. Căn cứ vào nguồn gốc sinh ra rủi ro
- Thiên tai: là những hiện tượng tự nhiên xảy ra mà con người không thể kiểm
soát được như: biển động, bão, gió lốc, sét đánh, thời tiết xấu, sóng thần, động đất
núi lửa phun, đá lở, mưa đá…
- Tai nạn bất ngờ trên biển: là những tai nạn xảy ra đối với con tàu trên biển

như: mắc cạn, đắm, cháy nổ, đâm va nhau, đâm va phải đá ngầm, đâm phải vật thể
khác không phải là nước, tàu bị lật úp, mất tích.
Những rủi ro này còn được gọi là những rủi ro chính.
- Các tai nạn bất ngờ khác: là những thiệt hại do tác động bên ngoài không
thuộc các tai họa của biển nói trên. Nó có thể xảy ra trên biển (nhưng nguyên nhân
không phải là những tai họa của biển), trên bộ, trên sông, trong quá trình vận chuyển,
xếp dỡ, giao nhận, lưu kho bảo quản hàng hóa như: hàng bị cong vỡ, cong bẹp, thiếu
hụt, mất mát, trộm cắp…
Những rủi ro này được gọi là những rủi ro phụ.
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
16
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
- Rủi ro do các hiện tượng chính trị xã hội hoặc do lỗi của người được bảo
hiểm gây nên như:
+ Các rủi ro chiến tranh: chiến tranh, khởi nghĩa, nội chiến, hành động thù
địch hoặc tàu và hàng bị bắt, bị tịch thu, bị chiếm giữ, thiệt hại do bom, mìn, ngư
lôi…
+ Rủi ro đình công: đình công, cấm xưởng, ngừng trệ lao động, bạo động,
nổi loạn của dân chúng hoặc do hành động của người đình công, công nhân bị cấm
xưởng…)
+ Các hoạt động khủng bố hoặc do người khủng bố gây ra
- Rủi ro da bản chất hoặc tính chất đặc biệt của đối tượng bảo hiểm như nội tỳ
hay ẩn tỳ hay những thiệt hại mà nguyên nhân trực tiếp là sự chậm trễ.
Trong đó nội tỳ là những thiệt hại mang tính bản chất của hàng hóa còn ẩn tỳ
là những hư hỏng của hàng hóa mà bằng khả năng thông thường con người không thể
phát hiện ra được.
1.2. Xét theo khía cạnh nghiệp vụ
- Rủi ro thông thường được bảo hiểm: Đây là những rủi ro có tính chất bất
ngờ, ngẫu nhiên, xảy ra ngoài ý muốn của người được bảo hiểm như: thiên tai, tai
họa của biển, tai nạn bất ngờ khác, tức là bao gồm cả những rủi ro chính và những rủi

ro phụ.
Có 6 điều kiện bảo hiểm chính cảu bảo hiểm hàng hóa (đó là AR, WA, FPA,
A, B, C) nằm trong 2 quy tắc bảo hiểm khác nhau là ICC 1963 và ICC 1982 của Viện
những người bảo hiểm London, bao gồm:
+ Tàu bị mắc cạn
+ Tàu bị chìm hay đắm
+ Rủi ro cháy nổ
+ Đâm va
Bốn rủi ro trên là bốn rủi ro chính của bảo hiểm hàng hải và được bảo hiểm
trong tất cả các điều kiện bảo hiểm.
Còn các rủi ro:
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
17
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
+ Rủi ro vất hàng xuống biển (xảy ra trong hành động tổt thất chung)
+ Rủi ro mất tích
+ Rủi ro phụ: rách, vỡ, cong, vênh, gỉ, hấp hơi, mất mùi, lây hại, lây bẩn, va
đập vào hàng hóa khác, giao thiếu hàng hay không giao hàng, trộm cắp, nước mưa
hay nước ngọt, móc cẩu.
Là những rủi ro phụ vì chúng chỉ được bảo hiểm trong những điều kiện bảo
hiểm rộng như AR hoặc A và kèm theo nó là các điều kiện bảo hiểm phụ.
- Rủi ro phải được bảo hiểm riêng: là những rủi ro mà người được bảo hiểm
muốn tham gia thì phải có điều kiện hoặc điều khoản riêng biệt tách khỏi hợp đồng.
Đó là các rủi ro: chiến tranh, rủi ro đình công, rủi ro khủng bố. Tuy là những rủi ro
loại trừ trong bảo hiểm hàng hải nhưng vẫn có thể được bảo hiểm nếu khách hàng có
nhu cầu mua thêm.
- Rủi ro loại trừ: là những rủi ro sẽ không được người bảo hiểm nhận bảo
hiểm hoặc không được bồi thường trong mọi trường hợp xảy ra. Vì đây là các rủi ro
đương nhiên xảy ra, chắc chắn xảy ra, hoặc các thiệt hại do bản chất của hàng hóa, do
lỗi của người được bảo hiểm, hoặc những rủi ro mang tính chất thảm họa mà con

