ngihêm trọng, đến hết quý I năm 2001 tỷ lệ tai nạn giao thông tăng trên 130,3%.
Đây là một thử thách rất lớn cho ngành bảo hiểm nói chung và PJICO nói riêng
trong năm 2001. Tổng số tiền bồi thường không ngừng gia tăng, mức độ tổn thất/
vụ tai nạn lớn cũng là do công ty bảo hiểm không tham gia giáo dục, tuyên truyền
an toàn giao thông. Qua bảng trên ta còn đánh giá được PICO là công ty có tỷ lệ
giải quyết bồi thường xe máy cao hơn ôtô vì so công việc giám định tổn thất cdủa
các vụ xe máy đơn giản hơn nhiều, mức dodọ thiệt hại nhỏ giấy tờ, hồ sơ giải
quyết bồi thường nhanh gọn. Khai thác là đầu vào của bảo hiểm còn bồi thường là
đầu ra, cả hai khâu này đều có liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của
công ty.
(Nguồn : Theo báo cáo thống kê của PJICO (1998 -2002)
Qua bảng số 9 cho thấy doanh thu nghiệp vụ và số tiền bồi thường nghiệp vụ ngày
càng tăng dần.
- Năm 1998 doanh thu nghiệp vụ là 2.414,99 triệu, số tiền bồi thường chiếm
71,37% tỷ trọng doanh thu.
- Năm 1999 doanh thu nghiệp vụ tăng lên 3,45 tỷ nhưng số tiền bồi thường
72,86% tỷ trọng doanh thu.
- Năm 1998 doanh thu nghiệp vụ là 3,91 tỷ, số tiền bồi thường chiếm giảm xuống
còn 71,42% tỷ trọng doanh thu nghiệp vụ.
- Năm 1999 doanh thu nghiệp vụ tăng lên 3,45 tỷ nhưng số tiền bồi thường
72,86% tỷ trọng doanh thu.
- Năm 1998 doanh thu nghiệp vụ là 3,91 tỷ, số tiền bồi thường chiếm giảm xuống
còn 71,42% tỷ trọng doanh thu nghiệp vụ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Năm 1999 doanh thu nghiệp vụ là 3,9095 tỷ, số tiền bồi thường chiếm 73,02%.
- Năm 2000 doanh thu nghiệp vụ là 4,2123 tỷ, tỷ lệ bồi thường giảm xuống còn
70,59% thấp nhất từ giai đoạn từ 1998 - 2000.
Tỷ lệ bồi thường của công ty tăng dần theo thời gian do mức độ thiệt hại ở mỗi vụ
tai nạn ngày một tăng mà phí bảo hiểm lại rất ít tăng thậm chí lại giảm di và do sự
cạnh tranh.
* Hạn chế của công tác bồi thường: Việc bồi thường của PJICO có phần thực hiện
tốt hơn, nhưng không thể tránh khỏi rườm rà, tiêu cực trong khâu bồi thường chủ
xe phải đi lại mất rất nhiều thời gian và đã tạo ra cảm giác mất tin tưởng vào bảo
hiểm, thất vọng cho chủ xe và người bị nạn.
* Nguyên nhân của sự hạn chế.
- Do từ phía người bị nạn, như khi người bị nạn họ đưa ra mức đòi bồi thường vô
lý còn người gây tai nạn bao giờ cũng đòi mức thấp hơn nên lúc này nhà bảo hiểm
(công ty) rơi vào tình thế đứng giữa hai bên nên phải dùng thương lượng để giải
quyết, nếu hai bên hoặc ba nên không tự giải quyết thương lượng được thì phải
đưa ra toà án có thẩm quyền giải quyết.
- Những vụ tai nạn không do PJICO trực tiếp đứng ra giám định mà hồ sơ phải
thông qua công an, cảnh sát giao thông để làm căn cứ xét bồi thường. Nên dễ gây
ra thiệt thòi cho người bị nạn, thiếu chính xác trong khâu bồi thường.
- Những vụ tai nạn hầu hết không xác định đúng mức thiệt hại nưh:
+ Mất thu nhập hiện nay không cơ quan nào xác định được thu chính thức của nạn
nhân, hầu hết những người bị tai nạn là buôn bán tự do.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
+ Chi phí y tế hiện nay cung cấp hoá đơn chứng từ không được thực hiện được vì
nạn nhân không lưu giữ hồ sơ bệnh án, hay có trường hợp gian lận trong việc khai
không đúng sự thật. Ngoài ra chi phí điều trị cùng thương tật có thể rất khác nhau
do cách điều trị rất khác nhau của bác sỹ. Để thu thập đầy đủ hồ sơ phải chờ đến
khi nạn nhân ra viện.
