177
Một điều phải nói là việc lai giống tuỳ tiện không có sự điều
khiển ở nông thôn đã dẫn đến những hiệu quả tai hại, đó là làm xói
mòn nguồn gen địa phương quý giá và có thể dẫn đến làm mất đi
tài nguyên di truyền.
Từ đó cho thấy cần phải tổ chức tốt chương trình giống đối với
từng giống từng nhóm giống. Trong khi tiến hành công tác giống
cần phải xem xét 3 vấn đề sau:
- Chọn lọc trong các giống địa phương: Ta biết rõ là các giống
đó thích nghi tốt với điều kiện nơi nuôi dưỡng và đang có thị
trường. Thế nhưng sự cải tiến đến rất chậm.
Nhập các giống bên ngoài để lai giống: có thể thu được tiến bộ
nhanh, do lợi dụng được ưu thế lai (heterosis) nhưng phải đảm bảo
được rằng con lai thích nghi được với môi trường địa phương và
nó đứng vững được trước nguồn thức ăn nghèo nàn hơn.
Trong chăn nuôi, việc du nhập các giống mới cao sản để nuôi
thuần chủng mong tranh thủ các nguồn gen tốt cần hết sức thận
trọng. Các giống mới có thể trụ được ở các trang trại có đầu tư tốt,
quản lý tốt, nhưng dễ mang tai họa cho người chăn nuôi nhỏ. Tiếc
thay, trong cơ chế thị trường hiện nay những chủ trương như vậy
lại thường hay gặp, bởi quyết định nhiều khi lại từ trên xuống
thông qua việc thực hiện các dự án. Nhiều khi việc nhập giống là
từ các Công ty, mà mối quan tâm hàng đầu của họ là sản xuất con
gíông để bán kiếm lời. Những người làm công tác khoa học và
khuyến nông nên giúp nông dân chọn được những con giống thích
hợp với điều kiện của họ và biết phân biệt được cái đúng, cái sai
của quảng cáo.
178
2. Sốt giống hệ quả tai hại của phương thức làm ăn theo “phong
trào”
Hiện tượng sốt giống trong sản xuất nông nghiệp thường xảy
ra, đó là vì công việc sản xuất hạt giống, con giống không theo kịp
đòi hỏi của người sản xuất, dẫn đến thiếu giống và tất nhiên là giá
tiền mua giống bị đội lên, gây thiệt hại cho người nông dân.
Ta đã có những trải nghiệm qua việc phát triển hươu ở Nghệ
Tĩnh những năm 90 của thế kỷ trước. Lúc bấy giờ nhà nhà đổ đi
mua hươu về nuôi. Trước đấy giá hươu đực thường đắt hơn hươu
cái, bởi vì chỉ hươu đực mới có sừng, mới cho lộc nhung, một sản
phẩm quý, lúc nào cũng đắt giá. Thế nhưng lúc bấy giờ vì thiếu
giống nên giá hươu cái lại đắt hơn hươu đực nhiều lần, bởi nó đẻ
ra hươu con để bán được tiền. Giá một đôi hươu tơ lúc bất giờ phổ
biến là 30 - 40 triệu đồng, có khi còn hơn. Nuôi hươu rất hợp với
tâm lý của nông dân muốn giữ của bằng giữ vật nuôi sống có thể
sinh sôi chứ không muốn giữ vàng, giữ tiền (sợ mất giá), ai cũng
đua nhau đi mua hươu bằng mọi giá, ai cũng nuôi hươu vì mục
đích sinh sản để bán giống, nên rất nhanh đã xẩy ra tình trạng
tượng bão hoà con giống và giá hươu đã sụt thảm hại. Còn nhớ lúc
thoái trào người ta phải giết hươu bán thịt và giá con hươu cái mổ
thịt chỉ còn dăm trăm ngàn đồng. Hàng loạt nhà nuôi hươu điêu
đứng, đàn hươu giảm sút nghiêm trọng, phải qua nhiều năm sau
mới phục hồi được.
Hiện tượng sốt giống cũng thất rõ ở ngành bò sữa những năm
giần đây. Ai cũng biết nuôi bò lai giữa bò vàng cải tiến với bò đực
Holstein Friz đời F1, F2 là phù hợp với điều kiện sinh thái và kinh
tế kỹ thuật của hầu hết các vùng và sẽ có lợi cho hộ nông dân nhỏ.
Thế nhưng từ kế hoạch ban đầu phát triển bò sữa trên 16 tỉnh
179
thành, người ta đua nhau mở rộng diện ra trên 30 tỉnh thành và thế
là chẳng tìm đâu ra cho đủ bò sữa để nuôi, các tỉnh đua nhau đi
nhập bò sữa từ nước ngoài. Những ai được lợi từ việc nhập giống
bò sữa từ nước ngòai thì không biết, nhưng các Công ty nhập và
xuất ở hai đầu thì lãi to, còn thiệt hại thì đã có nông dân và nhà
nước chịu, bởi giá giống bị đội lên, bởi nông dân nghèo, điều kiện
chăm sóc kém, không nuôi nổi bò ngoại. Kiểu làm dự án theo
phong trào này đã mang lai những hậu quả tai hại mà ai cũng thấy.