người không lường trứơc được quy mô, mức độ và hậu quả của nó.
Loại rủi ro này bao gồm các rủi ro chủ yếu như: buôn lậu, phá bao vây, nội tỳ,
ẩn tỳ, lỗi của người được bảo hiểm, mất thị trường, sụt giá, chênh lệch tỷ giá hối
đoái, chủ tàu mất khả năng tài chính, tàu đi chệch hướng, tàu không đủ khả năng đi
biển, hao hụt tự nhiên.
2. Các loại tổn thất và chi phí có liên quan
2.1. Các loại tổn thất
Tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển là những
thiệt hại, hư hỏng, mất mát của hàng hóa được bảo hiểm do rủi ro đã được thỏa thuận
gây ra. Người ta căn cứ vào các tiêu thức khác nhau để phân loại tổn thất:
 Căn cứ vào quy mô, mức độ tổn thất có thể chia ra tổn thất bộ phận (TTBP)
và tổn thất toàn bộ (TTTB):
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
18
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
- TTBP: là một phần của đối tượng được bảo hiểm theo một HĐBH bị mất
mát, hư hỏng, thiệt hại. TTBP có thể là tổn thất về số lượng, trọng lượng, thể tích,
phẩm chất hoặc giá trị.
Ví dụ: lô hàng phân bón bị hao hụt 250kg, gạo bị ướt giảm giá trị thương mại
20%...
Các dạng cụ thể của TTBP là:
+Giảm một phần giá trị sử dụng của hàng hóa được bảo hiểm
+ Giảm về trọng lượng do bao bì bị rách,vỡ
+ Giảm về số lượng, số bao, số kiện, thùng, hòm bị giao thiếu hay do bị nước
cuốn trôi
+ Giảm về thể tích như:số lượng rượu, xăng, dầu đựng trong thùng bị rò rỉ
hoặc bay hơi
- TTTB: là toàn bộ đối tượng được bảo hiểm theo một HĐBH bị hư hỏng,
mất mát, thiệt hại.
Có hai loại TTTB là TTTB thực tế và TTTB ước tính:

+ TTTB thực tế: là toàn bộ đối tượng được bảo hiểm theo một HĐBH bị hư
hỏng, mất mát, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến dạng không còn như lúc mới được
bảo hiểm hay bị mất đi, bị tước đoạt không lấy lại được nữa
TTTB thực tế chỉ được xét trong 4 trường hợp sau:
• Hàng hóa bị huỷ hoại hoàn toàn
• Hàng hóa bị tước đoạt không lấy lại được
• Hàng hóa không còn là vật thể bảo hiểm
• Hàng hóa ở trên tàu mà tàu được tuyên bố mất tích
+ TTTB ước tính: là trường hợp đối tượng được bảo hiểm bị thiệt hại, mất
mát chưa tới mức độ TTTB thực tế, nhưng không thể tránh khỏi TTTB thực tế; hoặc
nếu bỏ thêm chi phí ra cứu chữa thì chi phí cứu chữa có thể bằng hoặc lớn hơn
GTBH.
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
19
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
Muốn được coi là TTTB ước tính thì phải có hành vi từ bỏ hàng. Và việc từ bỏ
hàng phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
• Người được bảo hiểm phải thông báo cho người bảo hiểm biết về tình trạng
TTTB ước tính
• Người được bảo hiểm phải làm tuyên bố từ bỏ hàng bằng văn bản và gửi cho
người bảo hiểm
• Người được bảo hiểm chỉ đựơc từ bỏ hàng hóa khi hàng hóa còn ở dọc đường
và chưa xảy ra TTTB thực tế
• Khi từ bỏ hàng của người được bảo hiểm được chấp nhận thì không thay đổi
được nữa
 Căn cứ theo trách nhiệm bảo hiểm thì tổn thất bao gồm tổn thất riêng
(TTR) và tổn thất chung (TTC)
- TTR: là tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hoặc một số quyền lợi của các
chủ hàng và chủ tàu trên một con tàu. Nó chỉ liên quan đến từng quyền lợi riêng biệt.
Trong TTR, ngoài thịêt hại vật chất còn phát sinh các chi phí có liên quan đến