Qua đó ta thấy công tác bồi thường không đơn giản, nó luôn gây ra cho các cán bộ
trong khâu bồi thường phải mất nhiều thời gian để thu thập chứng từ, hoá đơn, sổ
sách, phân định lỗi, tuy nhiên tình hình bồi thường của PJICO ngày một tăng. Liệu
trong thời gian tới mức độ bồi thường của công ty sẽ như thế nào? Thu phí nghiệp
vụ và phí toàn thu có đủ bù đắp nổi những tổn thát xảy ra? Có lẽ dây vẫn là câu
hỏi đặt ra coh cán bộ lãnh đạo công ty? cần phải làm gì để hạn chế bớt tai nạn và
công tác giám định, bồi thường cần chấn chỉnh và hoàn thiện hơn.
5. Kết quả triển khai nghiệp vụ.
Kết quả triển khai nghiệp vụ thể hiện qua hai chỉ tiêu là chỉ tiêu doanh thu và chỉ
tiêu lợi nhuận, ngoài ra còn có chỉ tiêu tốc độ tăng doanh thu và tốc độ tăng lợi
nhuận, hiệu quả kinh doanh.
Trong các chỉ tiêu thì chỉ tiêu lợi nhuận là thước đo hữu hiệu nhất, nó cho biết tình
hình doanh thu đạt được ở mức độ nào, cho phép đánh giá được tốc độ tăng
trưởng kinh doanh.
Lợi nhuận nghiệp vụ = doanh thu nghiệp vụ - tổng chi phí nghiệp vụ đó.
- Doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là toàn
bộ số tiền hay phí boả hiểm mà công ty bảo hiểm thu được từ chủ xe cơ giới.
- Chi phí nghiệp vụ gồm các khoản chi:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
+ Chi phí bồi thường nghiệp vụ là khoản ci chủ yếu chiếm 73%.
+ Chi đề phìng hạn chế tổn thất (3% doanh thu phí).
+ Cih hoa hồng (2%).
+ Chi thuế (10%).
+ Chi khác 2%.
Công ty PJICO trong 5 năm hoạt động đã đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân
là 39% năm. Đây là tốc độ tăng trưởng khá cao so với nhiều doanh nghiệp bảo
hiểm trong cùng điều kiện và thời hạn kinh doanh.
Qua bảng 10 ta thấy công ty hàng năm luôn đạt ra mức kế hoạch nhưng thực tế
hàng năm đạt cao hơn mức kế hoạch đề ra.
- Năm 1998 tỷ lệ vượt mức kế hoạch là 19,79%.
- Năm 1999 tỷ lệ vượt mức kế hoạch là 28,32%
- Năm 2000 tỷ lệ vượt mức kế hoạch là 30,55%.
- Năm 2001 tỷ lệ vượt mức kế hoạch là 13, 42%.
- Năm 2002 tỷ lệ vượt mức kế hoạch là 9,4%.
Từ năm 1998 -2000 tỷ lệ vượt ở mức cao dần nhưng đến năm 2000 chỉ tăng
13,42%.
Lượng chi nghiệp vụ chiếm phần đáng kể trong tổng thu nghiệp vụ, nhất là từ khi
Chính phủ thu thuế VAT10% thì doanh thu công ty bị giảm mất một phần. Trong
các khoản chi thì chi bồi thường chiếm tỷ lệ cao.
Năm 1996 chi bồi thường là 71,33%, trong đó chi hoa hồng chiếm 2%, chi đề
phòng hạn chế tổn thất chiếm 2,25% và các khoản chi khác là 2%. Tới năm 2000
do mức độ thiệt hại không tăng nên số bồi thường là 70,6%, cho đề phòng hạn chế
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
tổn thất là 2,26%, chi hoa hồng 3% còn các khoản chi khác vẫn giữ ở mức ổn định
2% qua các năm.
Nhìn chung thì PJICO vẫn luôn đạt mức thu lợi nhuận ổn định, hàng năm chênh
lệch thu chi nghiệp vụ tăng dần từ 541,4 triệu (1996) đến 932,84 triệu vào năm
2000 chứng tỏ Công ty kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe
cơ giới đạt hiệu quả cao, nó đóng góp tích cực trong tổng lợi nhuận chung cho
toàn công ty.