Tình hình sốt giống đã làm sai lệch mục tiêu của việc chăn
nuôi. Nuôi hươu là để lấy nhung, về lâu dài không thể trông mong
vào việc bán hươu con giá đắt. Nuôi bò sữa chủ yếu là để được
sữa, chứ không phải là để được con bê con. Nhưng giá giống cao
làm người ta ngộ nhận rằng, chỉ cần bò đẻ vài con bê là kéo lại
vốn, là hái ra tiền, thế nhưng cơn sốt nào mà chẳng có lúc hạ nhiệt
và thế là lỗ chỏng gọng, nhất là những người chậm chân đến sau
gặp lúc giống đã bão hoà. Mục tiêu sai thì đầu tư sai và kết cục là
thất bại. Bên cạnh một số hộ, một số vùng được chuẩn bị tốt, công
tác quản lý chăm sóc theo kịp thì kết quả còn khả quan, nhưng
phải nói rằng ở hầu hết các vùng mới nuôi bò sữa, tình hình là
đáng lo ngại, có nơi đã phá sản.
Trong lúc một số người say sưa với bò sữa thì nông dân nhiều
vùng lại chăm chút bò lai Sind nuôi thịt và thu được lợi lớn. Thế
nhưng đã bắt đầu xuất hiện dấu hiệu không bình thường là, hình
như ở một số nơi giá giống bò lai Sind là không thực tế, đã có
chiều lên cơn sốt. Các cán bộ khuyến nông, những người quản lý
nên giúp nông dân hiểu được tác hại của tình trạng này và rút lấy
các bài học đắt giá của chuyện sốt giống trước đây, để chúng
không lặp lại. Những cơn sốt giống gây hại lớn cho nông dân
180
nghèo - thành phần dễ tổn thương nhất trong xã hội, bởi họ ít có
khả năng chuyển đổi mỗi khi gặp trắc trở trong sản xuất.
3. Các giống chuyển đổi gen (GMO) và phát triển bền vững
Ở đây không bàn về chuyện có nên sử dụng hay không đối với
các sản phẩm chuyển đổi gen, mà chỉ nói về mối liên quan giữa
chúng với xóa đói giảm nghèo, chủ yếu là các sản phẩm trồng trọt.
Phải thừa nhận rằng một số giống được tạo nên từ kỹ thuật
chuyển đổi gen có thể tạo ra khả năng chống bệnh đối với một số
bệnh nào đó hoặc tạo nên năng suất cao. Nhiều nước tiên tiến dù
chưa công nhận việc sử dụng các sản phẩm GMO, nhưng vẫn tiếp
tục nghiên cứu theo hướng này vì về lâu về dài, công nghệ này
chắc sẽ có đóng góp quan trọng cho việc sản xuất thêm nhiều nông
phẩm để đối phó với tình trạng tăng dân số trên tòan cầu.
Trong những năm gần đây các Công ty đa quốc gia đã cổ động
và đưa nhiều giống chuyển đổi gen vào các nước đang phát triển
nhằm đẩy nhanh sản lượng góp phần xoá đói và tất nhiên cả mục
đích thu lợi nhuận.
Nhưng vấn đề xoá đói không chỉ là việc sản xuất đầy đủ lương
thực mà còn là việc cung cấp vững chắc và hưởng thụ lương thực
của một bộ phận dân cư dễ bị tổn thương. Đó chính là bộ phận
người nghèo những người sản xuất nhỏ ở nông thôn. Thật ra hiện
nay thế giới đang có đủ lương thực cho nhân lọai, nhưng tại sao
vẫn có hơn 800 triệu người nghèo đói, tại sao ở nhiều nơi nạn đói
vẫn hòanh hành. Đó là vì nhóm người này chủ yếu là ở các nước
đang phát triển không có khả năng tiếp cận lương thực, cũng có
nghĩa là không mua nổi lương thực. Đó là sự bất bình đẳng đáng
xấu hổ của thế giới văn minh này!
181
Các công ty đa quốc gia chính là người đang thông qua luật
quyền sở hữu trí tuệ để sử dụng thế mạnh kỹ thuật, nhân lực và vốn
để bảo đảm sự độc quyền. Các dòng (giống) được tạo ra theo “công
nghệ tận cùng (terminal technology)” đó là các dòng vô sinh để
đảm bảo rằng người nông dân không thể tiếp tục giữ giống được mà
chỉ có một cách là mua giống của các công ty đa quốc gia mà thôi.
Như vậy thì vấn đề nông sản phẩm GMO phải được phân tích
không chỉ trên góc độ sản lượng lương thực mà còn ở khâu an toàn
lương thực, tự cấp và bảo tồn các giống cây con bản địa. Việc sử
dụng GMO có thể làm xáo trộn sự đa dạng cây trồng, đồng thời gây
ra sự phức tạp về xã hội, luật pháp và cả chính trị nữa (C.
Chatalakhana, 2002).
Thật nực cười là trong khi nhiều nước đang phát triển có nông
phẩm xuất khẩu đang mỏi mắt trông mong các nước giàu mở rộng
cửa nhập khẩu chưa được, thì các công ty trên lại muốn họ hàng
năm nhập giống của mình để tăng thêm sản lượng! Sử dụng các
giống cao sản đồng nghĩa với tăng thêm dầu tư, không những cho
con giống mà cho cả phân bón, tưới tiêu, quản lý v.v Ý đồ buôn
bán độc quyền của các Công ty đa quốc gia là dễ nhận biết qua
việc họ hối thúc việc sử dụng các sản phẩm GMO, mặc dù nó đi
ngược lại lợi ích của các nước đang phát triển và ảnh hưởng xấu
đến việc gìn giữ đa dạng sinh học.