TTR nhằm hạn chế những hư hại khi tổn thất xảy ra, gọi là tổn thất chi phí riêng
Tổn thất chi phí riêng là những chi phí bảo quản hàng hóa để giảm bớt hư hại
hoặc để khỏi hư hại thêm, bao gồm: chi phí xếp, dỡ, gửi hàng, đóng gói lại, thay thế
bao bì… ở bến khởi hành và dọc đường.
TTR có thể là TTBP hoặc TTTB.
- TTC: là những hi sinh hay chi phí đặc biệt được tiến hành một cách cố ý và
hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hóa chở trên tàu thoát khỏi một sự nguy hiểm
chung thực sự đối với chúng.
Các thiệt hại, chi phí hoặc hành động được coi là TTC khi có các đặc trưng
sau:
+ Hành động TTC phải là hành động tự nguyện, hữu ý của những người trên
tàu theo lệnh của thuyền trưởng hoặc người thay mặt thuyền trưởng
+ Sự hi sinh hay chi phí phải là đặc biệt, bất thường
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
20
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
+ Sự hi sinh hoặc chi phí phải hợp lý và vì an toàn chung cho tất cả các quyền
lợi trong hành trình
+ Các tai nạn xảy ra phải thực sự nghiêm trọng, đe doạ đến sự an toàn của tất
cả các quyền lợi có trên tàu. Và các nguy cơ thiệt hại đối với hàng hóa phải đang
thực sự xảy ra và có thể dẫn đến TTTB
+ Mất mát, thiệt hại hoặc chi phí phải là hậu quả trực tiếp của hành động TTC
+ TTC phải xảy ra trên biển
+ Hành động TTC phải là hành động vì an toàn chung, không đơn thuần chỉ vì
an toàn cho tài sản cá biệt nào
Những tai nạn thường dẫn đến công nhận TTC:
- Các trường hợp về mắc cạn: hư hại tàu và máy tàu do những cố gắng làm nổi
tàu
- Các trường hợp về mất hoặc hỏng hàng do phải vứt hàng xuống biển hoặc
phải dỡ hàng khỏi tàu:

+ Chi phí dỡ hàng, lưu kho và xếp hàng trở lại tàu trong trường hợp hàng phải
dỡ xuống
+ Chi phí vào cảng lánh nạn
- Các trường hợp về tai nạn cháy:
+ Tổn thất về tàu hoặc hàng hóa do nỗ lực chữa cháy gây ra
+ Chi phí vào cảng lánh nạn
- Các trường hợp về thiếu nhiên liệu:
+ Tổn thất về vật liệu tàu hoặc hàng hóa phải đốt cháy thay nhiên liệu để đun
nóng nồi hơi đối với tàu hơi nước
+ Chi phí vào cảng lánh nạn
- Các trường hợp di chuyển về hàng hóa khi có thiên tai: gặp giông bão, tàu bị
nghiêng phải vứt hàng xuống biển nhằm tránh nguy cơ chìm tàu. Hàng hóa bị vứt này
cần phải biết được tính chất, số lượng hàng bị vứt, đã bị hư hỏng hay không còn giá
trị.
TTC bao gồm hai bộ phận chủ yếu đó là hi sinh TTC và chi phí TTC:
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
21
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
+ Hy sinh TTC: là những thiệt hại hoặc chi phí do hậu quả trực tiếp của một
hành động TTC, như thiệt hại do vứt hàng xuống biển vì sự an toàn chung của tàu
hay đốt vật phẩm trên tàu để thay nhiên liệu.
+ Chi phi TTC: là những chi phí phải trả cho người thứ ba trong việc cứu tàu
và hàng thoát nạn hoặc chi phí làm cho tàu tiếp tục hành trình..
Những điểm khác nhau giữa TTC và TTR:
- TTR xảy ra một cách ngẫu nhiên, bất ngờ trong khi TTC là cố tình, cố ý và
hợp lý của con người nhằm bảo vệ an toàn chung của các bên có liên quan.
- TTR chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi cá biệt, tức là TTR của người nào thì người
đó tự phảit chịu mà không có sự đóng góp của các bên như trong TTC.
- TTR có thể xảy ra trên biển hoặc bất kì địa điểm nào khác trong khi TTC chỉ
xảy ra trên biển.