Tuy PJICO đã có những kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân
sự chủ xe cơ giới đạt kết quả cao, nhưng so với các Công ty như Bảo Việt, Bảo
Minh về kết quả kinh doanh nghiệp vụ thì PJICO còn kém rất nhiều nên PJICO
cần phải tăng cường khai thác nghiệp vụ, mở rộng địa bàn hoạt động kinh doanh
liên hệ các trạm đăng kiểm để thu phí, cắt giảm những chi phí khác không cần
thiết và phải đưa ra những biện pháp đề phòng hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
III. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong việc thực hiện bảo hiểm trách
nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1. Kết quả thực hiện Nghị định 115/CP/1997
Nghị định 115/CP/1997 "Về chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới"
của Chính phủ là hết sức cần thiết để góp phần khắc phục hậu quả của các vụ tai
nạn giao thông, (nhất là trong tình hình tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng
như hiện nay). Và bảo vệ quyền lợi của những người bị hại về thân thể và tài sản
trong các vụ tai nạn giao thông, đồng thời góp phần ổn định sản xuất kinh doanh
của chủ xe cơ giới khi có tai nạn giao thông xảy ra.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Theo số liệu thống kê của Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia về tình hình phát
triển phương tiện cơ giới đường bộ.
- Năm 1998 cả nước hiện có khoảng 6 triệu xe ô tô và xe gắn máy, vào năm 2000
dự báo lên khoảng trên 6,5 triệu xe các loại. Tuy nhiên số lượng xe tham gia bảo
hiểm chỉ ở mức 10% đến 15% ở xe gắn máy và khoảng 65% đến 75% đối với xe ô
tô.
- Năm 2000 với tổng số xe cơ giới tăng khoảng 12% nhưng số lượng xe tham gia
bảo hiểm chỉ tăng từ 8% đến 9% (ước tính).
Qua đó ta thấy, mặc dù chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ
giới đa được ban hành cách đây hơn 12 năm kể từ khi Nghị định số 30/hội đồng
bộ trưởng nhưng cho đến nay tổng kết lại vẫn chỉ khoảng 30% số xe các loại tham
gia bảo hiểm (đây là con số quá ít so với tình hình chung). Do đó nhiều người bị
hại trong các vụ tai nạn giao thông không được bồi thường đầy đủ theo chế đoọ.
2. Những hạn chế trong quy tắc BHTN dân sự của chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba
a. Bồi thường trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba về con
người là rất khó do phân định tỷ lệ lỗi và mức thiệt hại là không thực tế và khó
chính xác (từ mức thu nhập và chi phí y tế). Cho nên bồi thường được tính theo
nguyên tắc thiệt hại thực tế và lỗi chưa phù hợp với đặc điểm bồi thường trong xe
cơ giới.
Trong mức trách nhiệm bắt buộc tối thiểu, ta nên giải quyết bồi thường theo
nguyên tắc khoán.
b. Chưa có quy tắc bảo hiểm riêng cho xe máy
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Nhiều điều quy định cho xe cơ giới không phù hợp với xe máy như quy định về
yêu cầu bảo hiểm (điều 8.1), thay đổi mục đích sử dụng (điều 8.4), chứng nhận
kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường (điều 13.2), giấy phép kinh doanh vận
chuyển hành khách (điều 14/2.5)…
- Sử dụng xe máy là một tập quán tiêu dùng của người Việt Nam chiếm trên 5,5
triệu xe nên có quy tắc riêng cũng là đúng đối với họ, đối với trách nhiệm tham
gia bảo hiểm và nâng cao ý thức của chủ xe hơn.
c. Chế độ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự còn buông lỏng việc cung cấp thông
tin điều tra tai nạn còn chưa có cơ sở rõ ràng để làm căn cứ bồi thường dẫn đến
việc thiếu chính xác, gây ra thiệt hại cho cả Công ty và người bị nạn. Tình trạng
xe gây tai nạn rồi bỏ trốn, nhiều trường hợp tai nạn đều giải quyết theo thoả thuận
không cần thiết đến bảo hiểm, pháp luật nhằm trách phiền toái. Đây là cả vấn đề
mang tính nhân đạo, tính xã hội. Đề nghị các Bộ, ngành liên quan cần phải có sự
xem xét phối hợp với bảo hiểm trong việc giải quyết bồi thường tai nạn theo Nghị
định 115/CP.