IV. PHÁT TRIỂN BÒ SỮA HỘ GIA ĐÌNH THEO HƯỚNG BỀN
VỮNG VÀ HIỆU QUẢ
Trong công cuộc chuyển dịch cơ cấu chăn nuôi, một đối tượng
đang được ưu tiên đầu tư, đó là ngành chăn nuôi bũ sữa.
182
Mấy năm gần đây Nhà nước có chủ trương đẩy mạnh việc phát
triển bò sữa trên toàn quốc nhằm đa dạng hoá ngành nghề nông
thôn, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho các hộ nông dân.
Với nhiều địa phương đây là một ngành nghề mới mẻ. Nhiều bất
cập đang phát sinh và cần được xem xét và giải quyết thấu đáo.
1. Những thuận lợi và trở ngại của ngành bò sữa
a. Thuận lợi
Thị trường nôị địa còn rộng mở, sữa tươi nguyên liệu cho các
nhà máy sữa chỉ mới chiếm khoảng 10% còn 90% phải nhập khẩu
chủ yếu là dạng sữa bột từ bên ngoài.
Sản xuất protein từ sữa được coi là phương thức hiệu quả nhất
(nhanh, rẻ nhất) so với sản xuất protein từ thịt.
- Nuôi bò sữa là cách thức tận dụng thức ăn sẵn có địa
phương, nhất là các sản phẩm phụ của cây trồng.
- Nước ta đã có sẵn đàn bò lai F
1
, F
2
(Holsstein Friz - Lai
Sind) thích hợp với khí hậu, trình độ người nuôi và cho một lượng
sữa khá 10kg/ngày.
- Nuôi bò sữa hiện nay vẫn có lãi, tuy có lúc phải lấy công làm
lãi.
- Nhà nước có chương trình và đang chú ý đầu tư cho ngành
bò sữa trong những năm tới.
b. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trên ngành chăn nuôi bò sữa cũng
đang đứng trước thách thức khó khăn:
183
- Trước hết là từ xa xưa dân ta không có thói quen ăn sữa và
chăn nuôi bò sữa, một đối tượng mẫn cảm, cần kỹ thuật cao và
chăm sóc tỉ mỉ. Có thể nói ngành nuôi bò sữa là ngành đòi hỏi kỹ
thuật cao nhất của ngành chăn nuôi gia súc.
- Thiếu vốn vì nông dân quá nghèo mà đối tượng nuôi lại to
vốn, nhiều hộ nông dân không vươn tới được.
- Thức ăn là một khâu trở ngại lớn nhất với người nuụi do.
Thức ăn xanh, thành phần chủ lực của khẩu phầ cho lòai nhai lại
luôn là vấn đề căng thẳng cả về số lượng và chất lượng do mùa
khô kéo dài, thiếu nước tưới. Thức ăn tinh ở nước ta lại đắt hơn
nhiều so với ở các nước trong vùng. So sánh giữa giá thức ăn tinh
và giá sữa tươi bán ra là thấy ngay sự bất lợi: 1kg sữa tươi bán ra
bình quân là trên 3000 đ chỉ mua được 1 kg thức ăn tinh có 16%
protein thô, trong lúc ở Thái Lan tiền bán 1kg sữa tươi mua được
2kg thức ăn tinh.
- Khí hậu nóng ẩm là những yếu tố trở ngại lớn cho sự thích
nghi và tăng năng suất sản phẩm sữa. Nhiệt độ môi trường cao sẽ
gây trở ngại cho sự thải nhiệt làm bò kém ăn, tiết sữa thấp. Độ ẩm
cao là điều kiện tốt cho vi sinh vật gây bệnh phát triển.
- Kinh nghiệm của rất nhiều nước cho thấy không có hy vọng
nuôi giống bò sữa cao sản ở các nước đang phát triển vùng nhiệt
đới, ngoại trừ Israel với kỹ thuật rất hiện đại với khí hậu tuy nóng
nhưng khô.
- Tổ chức sản xuất yếu kém, các dịch vụ kỹ thuật và thú y
chưa tốt mà nghề nuôi bò sữa luôn tiềm ẩn rủi ro, nông dân nghèo
184
không dễ tiếp nhận. Vì vậy người nghèo thường hay ví von nghề
bò sữa là nghề “vốn to, rủi ro lớn”.
Từ những bất lợi về khí hậu nóng ẩm và giá thức ăn tinh cao
cho ta rút ra kết luận là không thể hy vọng nuôi bò thuần cao sản
để có nhiều sữa và hạ giá thành như một số người lầm tưởng. Con
đường phát triển bò sữa đúng đắn nhất ở hộ nông dân là dùng bò
lai, tận dụng các loại thức ăn xanh và phụ phẩm nông nghiệp để có
lãi. Con đường nhập bò cao sản để tăng năng suất hòng cạnh tranh
với sữa bên ngòai, nơi có điều kiện sinh thái thuận lợi hơn ta lại
được trợ giá xuất khẩu là cả một điều không tưởng!
Có thể nói từ năm 1990 trở lại đây đàn bò sữa nước ta đã có
bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn năng suất. Đặc biệt là
từ sau khi có chương trình phát triển bò sữa quốc gia ( 2000 ), số
đầu bò sữa và sản lượng sữa đã phát triển rất nhanh. Trên cơ sở
đàn bò đông đảo này, chúng ta đang chọn lọc để có đàn bò sữa
đồng đều với chất lượng cao hơn.