- Tuỳ thuộc vào điều kiện bảo hiểm mà xét TTR có thuộc trách nhiệm bồi
thường của công ty bảo hiểm không. Ngược lại với mọi điều kiện bảo hiểm, công ty
bảo hiểm đều chịu trách nhiệm bồi thường về mức đóng góp TTC của chủ hàng.
2.2. Các loại chi phí trong bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng
đường biển
2.2.1. Chi phí đề phòng hạn chế tổn thất
Theo như điều 16 “Điều khoản trách nhiệm của người được bảo hiểm ” có
nghĩa vụ bảo vệ hàng hóa trong quá trình vận chuyển, đồng thời cũng quy định nhà
bảo hiểm hàng hóa phải trả mọi chi phí hợp lý liên quan đến nghĩa vụ ấy. Người
được bảo hiểm có thể khiếu nại chi phí này ngay cả khi nó vượt quá giá trị hàng hóa
được bảo hiểm theo HĐBH..Bởi vì, điều khoản đề phòng hạn chế tổn thất được coi là
hợp đồng bổ sung cho hợp đồng bảo hiểm gốc.
2.2.2. Chi phí gửi hàng tiếp
Là khoản chi phí tăng thêm (mà người bảo hiểm sẽ hoàn trả lại cho người
được bảo hiểm) khi người được bảo hiểm phải chi ra một cách hợp lý và thỏa đáng
để dỡ hàng lưu kho và gửi hàng tới nơi nhận thuộc phạm vi bảo hiểm mà nguyên
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
22
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
nhân là do việc vận chuyển bảo hiểm phải kết thúc tại một cảng hoặc một nơi khác
không phải là nơi nhận có tên ghi trong HĐBH.
2.2.3. Chi phí tổn thất riêng
Là những chi phí nhằm đảm bảo an toàn hay bảo toàn hàng hóa để không hư
hại thêm. Đó là các chi phí: chi phí xếp dỡ, gửi hàng, phân loại, đóng gói lại bao bì,
thay thế bao bì…(đối với lô hàng đang tổn thất).
Chỉ những chi phí ở bến đi và dọc đường mới được coi là chi phí tổn thất
riêng và được bồi thường.
2.2.4. Chi phí tổn thất chung
Là những chi phí phải trả cho ngưòi thứ ba trong việc cứu tàu và hàng thoát
nạn hoặc chi phí làm cho tàu tiếp tạuc hành trình.

Chi phí tổn thất chung bao gồm:
+ Chi phí cứu nạn
+ Chi phí làm nổi tàu khi đã bị mắc cạn
+ Chi phí thuê kéo, lai dắt tàu khi bị nạn
+ Chi phí tại cảng lánh nạn như: chi phí ra vào cảng, chi phí xếp, dỡ nhiên
liệu… vì an toàn chung hoặc để sửa chữa tạm thời.
+ Chi phí tái xếp hàng, lưu kho hàng hóa
+ Tiền lương cho thuyền trưởng, thuyền viên
+ Lương thực, thực phẩm nhiên liệu tiêu thụ tại cảng lánh nạn
2.2.5. Chi phí cứu nạn
Là tiền công trả cho người cứu nạn khi đã bỏ ra công sức, vật tư kỹ thuật và
bằng mọi biện pháp cần thiết để cứu tài sản đang bị đe dọa tổn thất không bảo hiểm
hư hại.Cũng có thể coi đây là một khoản tiền thưởng của người được cứu thoát nạn
cho người đã cứu mình.
2.2.6. Chi phí đặc biệt
Bao gồm các loại chi phí sau đây:
- Chi phí chứng minh tổn thất: là chi phí phải bỏ ra do việc chứng nhận hoặc
giám định hàng hóa tổn thất. Ngoài ra chi phí đặc biệt còn bao gồm các chi phí không
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
23
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
định trước được cho việc chứng nhận hoặc giám định hàng tổn thất. Luật bảo hiểm
Hàng hải 1906 của Anh quy định rằng chi phí đặc biệt không được tính thêm vào tổn
thất riêng khi so sánh tổn thất riêng với số tiền miễn đền. Người được bảo hiểm chỉ
thanh toán chi phí ngoại lệ khi hư hỏng mất mát được bồi thường theo đơn bảo hiểm.
- Chi phí tái chế phát sinh tại bến đích: khi hàng tới cảng đích nếu gặp tổn thất
thì có thể tiến hành các biện pháp ngăn chặn việc hàng hóa hư hỏng thêm. Chi phí
phát sinh liên quan đến các biện pháp trên như: chi phí tách riêng phần hàng tổn thất
khỏi hàng nguyên, chi phí tẩy rửa nước biển hoặc nước ngọt, chi phí cho việc lưu kho
hoặc di chuyển hàng vì mục đích tái chế… đều được người bảo hiểm bồi thường bổ

sung vào tổn thất riêng nhưng cũng chỉ trong phạm vi số tiền bảo hiểm.
IV. HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
1. Khái niệm
Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển là một văn
bản, trong đó người bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người tham gia bảo hiểm
cấc tổn thất của hàng hóa theo các điều kiện bảo hiểm đã ký kết, còn người tham gia
bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển còn là một
hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Nó mang tính chất là một hợp đồng bồi thường, một
hợp đồng tín nhiệm và có thể chuyển nhượng được. Hợp đồng được thiết lập dựa trên
nguyên tắc “mất hay không mất”:
+ Đối với người được bảo hiểm khi ký hợp đồng bảo hiểm mà hàng hóa đã bị
tổn thất nhưng người được bảo hiểm vẫn chưa biết gì thì hợp đồng vẫn có hiệu lực và
vẫn được bồi thường. Ngược lại, nếu biết thì hợp đồng sẽ vô hiệu lực.
+ Đối với người bảo hiểm, khi ký hợp đồng bảo hiểm mà hàng hóa đã đến nơi
an toàn nhưng người bảo hiểm vẫn chưa biết việc đó thì hợp đồng vẫn có hiệu lực và
vẫn có quyền thu phí bảo hiểm. Ngược lại, người bảo hiểm đã biết việc đó thì hợp
đồng bảo hiểm sẽ không có hiệu lực đồng thời phải hoàn lại phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm coi như được ký kết khi lời đề nghị của người được bảo
hiểm chấp nhận bằng văn bản. Bằng chứng của việc giao kết hợp đồng bảo hiểm là:
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
24
Nguyễn Thị Ninh Giang Bảo hiểm 45A
Giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex hoặc các hình thức do pháp
luật quy định.
Đơn bảo hiểm và Giấy chứng nhận bảo hiểm là loại chứng từ có thể lưu thông
được và có thể chuyển nhượng được cho người khác bằng thủ tục ký hậu. Đơn bảo
hiểm và Giấy chứng nhận bảo hiểm được gọi chung là chứng từ bảo hiểm. Chứng từ
bảo hiểm là một loại chứng từ quan trọng được sử dụng nhiều trong thanh toán quốc
tế.

Ở Việt Nam, Đơn bảo hiểm hay Giấy chứng nhận bảo hiểm được coi như Hợp
đồng bảo hiểm. Tuỳ từng trường hợp mà Công ty bảo hiểm sẽ cấp Đơn bảo hiểm
hoặc Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Đơn bảo hiểm : là một loại chứng từ bảo hiểm do Công ty bảo hiểm ký, phát
và trong Đơn bảo hiểm phải chứa đựng tất cả các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm.
Tuỳ theo tính chất của hoạt động bảo hiểm mà có nhiều loại Đơn bảo hiểm khác
nhau:
+ Đơn bảo hiểm bao: là loại Đơn bảo hiểm xác nhận việc công ty bảo hiểm
tiến hành bảo hiểm cho nhiều lô hàng gửi đi trong một khoảng thời gian nhất định
(thường là sáu tháng đến một năm). Đơn bảo hiểm bao được áp dụng cho những hợp
đồng mua bán có giá trị lớn, hàng hóa được vận chuyển nhiều lần trong một khoảng
thời gian dài.
+ Đơn bảo hiểm chuyến: được áp dụng cho một chuyến hàng đi từ địa điển
này đến địa điểm khác (hoặc từ một cảng này tới một cảng khác). Loại đơn này
thường áp dụng cho những hợp đồng có giá trị nhỏ, hàng hóa được vận chuyển một
lần trên một tàu.
+ Đơn bảo hiểm định hạn: là loại đơn bảo hiểm mà trên đó người tính toán
ghi rõ thời gian bảo hiểm.
+ Đơn bảo hiểm định giá: là loại đơn bảo hiểm mà trên đó đã ghi rõ giá trị bảo
hiểm hay số tiền bảo hiểm của đối tượng bảo hiểm.
Chuyên đề tốt nghiệp Kinh tế bảo hiểm
25

×