d. Công tác tuyên truyền giáo dục ý thức về an toàn giao thông, phân tích cho chủ
xe (lái xe) hiểu được phần trách nhiệm, quyền lợi của họ khi tham gia bảo hiểm.
e. Nhiều công ty bảo hiểm làm mất uy tín trên thị trường gây ra cho các chủ xe
những hoài nghi về trách nhiệm bảo hiểm dân sự "có tham gia nhưng chẳng được
gì khi có xảy ra tổn thất". Bồi thường chậm chạp, giấy tờ hồ sơ phức tạp làm cho
khách hàng cảm thấy mệt mỏi.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Hiện tượng trục lợi bảo hiểm của nhiều chủ xe đã lựa chọn rủi ro bảo hiểm làm
gây thiệt hại cho Công ty bảo hiểm, mà xét về hiệu quả kinh doanh thì Công ty rất
muốn từ chối bảo hiểm nhưng không được phép.
g. Biểu phí về mức trách nhiệm bảo hiểm
Có sự chênh lệch về mức phí quá lớn đối với hành khách trên xe được phân theo
số chỗ ngồi.
Ví dụ: nhóm loại xe trên 24 chỗ ngồi phí bảo hiểm cũng là 900.000 đồng nhưng
tổng mức trách nhiệm chênh lệch đến 552 triệu đồng/vụ (xe 24 chỗ ngồi có tổng
mức trách nhiệm là 12 triệu x 24 = 288 triệu đồng). Trong khi đó nhóm xe cùng
loại là xe 70 chỗ ngồi có tổng mức trách nhiệm là 12 triệu x 70 chỗ = 840 triệu
đồng.
Vậy cần làm sao để chỉnh đốn lại về phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe được
tính theo số chỗ ngồi cụ thể từng xe, không nên chia nhóm vì thực chất rủi ro
nhiều hay ít là phụ thuộc vào từng chỗ ngồi. Cách phân biệt này rất công bằng: xe
càng nhiều chỗ ngồi thì rủi ro càng cao và biểu phí phải tăng theo.
3. Nguyên nhân hạn chế
a. Sự bất cập của các văn bản (không đồng bộ)
Nghị định 115 đã đặt ra vấn đề về bắt buộc BHTN dân sự của chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba (các Công ty bảo hiểm được phép kinh doanh loại hình này và
bắt buộc các chủ xe), yêu cầu đặt ra là rất lớn và rất có ý nghĩa nhưng quy tắc bảo
hiểm lại có phần thắt chặt hơn, có phần mâu thuẫn với Nghị định.
Các văn bản pháp lý chưa định nghĩa rõ hay quy định rõ về người thứ ba là những
người nào, đối tượng nào thuộc người thứ ba và đối tượng nào không thuộc.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
b. Việc phân định lỗi khó do khi vụ tai nạn xảy ra thì nó chỉ mang tính tương đối
trong va chạm trong mức lỗi và thiệt hại về người là không thể tính toán nổi do
con người là tài sản vô giá. Mặt khác khi xảy ra tai nạn xong dù có để nguyên hiện
trường khi giám định bảo hiểm và công an đến thì chỉ là xem xét lại hiện trường
cũ đã xảy ra làm sao mà tận mắt trông thấy được sự thể đâm va ra sao. Khi xét
đến bồi thường cũng rất khó khăn trong việc tính mức thu nhập chi phí y tế vì tai
nạn xảy ra hầu như ở những người làm ăn, kinh doanh tự do bên ngoài họ có thu
nhập bấp bênh có khi rất cao trong ngày, trong tháng nhưng cũng có khi họ lại
chẳng có thu nhập gì, còn chi phí bệnh viện thì vô vàn (khi thì thuốc loại này loại
khác, thay đổi bác sĩ, thay đổi bệnh viện, giấy tờ bệnh án liên quan đến việc xem
xét bồi thường cũng trở nên mất tính chính xác).
c. Vì xe máy là loại phương tiện có động cơ đơn giản ai cũng có thể sử dụng và
mua được, giá trị của nó không lớn và mức độ thiệt hại cũng không nguy hiểm gây
ra cho người thứ ba. Có những trường hợp xe máy gây tai nạn thì họ tự giải quyết
và tự thương lượng với nhau mà không cần nhờ đến bảo hiểm và công an. Ngoài
ra lượng xe máy lưu hành lại rất lớn trên 5,5 triệu xe nên việc thay đổi này sang
chủ xe khác họ không tuân theo đúng thủ tục pháp luật cứ thế mà lưu hành, nên
việc kiểm tra và giải quyết tai nạn là rất khó khăn.