Bảng 25. Sự phát triển đàn và năng suất sữa
Phát triển đàn (đ/v: 1000 con)
Năm 1990 1992 1994 1996 1998 2000 2001 2002
Đầu con 11.0 13.1 16.05 22.0 27.0 35.0 45.0 59.1
Năng suất sữa (đ/v:1000kg)
Lai sind 2.1 2.2 2.3 2.5 2.8 3.1 3.3 3.4
Bò HF 2.8 3.2 3.3 3.4 3.6 3.7 3.85 4.2
Tài liệu của Cục KNKL (Bộ Nông nghiệp và PTNT)
185
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến (nuôi bò sữa)
Có thể phân biệt ra các nhóm nhân tố:
- Nhóm các nhân tố tự nhiên
- Nhóm các nhân tố kinh tế xã hội
- Nhóm các nhân tố kỹ thuật và tổ chức sản xuất
a/ Cỏc nhõn tố tự nhiờn
* Khí hậu, thời tiết
Bò sữa là động vật mẫn cảm với môi trường đặc biệt là nhiệt
độ và độ ẩm.
Các giống bò ôn đới như Holstein Friesian được phát triển tốt
nhất ở nhiệt độ 18-20
0
C và độ ẩm thích hợp là 60-75%. Nhiệt độ
<5
0
C hoặc >37
0
C được coi là nhiệt độ gây hại có thể dẫn đến
ngừng tiết sữa hoặc chết.
Các giống bò nhiệt đới như Red Sindhi, Sahiwal có năng suất
sữa thấp thì lại dễ thích nghi với nhiệt độ từ 20-30
0
C. Bò lai giữa
bò vàng cải tiến (có máu Red Sindhi) và bò đ ực HF biểu hiện sự
thích nghi rất tốt với khí hậu nước ta. Các bò sữa HF thuần nhập
nội thấy thích nghi được với với các cao nguyên mà rõ nhất là
Mộc Châu.
Khí hậu thời tiết ảnh hưởng trực tiếp lên con vật, mà còn có
ảnh hưởng cả đến tình hình dịch bệnh và việc sản xuất thức ăn cho
gia súc nói chung và bò sữa nói riêng.
* Đất đai đồng cỏ, nguồn nước
Đất đai có liên quan đến chuồng trại, sân chơi, đến đồng cỏ.
Phải nói là ở nước ta khái niệm đồng cỏ là hết sức chật hẹp ngoài
186
các bãi cỏ tự nhiên. Nhưng đã nói đến việc trồng cỏ, trồng cây
thức ăn xanh mà năng suất cây thức ăn xanh lại lệ thuộc chủ yếu
vào nguồn nước và phân bón.
Những nơi muốn phát triển chăn nuôi bò sữa phải nghĩ đến
đồng cỏ, đó là yếu tố hạn chế nhất. Ta biết bãi cỏ tự nhiên ở nước
ta cằn cỗi do thiếu nước, thiếu màu mỡ nên sản lượng cỏ chỉ có
khoảng 8 tấn/ha/năm. Để có sản lượng cỏ cao, cần phải thâm canh
và do đó phải cần rất nhiều nước. Cỏ thâm canh thường được thu
hoạch hàng tháng, lượng sinh khối như thế là rất lớn, cần được
tưới hàng ngày vì vậy mà không lạ là trồng cỏ cần nhiều nước hơn
trồng lúa. Các tỉnh miền núi, nguồn nước hạn chế cần phải tính
toán kỹ về quy mô phát triển bò sữa vì nó liên quan đến trồng cỏ
và thâm canh.
b. Những yếu tố kinh tế xã hội
*. Thị trường
Cần khảo sát kỹ thị trường, không nên thấy thị trường sữa là
vô hạn, bởi vì nó còn lệ thuộc rất lớn đến quy luật giá trị, quy luật
cung cầu và quy luật cạnh tranh. Sữa bột nhập khẩu là đối tượng
cạnh tranh đáng sợ của sữa tươi, nhất là khi kinh tế đã hội nhập.
*.Vốn
Vốn là cái khó đầu tiên của nông dân. Nuôi bò sữa cần vốn
lớn, để mua con giống, xây chuồng trại và trang thiết bị, đầu tư
cho thức ăn, thuê lao động (nếu quy mô lớn)
* Lao động
187
Ngành nuôi bò sữa tạo nên công ăn việc làm, nhưng lao động
của ngành này đòi hỏi kỹ thuật, chăm sóc công phu, do đó mà
công tác huấn luyện nông dân là rất quan trọng.
* Giao thông
Vấn đề giao thông liên quan đến vận chuyển chế biến và tiêu
thụ sản phẩm, bởi sữa là sản phẩm rất dễ hỏng nếu không được
vận chuyển nhanh đến nơi bảo quản lạnh và sau đó để chế biến.
* Các chính sách kinh tế xã hội
Nhà nước đã có chính sách khuyến nông, trợ giá, tín dụng
nhằm đẩy mạnh phát triển sữa ở nông hộ. Đây là thuận lợi lớn,
nhưng nó chỉ có thể hỗ trợ chứ không thể là yếu tố quyết định. Bởi
sản xuất là công việc của người dân và nó sẽ phát triển khi đem lại
lợi ích cho người nuôi.
c/ Những nhân tố kỹ thuật và tổ chức sản xuất
* Nhân tố kỹ thuật
- Con giống:
Giống bò sữa thích hợp là vấn đề nổi cộm hiện nay. Ta đã có
các nhóm bò lai thích hợp, tuy lượng sữa không cao nhưng vừa
tầm người nuôi và đem lại lợi nhuận cho nông dân.
Do sự phát triển ồ ạt những năm gần đây (tính ra đã có 30 tỉnh
thành đã nuôi bò sữa) nên đã đẩy giá giống lên mà ta gọi là cơn
“sốt giống”. Sốt giống tức là đẩy giá cả vượt quá giá trị thực có.
Người nuôi không tính nhiều đến mục tiêu khai thác sữa mà nhằm
vào con bê giống đẻ ra để bán được nhiều tiền. Nhưng sản phẩm
cuối cùng của bò sữa là sữa chứ không phải là bê. Sau một số năm,
nhu cầu con giống chững lại thì sự đổ vỡ là không tránh khỏi.
188
Chính trong tình hình sốt giống (sốt giá) người ta đã nghĩ đến
việc nhập bò sản xuất (bò tơ loại bình thường, chưa qua chọn lọc)
từ nước ngoài. Dư luận đã nhiều, có điều là nên tính toán lợi ích
lâu dài và không nên nhập đại trà cho nông dân nghèo nuôi. Giống
nhập nội nói cho cùng thì kém thích nghi, càng khó đạt mức cao
sản và chắc gì đã có lãi. Nước ta còn rất nghèo, tiền cần đầu tư
trước hết cho những lợi thế kinh tế khác không thể đi nhập bò sữa
thuần với mục đích khai thác sữa. Nên khuyến khích việc đầu tư
mua một số bò giống từ vùng nhiệt đới có lý lịch rõ ràng dễ thích
nghi để nuôi ở các Trung tâm hoặc trang trại lớn được trang bị tốt,
sau đó tiến hành chọn lọc một cách hệ thống khắt khe để mong sao
sau vài chục năm ta có được một đàn bò sữa hạt nhân tốt, có năng
suất cao hơn và thích hợp với điều kiện sinh thái, kinh tế nước ta.
Kinh nghiệm của Đài Loan trong việc nhập bò sữa nước ngoài, sau
chọn lọc loại thải chỉ còn giữ được 30%, nhưng đó là một đàn bò
sữa rất quý.
Ngay từ đầu Nhà nước ta vẫn chủ trương phát triển bò sữa gia
đình nên chủ yếu là tạo bò lai lấy sữa, đó là hướng đi đúng và lâu
dài. Đáng tiếc là sau đó nhiều địa phương đã đua nhau nhập ồ ạt
đàn bò sản xuất mà việc chọn mua lai giao cho các công ty, rất ít
hiểu biết về bò sữa và sau đó sự phân bố bò cũng không được
hướng dẫn.
Việc nhập ồ ạt bò sữa thương phẩm (không phải để làm giống)
với giá khá cao những năm gần đây cho thấy là một sai lầm không
chỉ về phương diện kinh tế mà còn ở góc độ thích nghi (thích nghi
khí hậu lẫn kỹ thuật). Xem ra rất ít nơi nuôi bò nhập nội thành
công và nếu nuôi được thì cái giá phải trả (cả vốn lẫn lãi suất) là
khá cao. ( Hai tỉnh phía Bắc nhập hàng nghìn bò sữa nước ngoài
189
về nuôi là Tuyên Quang và Thanh Hoá đã thất bại vì nông dân yếu
cả về tổ chức lẫn kỹ thuật, đã phải bán lại cơ sở cho Vinamilk một
Công ty sữa lớn quản lý 2008 )
- Thức ăn:
Thức ăn thô xanh có thể xem là khâu thành bại trong việc nuôi
bò sữa ở nước ta. Bò là loại nhai lại chỉ có cung cấp đầy đủ thức
ăn thô xanh cho nó thì các hoạt động sinh lý mới được tiến hành
bình thường, tránh được các stress dẫn đến bệnh tật. Kinh nghiệm
cho thấy việc cho quá nhiều thức ăn tinh vào khẩu phần sẽ dẫn tới
rối loạn, các bệnh về chân và thậm chí ảnh hưởng đến sức sinh
sản. Gần đây có Công ty đã cổ súy cho cái gọi là kỹ thuật trồng cỏ
hỗn hợp của Úc (chỉ biết là các chuyên gia đồng cỏ hàng đầu của
Úc lại hoàn toàn xa lạ với cái công nghệ ấy) người ta muốn ta dập
khuôn công nghệ trồng cỏ đậu hỗn hợp với cỏ họ thảo (mỗi loại 3
giống cỏ) với thâm canh cao độ, với mức phân hóa học tối đa và
nước tưới tiêu hoàn toàn chủ động. Đây là công thức nuôi không
có cơ sở khoa học, bởi cỏ bộ đậu có thời gian sinh trưởng dài hơn
không thể thu hoạch cùng lúc với cỏ hoà thảo. Thực tế cho thấy
sau một vài lần cắt thì cỏ bộ đậu gần như biến mất. Đáng buồn là
sau vài lần trình chiếu trên ti vi chẳng nông dân nào quan tâm đến
cái công nghệ ấy vì họ biết nó hoàn toàn không bền vững, sức
nông dân không theo được và nó phải chết yểu.
- Chăm sóc nuôi dưỡng: chăm sóc nuôi dưỡng bò mẹ lúc sinh
sản, lúc vắt sữa để nó sống và duy trì mức sản xuất được bền lâu.
Phải cung cấp đủ dinh dưỡng theo yêu cầu duy trì và sản xuất, còn
phải đảm bảo tỷ lệ thức ăn xanh thô và thức ăn tinh hợp lý đảm
bảo quá trình tiêu hoá dạ cỏ được tiến hành bình thường.
190
- Công tác thú y:
Nuôi bò sữa vùng nhiệt đới là một công việc phức tạp dễ xảy
ra rủi ro phát sinh bệnh mà thường thấy là các bệnh viêm bầu vú,
đường sinh sản, các bệnh ký sinh trùng. Mạng lưới thú y ở vùng
nuôi bò sữa phải được củng cố, đặc biệt là ở các vùng vừa nhập bò
sữa.
Hình thức phổ biến nhất của ngành bò sữa Việt Nam là dựa
trên hộ gia đình với từ dăm ba con đến hàng chục con. Hình thức
trang trại vừa và lớn chắc chắn chỉ chiếm một tỷ lệ không lớn.
Hiện nay có tình trạng có nơi mua bò nhưng vẫn chưa có
phương thức nuôi. Nói cho cùng thì hình thức gì cũng phải đảm
bảo người nông dân là chủ thực sự và có lợi ích trong việc nuôi,
không thể nuôi tốt bò nếu như vẫn coi nó là “ bò dự án”. Tất nhiên
ở những nơi mới nuôi nông dân chưa có hiểu biết và kinh nghiệm
thì đây là một khó khăn lớn, bởi vì người nông dân không dễ gì
làm quen với kỹ thuật mới này. Phải thừa nhận rằng trong ngành
chăn nuôi nói chung thì nuôi bò sữa là nghề đòi hỏi kỹ thuật cao
hơn cả. Đáng buồn là một số địa phương miền núi, người ta đã
giao cả bò sữa cho những gia đình chỉ quen nuôi lợn thả rông. Vấn
đề quy hoạch và nuôi bò sữa là quan trọng, cần có thêm nghiên
cứu. Về lâu dài chăn nuôi bò sữa phải đẩy xa thành thị bởi các
Trung tâm thành thị còn mở rộng và vì vấn đề ô nhiễm môi
trường. Người ta chở sữa về thành phố chứ không ai chở cỏ về
thành phố. Các nước dạy ta bài học này.
Tóm lại việc phát triển bò sữa hộ gia đình là chủ trương đúng
và sẽ đem lại lợi ích cho người nông dân nếu có bước đi đúng và
các biện pháp thích hợp. Hàng loạt các tỉnh mới nuôi bò sữa lần
191
đầu đang gặp rất nhiều khó khăn thậm chí phá sản. Đây là hậu quả
của việc làm kinh tế theo kiểu phong trào, chỉ đạo từ trên xuống
mà không thấy hết trở ngại của việc sản xuất cây thức ăn và trình
độ yếu về quản lý kỹ thuật của nông dân ít được huấn luyện. Cũng
cần nói thêm là ở nhiều nơi, nông dân không quan niệm được đây
là chuyển dịch kinh tế gia đình chứ không phải là nuôi thêm mấy
con bò sữa. Do qui mô nuôi quá ít vài ba con bò sữa nên người ta
không bố trí lại sản xuất trồng trọt, không chịu dành đất cho cây
thức ăn dẫn đến tình trạng bò sữa luôn bị thiếu thức ăn xanh.
Khi họach định kế họach phát triển bò sữa dài hạn, cần xem
xét kỹ yếu tố thị trường cạnh tranh sau khi gia nhập WTO, qua đó
xác định mức độ tự túc nguyên liệu sữa nội địa và xác định các địa
bàn phát triển có lợi nhất. Rõ ràng là ngành bò sữa chỉ có thể phát
triển tốt khi nó khai thác được nguồn thức ăn sẵn có, con giống
sẵn có và mang lại thu nhập tốt cho người nông dân. Có thế sự
phát triển mới bền vững, nhất là trong điều kiện sau hội nhập. Tất
nhiên Nhà nước sẽ phải có các chính sách tín dụng và các chính
sách khuyến khích khác đối với người nghèo. Sữa học đường có
thể sẽ phải đặt ra nhất là đối với các vùng xa, khó tiêu thụ.
V. ĐỂ CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN SỮA PHỤC VỤ LỢI ÍCH
NGƯỜI NGHÈO
Nghề nuôi bò sữa chắc chắn không phải là cho tầng lớp nghèo
nhất của nông thôn Việt Nam, nhưng những gia đình có thể nuôi
5-7 con bò sữa với tín dụng ưu đãi của nhà nước thì cũng chưa thể
được coi là hộ giàu. Thực ra, họ vẫn là những nông dân nghèo so
với các nước ở trong vùng. Thành công của Ấn Độ, Thái Lan
trong phát triển bò sữa gia đình là bài học tốt đối với Việt Nam.
192
Ngoài sự hỗ trợ tín dụng của nhà nước, thì sự giúp đỡ về huấn
luyện, hướng dẫn kỹ thuật và dịch vụ kỹ thuật sẽ là đóng góp đáng
kể cho nông dân. Cơ quan khuyến nông cần phải giúp nông dân
lựa chọn các công nghệ thích hợp như chọn bò lai, tổ chức sản
xuất thức ăn, phòng trị bệnh , giúp họ tránh bớt rủi ro và có thu
nhập chắc chắn. Đây cũng là cách giúp nông dân tiếp cận dần với
sản xuất hàng hóa. Vì thế phải hết sức tránh xu hướng giới thiệu
các công nghệ cao, đầu tư lớn, quá khả năng và hiểu biết của
người nông dân nhỏ. Những cái ấy có thể là thích hợp với các
trang trại vừa và lớn, nhưng lại xa lạ với các hộ nhỏ.
Có thể là trong tương lai gần, cần có một chính sách “ Sữa cho
học đường” nhằm những mục tiêu:
- Góp phần tạo nên những thế hệ con người cường tráng hơn
cho tương lai.
- Giúp giải quyết đầu ra cho những vùng mới phát triển sữa,
lại xa nhà máy chế biến.
- Góp phần giữ giá sữa tươi giúp người nuôi bò sữa trong điều
kiện cạnh tranh với sữa bột nhập từ bên ngoài
Khi tổng kết thành công của sự phát triển sữa 40 năm qua (từ
1960-2000) các bạn Thái Lan đã rút ra 4 yếu tố thành công:
Về kỹ thuật: Đó là tạo giống lai bằng thụ tinh nhân tạo và tăng
cường công tác quản lý
Về xúc tiến phát triển: Đó là chương trình sữa Thái Lan, Đan
Mạch và sau đó là sự tổ chức xúc tiến bò sữa Thái Lan DPOT
(Dairy Promotion Organization of Thailand)
193
Về thị trường: Đó là nhà máy chế biến sữa tiệt trùng, đó là quy
định chặt chẽ việc nhập sữa bột, cứ mua 20kg sữa tươi của nông
dân thì được phép nhập 1kg sữa bột.
Sự ủng hộ vô cùng quý giá của vua Thái, người là ngọn cờ và
đã cổ động sáng lập hợp tác xã sữa trong toàn quốc.
Thế nhưng chính nông dân Thái Lan cũng đang lo lắng trước
toàn cầu hóa, khi quy định hạn chế nhập sữa bột sẽ chấm dứt vì
hàng rào thuế quan bảo vệ ngành sữa của Thái Lan bị dỡ bỏ ngay
từ tháng 1 năm 2005. Hiệp ước mậu dịch tự do giữa Thái và Úc có
hiệu lực, và sắp tới Thái cũng sẽ ký hiệp ước tương tự với New
Zealand là những cường quốc sản xuất và xuất khẩu sữa bò. Nông
dân Thái Lan hiện đang đấu tranh với Nhà nước để có các đảm
bảo cho sự phát triển tiếp tục của ngành sữa hộ gia đình.
194
Chương 9
SỰ THAY ĐỔI CẤU TRÚC CHĂN NUÔI TRONG
HỘI NHẬP VÀ THÁCH THỨC
ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG HỘ
Sự phát triển nhanh chóng của dân số, của quá trình đô thị hoá,
sự tăng thu nhập của cộng đồng thúc đẩy nhu cầu sản phẩm động
vật tăng mạnh. Hội nhập kinh tế dẫn đến sự thay đổi to lớn trong
cấu trúc chăn nuôi. Chăn nuôi sẽ phát triển nhanh theo hướng công
nghiệp quy mô lớn, đầu tư sâu, quay vòng nhanh. Sự tập trung hoá
theo vùng địa lý đem lại hiệu quả cao và sự liên kết dọc sẽ làm cho
chuỗi sản xuất dài ra. Hệ quả là bên cạnh mặt được thì người sản
xuất nhỏ sẽ khó có cơ hội tiếp cận thị trường. Nhận rõ các thay đổi
ấy trong hội nhập kinh tế là điều quan trọng để có được các chính
sách phù hợp, các thể chế cần thiết, điều chỉnh sự phát triển kịp
thời theo hướng bền vững nhằm đảm bảo sinh kế cho người nghèo
- thành phần dễ tổn thương nhất trong hội nhập kinh tế.
I. SỨC TIÊU THỤ VÀ NHU CẦU PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI
ĐẾN NĂM 2020
Theo dự tính của FAO thì nhu cầu sản phẩm chăn nuôi trong
15 năm tới sẽ tăng đáng kể, nhất là ở thế giới đang phát triển,
những nơi mà cho đến nay mức tiêu thụ protein/ đầu người vẫn
còn quá thấp.
Hiện nay một nửa dân số của thế giới này vẫn ở mức nghèo
(dưới 2 USD / đầu người / ngày) trong đó có 3 tỉ người ở châu Á.
195
Sự phát triển của đô thị hoá, GDP không ngừng tăng, kéo theo sự
tăng thu nhập của dân chúng làm cho nhu cầu protein động vật
tăng mạnh. Nếu trước đây do nghèo túng, người ta cần nhiều thức
ăn giàu năng lượng thì càng ngày sự đòi hỏi về protein sẽ càng
cao. Sự thay đổi cấu trúc chăn nuôi được xúc tiến bởi những điều
kiện thuận lợi như giá hạt nông phẩm (ngô, đậu tương) rẻ, năng
lượng (dầu khí) có sẵn, các công nghệ hữu hiệu (di truyền và nuôi
dưỡng). Ngoài ra sự tự do hoá thị trường cũng là yếu tố quan
trọng.
Dưới đây là một số tư liệu nói lên sức tiêu thụ sản phẩm chăn
nuôi và nhu cầu dự kiến cho đến 2020.
Bảng 26: Tiêu thụ sữa và thịt/đầu người trong
các vùng của thế giới
Khu vực
Thịt Sữa
1983 1997 1983 1997
(kg/người/năm)
Trung Quốc 16 43 3 8
Các nươc Đông Nam Á 11 18 10 12
Ấn Độ 4 4 46 62
Các nước Nam Á khác 6 9 47 63
Châu Mỹ La Tinh 40 54 93 112
Tây Á - Bắc Phi 20 21 86 73
Tiểu vùng Sahara châu Phi 10 10 32 30
Mỹ 107 120 237 257
Các nước đang phát triển 14 25 35 43
Các nước đã phát triển 74 75 195 194
Thế giới 30 36 76 77
Nguồn: FAO (2000).
Bảng 27: Chiều hướng tăng trưởng sử dụng
thức ăn chăn nuôi
196
Các khu vực
Tổng số ngũ cốc sử dụng làm thức ăn chăn nuôi
1983 1993 1997 2020
(Triệu tấn)
Trung quốc 40-49 78-84 91-111 226
Ấn Độ 2 3 2 4
Các nước Nam Á khác 3 7 8 12
Các nước Đông Nam Á 1 1 1 3
Châu Mỹ La tinh 6 12 15 28
Tây Á và Bắc Phi 40 55 58 101
Tiểu vùng Sahara châu Phi 24 29 36 61
Các nước phát triển 2 3 4 8
Các nước đã phát triển 128 442 425 611
Thế giới 592 636 660 954
Nguồn: FAO (2000).
Bảng 28: Dự đoán tiêu thụ thịt và sữa trong giai đoạn 1997-2020
197
Các vùng
Chiều hướng tăng
trưởng giai đoạn
1997-2020
Tổng tiêu thụ
năm 2020
Tiêu thụ trên
đầu người năm
2020
Thịt Sữa Thịt Sữa Thịt Sữa
(%) (Triệu tấn) (kg)
Trung Quốc 3.1 3.8 107 24 73 16
Ấn Độ 3.5 3.5 10 133 8 105
Các nước Đông Á khác 3.2 2.5 5 2 54 29
Các nước Nam Á khác 3.5 3.1 7 42 13 82
Các nước Đông Nam Á 3.4 3.0 19 12 30 19
Các nước châu Mỹ La tinh 2.5 1.9 46 85 70 130
Riêng Brazil 2.4 1.8 20 30 94 145
Các nước Tây Á - Bắc Phi 2.7 2.3 13 42 26 82
Tiểu vùng Sahara châu Phi 3.2 3.3 11 35 12 37
Các nước đang phát triển 3.0 2.9 217 375 36 62
Các nước đã phát triển 0.8 0.6 117 286 86 210
Thế giới 2.1 1.7 334 660 45 89
Nguồn: FAO (2000)
Từ các số liệu trên có thể thấy mức tiêu thụ sản phẩm động vật
của các nước đang phát triển đặc biệt là ở Đông Nam Á, Nam Á,
châu Phi trước đây là rất thấp và nhu cầu tăng tiêu thụ còn rất lớn
trong các thập kỷ kế tiếp. Với nhu cầu protein động vật tăng mạnh
trên thị trường thì đòi hỏi về ngũ cốc dùng làm thức ăn chăn nuôi
tăng khá cao, gấp 1,5 lần trong vòng 20 năm. Đây là thử thách
nghiêm trọng đối với nông nghiệp nói chung.
II. ĐẶC TRƯNG CỦA SỰ THAY ĐỔI CẤU TRÚC CHĂN NUÔI
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ:
198
Sự thay đổi cấu trúc chăn nuôi trên toàn cầu theo Steinfeld
(2002) mang các đặc trưng:
* Chuyển từ tính địa phương sang tính toàn cầu.
* Chuyển từ các hoạt động định hướng cung sang định hướng
cầu.
* Chuyển từ tính đa dụng sang chuyên dụng thực phẩm hàng
hoá.
* Chuyển từ nông thôn, dựa trên ruộng đất sang thành thị,
công nghiệp.
Vậy thì hệ quả của sự thay đổi cơ cấu chăn nuôi là gì ?
- Trước hết đó là sự xúc tiến đầu tư sâu (thâm mục) mang tính
công nghiệp, năng suất cao và quay vòng nhanh.
- Tăng quy mô chăn nuôi phù hợp với mức độ đầu tư và trang
bị.
- Mật độ tập trung cao ở một số vùng địa lý.
- Liên kết theo chiều dọc, chuổi ngành hàng dài ra từ trại chăn
nuôi (sản xuất) đến nhà máy giết mổ (chế biến) và đến tận siêu thị
(tiêu thụ).
Nếu trước đây chăn nuôi luôn đi cùng trồng trọt trong một hệ
thống nông nghiệp kết hợp, thì nay do người ta dễ dàng tìm được
thức ăn công nghiệp trên khắp thị trường thế giới, do đó mà chăn
nuôi công nghiệp không còn phụ thuộc vào ruộng đất nữa (trừ đại
gia súc).
Quy mô chăn nuôi ngày càng lớn, số trại chăn nuôi theo đó
cũng ít dần. Các công ty lớn dần dần chiếm thế thượng phong. Có
thể nêu ra một số ví dụ ở một số nước đang phát triển: ở Philippine