Nước ta sử dụng đa dạng loại xe máy các hãng, các loại xe từ rẻ đến đắt khi những
chiếc xe máy có giá trị lớn (có khi bằng cả chiếc ô tô), nhưng khi bị tai nạn thì họ
lại chỉ quy theo mức trách nhiệm tham gia bảo hiểm (bảng phí được phân theo
phân khối của xe).
d. Quy tắc bảo hiểm cần phải bổ sung thêm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Tại điều 2: quy định về người thứ ba còn sơ sài chưa rõ ví dụ (đối với thân thể và
tài sản chủ xe, những người mà chủ xe phải có trách nhiệm nuôi dưỡng theo pháp
luật có thuộc người thứ ba hay không?).
- Điều 13 loại trừ bảo hiểm nên bổ sung: xe không đủ thiết bị an toàn để chạy (các
thiết bị về an toàn xe không bảo đảm, chủ xe, lái xe không thực hiện và thực hiện
không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật). Thủ tục giải quyết tai nạn, nhận tiền bồi thường
còn rắc rối, do đó một số chủ xe khi bị tai nạn không muốn làm thủ tục đòi bồi
thường (chủ yếu là những vụ tai nạn nhỏ dưới 200.000 đồng) dẫn đến tâm lý của
chủ xe là khi mua bảo hiểm khó đòi được tiền bồi thường. Các chủ xe gắn máy khi
xảy ra tai nạn nhỏ thường thương lươợng với nhau.
- Các phương tiện thông tin đại chúng chỉ thông tin về nội dung Nghị định một số
lần trong thời gian đầu do đó người dân cũng chưa biết hết được các quy định của
nhà nước về chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc. Các chương trình đề
phòng hạn chế tổn thất được thảo luận trên báo chí nhưng cũng không được đề cập
gì về bảo hiểm.
- Đại đa số chủ xe thiếu tinh thần tự giác, họ tìm mọi cách lẩn tránh bảo hiểm nhất
là các chủ xe máy họ chỉ mua bảo hiểm lần đầu khi đăng ký xe.
f. Việc kiểm tra thực hiện bị buông lỏng, không kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ,
không có biện pháp xử lý, chế tài những tổ chức và cá nhân vi phạm.
- Bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm chưa quan tâm đúng mức chưa tuyên
truyền để các chủ xe có ý thức và trách nhiệm khi mua bảo hiểm.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Đội ngũ cán bộ nhân viên trong Công ty bảo hiểm PJICO còn chưa nhiệt tình,
chưa làm tròn trách nhiệm trình độ chuyên môn còn bị hạn chế. Nên trong công
tác từ khai thác đến giám định, bồi thường cũng không được hiệu quả cao.
g. Việc xây dựng phí bảo hiểm theo mức trách nhiệm bảo hiểm mở rộng vừa qua
chưa hợp lý, cần xem xét lại sao cho đảm bảo thu chi thì hàng năm số lượng xe ô
tô khách tai nạn càng tăng làm thiệt hại về người và tài sản. Phần biểu phí mở
rộng theo mức trách nhiệm mở rộng nên ta thống nhất theo tỷ lệ (mức trách nhiệm
so với mức bắt buộc tỷ lệ với mức phí làm tăng cách này sẽ đảm bảo các thang tỷ
lệ rộng hơn và dễ thực hiện).
Qua những hạn chế trên PJICO nên có những giải pháp khắc phục tăng tính bắt
buộc trong nghiệp vụ BHTN dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba sao cho
hiệu quả nhất.
Chương III Những giải pháp nhằm thực hiện tốt nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm
dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty cổ phần bảo hiểm
Petrolimexx (PJICO)
I. Những khó khăn, thuận lợi và tồn tại của công ty PJICO
Theo chủ trương phát triển nền kinh tế đa thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước trong đó nổi bật là chủ trương cổ phần hoá
doanh nghiệp (Công ty) và phát triển các công ty cổ phần theo luật công ty 1990.
Đồng thời xuất phát từ chính sách mở cửa, phát triển thị trường bảo hiểm Việt
Nam - một thị trường mà cho tới trước 1994 vẫn còn độc quyền, chưa thực sự phát
triển theo Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của chính phủ, Công ty cổ phần bảo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -